Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử nhìn từ hình tượng nhân vật hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ trong hai tác phẩm: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác) và gió lửa (Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.22 KB, 9 trang )

VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

SỰ THẬT VÀ HƯ CẤU TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
NHÌN TỪ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HỒNG ĐẾ QUANG TRUNG
- NGUYỄN HUỆ TRONG HAI TÁC PHẨM: SÔNG CƠN MÙA LŨ
(NGUYỄN MỘNG GIÁC) VÀ GIĨ LỬA (NAM DAO)


ĐỖ THỊ THU THỦY

Tóm tắt
Một trong những đặc điểm của tiểu thuyết lịch sử nhìn từ phương pháp sáng tác là sự kết hợp giữa
tính chân thực khách quan của lịch sử với khả năng hư cấu, tưởng tượng để mỗi câu chuyện, nhân vật
hiện lên trong tác phẩm như một chỉnh thể nghệ thuật sống động, khơng chỉ là hình ảnh thuộc về quá
khứ mà còn là “tấm gương” phản chiếu những vấn đề hiện tồn của con người và đời sống xã hội.
Là một anh hùng dân tộc, sự nghiệp chính trị gắn liền với triều đại Tây Sơn và giai đoạn bão táp
của lịch sử những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Quang Trung - Nguyễn Huệ trở thành nhân vật
trong một số tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ trung đại đến hiện đại, trong đó đáng kể nhất là hai tác
phẩm: Sơng Cơn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác và Gió lửa của Nam Dao. Phân tích mối tương quan
giữa yếu tố thuộc về “sự thật lịch sử” và tưởng tượng, hư cấu trong cách nhìn, cách miêu tả về nhân vật
này, bài viết khẳng định sự vận động tư duy tiểu thuyết lịch sử cũng như sự đa dạng của phong cách cá
nhân trong sáng tác văn học Việt Nam sau 1975.
Từ khóa: Sự thật, hư cấu, tiểu thuyết lịch sử, Quang Trung - Nguyễn Huệ, Sơng Cơn mùa lũ, Gió lửa
Abstract
One of the characteristics of historical fiction seen from the creation method is the combination of
the objective truthfulness of history and the possibility of fiction and imagination so that each story
and character appears in the work as a perfect whole of living art , not only an image of the past but
also a “mirror” reflecting existing problems of human and social activities.
As a national hero, the political career associated with the Tay Son dynasty and the stormy period of
the history of the late eighteenth and early nineteenth centuries, Quang Trung - Nguyen Hue became a
character in several Vietnamese historical novels from the medieval to the modern, the most significant


of which are two works: Con River in flood season by Nguyen Mong Giac and Fire Wind of Nam Dao.
Analyzing the correlation between the element of “historical truth” and imagination, fiction in the view,
the way of description of this character, the article affirms the movement of historical novel thinking as
well as the diversity of individual styles in Vietnamese literary creation after 1975.
Keywords: Truth, fiction, historical fiction, Quang Trung - Nguyen Hue, Con river in flood season
(Sơng Cơn mùa lũ), Fire Wind (Gió Lửa)
1. Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong
tiểu thuyết lịch sử Việt Nam qua các giai
đoạn, thời kỳ
1.1. “Tiểu thuyết lịch sử là thuật ngữ chỉ
một loại hình tiểu thuyết hoặc tác phẩm tự sự
hư cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính”
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

[11, tr.1725]. Đảm bảo tính chân thật, khách
quan của lịch sử, vì thế, trở thành nguyên tắc
“ràng buộc” đối với nhà văn. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc: nhà văn không thể viết
tiểu thuyết lịch sử nếu thiếu những nghiên
cứu công phu, những hiểu biết sâu sắc về nhân

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

73


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU


vật, giai đoạn mà mình quan tâm. Tuy nhiên,
là một loại của tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử
cũng mang đặc trưng riêng của tác phẩm văn
học được khu biệt bởi tính chất hư cấu, tưởng
tượng. Đặc tính này không chỉ xác lập ranh giới
giữa tiểu thuyết lịch sử và sử ký mà còn cho
thấy sự rộng mở, phong phú trong những tìm
kiếm, khái quát về con người, đời sống do biên
độ của hư cấu, tưởng tượng nghệ thuật mang
lại. Một là, khả năng tái hiện nhân vật trong
sự tồn vẹn, có tính cách, số phận riêng trong
tương quan với các nhân vật, các mối quan
hệ khác mà sử liệu ít hoặc khơng đề cập tới.
Chính vì vậy, hư cấu thường gắn liền với chủ
ý nhà văn: đem đến một cách diễn giải/diễn
ngôn khác về lịch sử, nhiều khi xa lạ với mặc
định truyền thống. Nhà văn Nam Dao gọi đó
là cách “truy lùng sự sống tàng ẩn trong lịch
sử”, khiến lịch sử có một diện mạo, chỉnh thể
đủ đầy, bao gồm cả vấn đề “nhân quần xã hội
và thân phận con người”. Hai là, khai thác câu
chuyện lịch sử cũng là một cách để tư duy về
những vấn đề của hiện tại, của “thời ta sống”
chứ không phải chỉ là chuyện đã qua. Ở đây,
nhân vật và sự kiện lịch sử chỉ là cái cớ, là lựa
chọn nghệ thuật. Bằng khả năng tưởng tượng,
óc phán đốn, trải nghiệm cá nhân, nhà văn
cảm nhận từ quá khứ những vấn đề hiện tồn
của con người và xã hội. Trong trường hợp này
tác giả khơng câu nệ bất cứ điều gì, kể cả đôi

khi “cưỡng bức lịch sử” để thai nghén ra tiểu
thuyết.
1.2. Nhìn trong tiến trình văn học Việt Nam,
những tác phẩm tự sự lịch sử xuất hiện đầu
tiên dưới hình thức sử ký, phản ánh tính chất
văn - sử bất phân trong tư duy nghệ thuật
trung đại như: Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu, thế kỷ
XIV), Đại Việt sử ký tồn thư (Ngơ Sĩ Liên, thế kỷ
XV), các bộ cương mục, thực lục,… ở các thế kỷ
sau. Tuy quy mơ, thể thức có ít nhiều khác biệt
song về căn bản dạng tác phẩm này đều tuân
thủ nguyên tắc của sử ký: ghi chép lại sự kiện,
câu chuyện “người thật, việc thật” của quá khứ
74

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

theo lối biên niên. Đến thế kỷ XVIII bắt đầu
xuất hiện một số tiểu thuyết lịch sử chương
hồi chữ Hán như: Nam triều cơng nghiệp diễn
chí (1719, Nguyễn Khoa Chiêm), Hồng Việt
long hưng chí (1899, Ngơ Giáp Đậu), điển hình
hơn cả là Hồng Lê nhất thống chí của Ngơ gia
văn phái. Tuy vẫn còn ảnh hưởng bút pháp
sử ký song tiểu thuyết chương hồi đánh dấu
bước phát triển trong tư duy nghệ thuật thể
loại xét ở nhiều phương diện: tổ chức kết cấu,
xây dựng nhân vật, giọng điệu… Tuy nhiên,
phải sang đầu thế kỷ XX, cùng với tác động của
bối cảnh lịch sử và cơng cuộc hiện đại hóa văn

học, tiểu thuyết lịch sử mới nở rộ và phát triển
thành dịng riêng với đặc trưng khu biệt về
loại thể. Ngồi một số tác phẩm viết theo lối cũ
(chữ Hán, kết cấu chương hồi) ảnh hưởng văn
học Trung Hoa như Trùng Quang tâm sử (Phan
Bội Châu), đáng chú ý là sự xuất hiện loạt tiểu
thuyết văn xuôi quốc ngữ ảnh hưởng lối viết
phương Tây như: Giọt máu chung tình, Gia
Long phục quốc (Tân Dân Tử); Tiếng Sấm đêm
đông, Trần Nguyên chiến kỷ, Việt Thanh chiến sử
(Nguyễn Tử Siêu); Vua Hàm Nghi, Hồi chuông
Thiên Mụ (Phan Trần Chúc); Chiếc ngai vàng,
Đỉnh non thần, Trong cơn binh lửa (Lan Khai); Bà
chúa Chè, Loạn kiêu binh (Nguyễn Triệu Luật);
Tiêu Sơn tráng sĩ (Khái Hưng); Lê Thái Tổ, Thoát
cung vua Mạc, bà quận Mỹ (Chu Thiên); Vũ Như
Tơ, Đêm hội Long Trì, An Tư cơng chúa (Nguyễn
Huy Tưởng) [11, tr.1728]... Ở những sáng tác
này, việc lựa chọn và khai thác đề tài lịch sử ít
nhiều có sự phân hóa theo các xu hướng, trào
lưu văn học đương thời nên trong nhiều tác
phẩm chất tiểu thuyết nổi trội hơn yếu tố lịch
sử.
Bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam từ 1945 về
sau với nhiều biến động mang tính bước ngoặt
gắn liền với vận mệnh dân tộc là tiền đề để
tiểu thuyết lịch sử tiếp tục phát triển và có sự
vận động trong tư duy nghệ thuật ở từng giai
đoạn, thời kỳ. Các sáng tác từ 1945 - 1975 như:
Bóng nước Hồ Gươm (Chu Thiên), Người Thăng



VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

Long (Hà Ân), Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng),
Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ),… thường mang
cảm hứng ngợi ca, tự hào về truyền thống
yêu nước, tinh thần quật khởi chống xâm lược
của cha ông qua việc xây dựng hình tượng
những anh hùng dân tộc xả thân vì nghĩa lớn.
Đây cũng là cảm thức chung của văn học giai
đoạn này gắn với mục tiêu “phục vụ chính trị,
cổ vũ chiến đấu”. Vì vậy, tác giả ln coi trọng
tư liệu và tính chân thật lịch sử, xem đây là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Các chi tiết hư cấu
nếu có, cũng chỉ là sự “thêm thắt”, bổ trợ góp
phần tạo dựng khơng khí sử thi lãng mạn cho
các câu chuyện, nhân vật. Từ 1975 đến nay,
đặc biệt là sáng tác sau 1986 của các tác giả:
Hoàng Quốc Hải (Tám triều vua Lý, Bão táp triều
Trần), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu), Nguyễn Xuân
Khánh (Hồ Quý Ly), Nguyễn Quang Thân (Hội
thề), Nguyễn Mộng Giác (Sông Côn mùa lũ),
Nam Dao (Đất trời, Gió lửa, Bể dâu), Nguyễn Thế
Quang (Nguyễn Du, Khúc hát những dịng sơng,
Thơng reo ngàn Hống), Ngơ Văn Phú (Cờ lau
dựng nước, Tuyên phi Đặng Thị Huệ), Vũ Ngọc
Tiến (Quỷ vương, Kẻ sĩ thời loạn), Bùi Việt Sỹ
(Chim ưng và chàng đan sọt), Phùng Văn Khai
(Phùng vương, Ngô Vương), Lưu Sơn Minh (Trần

Khánh Dư, Trần Quốc Toản), Uông Triều (Sương
mù tháng Giêng), Trần Thanh Cảnh (Đức thánh
Trần), Trần Thùy Mai (Từ Dụ thái hậu),… lịch sử
được sống lại theo một cách khác thông qua
sự hư cấu và mang đậm dấu ấn cá nhân, cá
tính của nhà văn. “Ngồi dịng chính sử, cịn có
phần lịch sử hình thành qua khả năng tưởng
tượng, óc phán đốn, và sự cảm nhận từ quá
khứ những vấn đề của con người và xã hội hiện
vẫn còn tồn tại. Ở đây, biến cố lịch sử trở thành
đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan,
nhào nặn lại để rồi, qua ngòi bút người viết,
thành tiểu thuyết… Lịch sử đó là lịch sử sống”
[3, tr.9]. Sự xuất hiện của một đội ngũ tác giả
đông đảo, nhiều thế hệ, trong đó có cả những
người viết trẻ: Trường An (Thiên hạ chi vương,
Vũ tịch, Hồ Dương), Phạm Thúy Quỳnh (Trăng
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

trong cõi)… và những cây bút không chuyên:
Thâm Giang Trần Gia Ninh (Kim thiếp vũ môn),
Đan Thành (Đất Việt trời Nam),… khiến việc
phản ánh và “xử lý” những vấn đề của lịch sử
trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Đó là chưa
kể khá nhiều truyện ngắn của những cây bút
giàu kinh nghiệm nghệ thuật như Nguyễn Huy
Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc), Sương
Nguyệt Minh (Dị hương), Trần Vũ (Mùa mưa
gai sắc, Gia phả)… Các tác giả huy động nhiều
nguồn tư liệu từ chính sử tới dã sử, từ truyền

thuyết tới nghiên cứu, khảo sát thực tế, rồi
bằng hư cấu, tưởng tượng phục dựng lại q
khứ trong hình thế đủ đầy, tồn vẹn hoặc thiết
kế, tân tạo lại lịch sử theo cách nhìn nhận riêng
của mình để đối thoại, phản biện, hiểu sâu sắc
hơn các vấn đề cũng như nhìn nhận chân xác
bản thân và cuộc sống. Trong xu hướng đổi
mới của toàn bộ nền văn học sau 1975, biên độ
của hư cấu, tưởng tượng trong những sáng tác
về đề tài lịch sử cũng được nới rộng tới mức tối
đa. Lịch sử trong tiểu thuyết đôi khi là một “tùy
tiện ý thức” với những ứng xử táo bạo thách
thức tư duy nghệ thuật truyền thống, song
nhờ thế, lại mang một dáng vẻ sống động,
gần gũi, đặt ra và lý giải nhiều vấn đề hiện tồn
mang tính phổ quát của con người và đời sống
đương đại.
2. Nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ:
ràng buộc lịch sử và biên độ của tưởng tượng
2.1. Xét về bản chất, hư cấu là nguyên
tắc của sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, khác
với tác phẩm văn học thông thường, hư cấu
trong tiểu thuyết lịch sử luôn chịu sự “ràng
buộc” nhất định liên quan tới nguồn sử liệu
hoặc truyền thuyết như một ký ức mặc định
của cộng đồng, đặc biệt với các nhân vật anh
hùng dân tộc: Phùng Hưng, Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ…
Tuy nhiên, nét khác thường từ con người, cuộc
đời, tính cách, số phận của các nhân vật này

cũng là một “hấp lực” với nhà văn bởi khả năng
“tiểu thuyết hóa”. Điển hình cho những sáng

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

75


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

tạo này là các tiểu thuyết về Quang Trung Nguyễn Huệ và cuộc khởi nghĩa Tây Sơn trong
bối cảnh diễn ra nhiều biến động dồn dập,
bão táp của lịch sử dân tộc những năm cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. “So với các nhân
vật anh hùng trong lịch sử Việt Nam, có lẽ ít
ai mà cuộc đời và sự nghiệp nhiều chất “hư
cấu” như Nguyễn Huệ: “những biến cố xảy ra
trong vịng mấy chục năm dính dáng tới ơng
đều đầy kịch tính, tương đối dễ cho ngịi bút
trong việc tưởng tượng sáng tạo. Chúng, tự
bản thân đã nhuốm vẻ tiểu thuyết” [8]. Có thể
thấy sự “quyến rũ” nghệ thuật của nguyên mẫu
lịch sử này ngay từ sáng tác đương thời như
Hồng Lê nhất thống chí (Ngơ gia văn phái)
cho tới sau này với những khám phá ngày
càng mới lạ, sống động trong các sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết), Lê Đình Danh
(Tây Sơn bi hùng truyện), Trần Vũ (Mùa mưa gai

sắc), đặc biệt là hai tiểu thuyết: Sơng Cơn mùa
lũ (Nguyễn Mộng Giác) và Gió lửa (Nam Dao).
Ngoài sự bề thế của thể loại tiểu thuyết so với
các truyện ngắn về cùng đề tài, điểm đáng lưu
ý ở hai tác phẩm này chính là bởi mối quan
tâm và cách tác giả của chúng tư duy về lịch sử,
nhờ thế không chỉ đem đến chân dung nhân
vật độc đáo, khác biệt ở từng tác phẩm mà còn
qua đó gửi đi những thơng điệp về con người,
đời sống và sáng tạo nghệ thuật, góp phần
vào vận động cũng như thành tựu của nền văn
xuôi Việt Nam giai đoạn sau 1975.
2.2. Viết Sông Côn mùa lũ trong những năm
tháng gian nan nhất của cuộc đời mình (1978
- 1981), cùng với kinh nghiệm sáng tạo phong
phú trước đó, Nguyễn Mộng Giác từng chia
sẻ quan điểm của ông về cuốn tiểu thuyết và
nhân vật mình theo đuổi: “Tơi nghĩ một cuốn
tiểu thuyết lịch sử đúng nghĩa luôn luôn phải
là một cuốn lịch sử thế sự. Bản chất của tiểu
thuyết là thế sự. Tiểu thuyết lịch sử mà thiếu
thế sự, thì hoặc là một thứ sử thi giả dùng
làm tài liệu tuyên truyền, hoặc chỉ là một mớ
tài liệu sử vô giá trị... Thế sự là da thịt của tiểu
76

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

thuyết lịch sử, cũng như lịch sử là xương cốt
của tiểu thuyết lịch sử” [4, Tập 3, tr.606-607]. Với

quan điểm và chủ đích rõ ràng như vậy, Sơng
Cơn mùa lũ đã tái hiện một giai đoạn đầy biến
động, bão táp của lịch sử dân tộc những năm
cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX qua vương
nghiệp đầy thăng trầm của ba anh em đất
Tây Sơn và những sóng gió, ly hợp trong gia
đình ơng giáo Hiến - thày dạy của hai anh em
Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ, cũng từng là quân
sư cho Nguyễn Nhạc ở những ngày đầu khởi
dựng sự nghiệp. Biến cố thời cuộc đan xen với
bi kịch cá nhân mà trung tâm là mối tình đau
khổ, tuyệt vọng giữa An - con gái ông giáo
Hiến và Nguyễn Huệ - người học trò xuất sắc,
cũng là tâm giao tri kỷ của ông. Trên nền bức
tranh lịch sử ấy, hình ảnh người anh hùng đất
Tây Sơn đã được tác giả tái hiện một cách toàn
vẹn: vừa là nhân vật lịch sử, vừa là con người thế
sự. Hơn thế, yếu tố lịch sử và yếu tố thế sự hòa
quyện vào nhau tạo nên sự “thống nhất trong
đa dạng” giữa tài năng xuất chúng và những
giới hạn, sự dũng mãnh và yếu đuối, danh
vọng quyền lực và nỗi cô độc, lý tưởng cao cả
và khát vọng đời thường…
Là người anh hùng mang tầm vóc lịch sử,
Nguyễn Huệ trong Sơng Cơn mùa lũ không chỉ
là một dũng tướng tài ba - linh hồn của khởi
nghĩa Tây Sơn với kỳ tích chiến trận lẫy lừng
khắp trong Nam ngoài Bắc: đánh bại thế lực
chúa Trịnh ở Bắc Hà, tàn quân chúa Nguyễn ở
Nam Hà, chiến thắng hai đạo quân xâm lược

hùng mạnh ở phía Nam lẫn phía Bắc,… mà cịn
là một nhà chính trị “thơng tuệ” khác thường,
có tư chất thơng minh sắc sảo, khả năng quan
sát nhận định thực tế, lòng tự tin và khát vọng
mãnh liệt “giong cương cho lịch sử đưa xa về
phía trước”. Con người mà ngay từ thời trai trẻ
đã toát lên vẻ “điềm tĩnh và cao ngạo” ấy cũng
không phải chỉ là biểu tượng cho sức mạnh,
khát vọng của tầng lớp “chân đất áo vải” vì
những truy bức và lẽ sinh tồn nên phải phất
cờ khởi nghĩa mà cịn là mẫu nhân vật văn hóa


VĂN HĨA - NGHỆ THUẬT

hội tụ đặc điểm văn hóa Việt Nam, vừa gần gũi
bình dị vừa hấp dẫn cao siêu. “Thành cơng lớn
của Nguyễn Mộng Giác là đã trình bày thuyết
phục và nhuần nhuyễn sức hấp dẫn văn hóa
của người anh hùng nông dân Nguyễn Huệ,
thách thức những định kiến lịch sử” [10]. Cốt
cách văn hóa và bản chất trí thức của con
người này đã hiển lộ ngay từ khi còn là cậu
học trò ở đất An Thái, từ ánh mắt sáng mừng
rỡ, cách lắng nghe trân trọng, niềm hân hoan
say mê trong từng buổi học. Chàng thanh niên
Nguyễn Huệ ngay từ ngày đó, cũng đã chứng
tỏ nội lực văn hóa mạnh mẽ và riêng khác của
mình trong “khối cảm phạm thượng”, không
ngại ngần chất vấn, phủ nhận những giáo điều

sách vở đã trở nên cổ hủ, lỗi thời trước chuyển
biến mới mẻ và dữ dội của lịch sử. Sau này,
trên bước đường tạo dựng sự nghiệp chính
trị, ở mỗi giai đoạn, mỗi biến cố, chất văn hóa
ấy ln lan tỏa và “can dự” vào ứng xử, hành
động, lựa chọn của ơng, mà tinh thần chung
là sự dung hịa, cộng sinh giữa tri thức sách vở
và tính năng động thực tiễn, coi trọng giá trị
truyền thống và sự hào hứng trước cái mới lạ,
ý thức tuân thủ trật tự và sự dũng cảm phá bỏ,
thay thế… Đặt trong tương quan với các nhân
vật trí thức Nho sĩ đương thời như Nguyễn
Thiếp, Ngơ Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn
Kỷ, Nguyễn Hữu Chỉnh,… Nguyễn Huệ khơng
có được sự un bác, thâm sâu của chữ nghĩa,
học vấn nhưng lại là người có tầm nhìn xa
trơng rộng, bén nhạy với những chuyển biến
thời cuộc. Trước những khúc quanh và ngã rẽ
phức tạp của lịch sử, ơng cũng như nhiều trí
thức đương thời đều phải đứng trước những
lựa chọn, đôi khi không tránh khỏi sự tranh
đấu, giằng xé. Tuy nhiên, trong lúc nhiều nhà
Nho cựu thần Lê Trịnh còn đang “bồn chồn, tư
lự” giữa trùng vi của những giáo điều thi thư,
của nỗi băn khoăn giữa “chính thống” và “ngụy
triều”, “xuất” hay “xử”, ở lại Bắc phò Lê hay vào
Nam theo Nguyễn Ánh, thì Nguyễn Huệ đã
dũng cảm táo bạo gánh vác trách nhiệm điều
Số 30 (Tháng 12 - 2019)


khiển cỗ xe của lịch sử thẳng tiến về phía trước,
“làm lay đổ đến tận gốc những nền móng cố
cựu, dựng nên một trật tự mới” [4, Tập 3, tr.484].
Sự trẻ trung quyết đoán, tính năng động thực
tiễn, tinh thần dân chủ và khát vọng cải cách
xã hội,… đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ
của con người chính trị - con người văn hóa
Nguyễn Huệ, khiến ơng từ một kẻ “áo vải chân
đất” sinh trưởng nơi “xó núi” có thể thu phục
những trí thức Bắc Hà ở tầm cao của trí tuệ,
làm chủ một dải giang sơn rộng lớn và giàu
truyền thống văn hiến từ Thuận Hóa tới Thăng
Long. Từ cảm quan lịch sử, tác giả đã khắc họa
hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ như là
sự hội tụ của hình mẫu lý tưởng nhà chính trị
- nhà văn hóa mang đặc tính dân tộc và thời
đại với một thiện cảm không giấu giếm. Ở
một khía cạnh khác, trải nghiệm đời sống và
kinh nghiệm nghệ thuật cũng đã giúp Nguyễn
Mộng Giác không bị trượt theo xu hướng sử
thi lãng mạn trước hào quang tỏa rạng của
người anh hùng đã trở thành niềm tự hào, kiêu
hãnh của người dân Bình Định q hương
ơng. Bằng cảm quan thế sự, Nguyễn Mộng
Giác cũng đồng thời đem đến một tìm kiếm
khác khơng kém phần thú vị về Quang Trung
- Nguyễn Huệ trong những bình dị đời thường,
với đủ “thất tình lục dục”, hờn giận yêu ghét
như biết bao con người bình thường khác. Đó
là một Nguyễn Huệ suốt đời yếu đuối, thất bại

trong mối tình đầu đời với An, từ những si mê
đến lúng túng ngây dại khi lần đầu bắt gặp vẻ
đẹp dịu dàng, thánh thiện của người bạn gái;
những e dè, xấu hổ đến khổ sở mỗi khi gặp An
mà không biết làm sao để giãi bày đến những
ghen tuông đố kỵ và nỗi tiếc nuối, đau đớn
khôn cùng khi đối diện với đôi mắt căm hận và
thái độ bất cần của An trong ngày hợp hôn với
Lợi. Ngay cả sau này khi đã trở thành vị tướng
dũng mãnh dạn dày chinh chiến hay là một
hồng đế “cửu ngũ chí tơn”, Nguyễn Huệ vẫn
khơng sao tránh được sự bối rối cố hữu và nỗi
sợ hãi vu vơ mỗi lần giáp mặt người bạn gái

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

77


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

thuở nào, nỗi sợ hãi như mang theo cả ám ảnh
đầy mặc cảm về giới hạn không thể vượt qua
của bản thân. Trong quan hệ với Nguyễn Nhạc,
sự cả nể, kiêng dè vì áp lực của tình thân cũng
khiến Nguyễn Huệ đầy bị động trong những
toan tính, sắp đặt chính trị, để vuột mất hạnh
phúc quý giá của đời mình, cuối cùng cũng

khơng tránh khỏi vịng luẩn quẩn của bi kịch
“huynh đệ tương tàn” mà chính bản thân cũng
là người can dự. Khắc họa cái đời thường mềm
yếu trong con người Nguyễn Huệ, tác giả đồng
thời khai thác tiếng nói nội tâm sâu thẳm và
chân thật trong giằng xé giữa tình yêu và tình
anh em, giữa xúc cảm mãnh liệt và bản tính
nhút nhát, tham vọng quyền lực và ưu tư thân
phận. Như tất thảy mọi người, Nguyễn Huệ
cũng khao khát có lúc được sống thoải mái,
buồn vui bình thường, được “bng thả, khỏi
phải đanh mặt, nhíu mày, mím mơi, gồng vai,
lớn tiếng…”. Nhưng tài năng, đi liền với quyền
lực và danh vọng, ở khía cạnh đối lập của nó,
khơng chỉ tước đoạt những niềm vui giản dị
đời thường mà cịn khiến ơng đối diện với một
bi kịch khác: nỗi cơ đơn của kẻ khác thường.
“Ơng ngờ ngợ nhận ra sức mạnh khuất phục
của quyền lực, nên khi tiếp xúc với cấp dưới,
ông cố tỏ ra đơn giản, bình tĩnh, hịa nhã để
khoảng cách giữa ơng với họ bớt xa. Nhưng
các chiến công liên tiếp ông lập được lại tạo
cho ơng một thứ quyền lực vơ hình gần giống
quyền lực của thần linh đối với kẻ chiêm bái.
Càng ngày ông càng cảm thấy cô đơn, thèm
muốn cuộc sống đơn giản, thèm muốn được
khuất lấp trong dịng sống bình thường của
mọi người. Càng muốn hòa hợp với sự dung
dị, lịch sử càng tách lìa ơng với phần cịn lại,
buộc ơng phải đứng một vị trí cao sáng hơn.

Từ đó bắt đầu những hệ lụy phức tạp, những
bon chen tầm thường mà từ thời cịn trẻ, ơng
ghét cay ghét đắng,… chiến cơng của ơng gây
ra những hệ quả đau lịng, quấy rầy ông chẳng
khác nào một kẻ thù khuất mặt dai dẳng và
ranh mãnh” [4, Tập 2, tr.478]. Khai thác lịch sử từ
78

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

góc nhìn thế sự và chiều sâu nhân văn, Nguyễn
Mộng Giác nhận ra đằng sau những khuynh
đảo, tan rã, thay thế của các vương triều là nỗi
đau, sự mất mát của con người, kể cả những
anh hùng xuất chúng ở đỉnh cao danh vọng và
quyền lực như Nguyễn Huệ. Đó là phát hiện,
đóng góp đáng kể của ơng vào vận động của
tư duy nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
sau 1975.
2.3. Nếu Nguyễn Mộng Giác cố gắng hòa
quyện giữa yếu tố lịch sử và yếu tố thế sự, tức
là hướng tới một tương quan hài hòa giữa “sự
thật” và “hư cấu” trong việc khai thác đề tài lịch
sử thì Nam Dao lại chủ trương gỡ bỏ tối đa
những ràng buộc lịch sử để nhường chỗ cho
tự do hư cấu nghệ thuật: “Trong bộ tiểu thuyết
lịch sử này, mọi nhân vật, kể cả những nhân
vật có thật trong chính sử, đều là những nhân
vật tiểu thuyết, thế cách tác giả đối thoại với
lịch sử. Thậm chí tác giả khơng câu nệ bất cứ

điều gì, kể cả đơi khi cưỡng bức lịch sử để thai
nghén ra tiểu thuyết” [3, tr.10]. Gió lửa có khá
nhiều nhân vật, tình tiết, biến cố trùng lặp với
Sơng Cơn mùa lũ song vấn đề trung tâm của
lịch sử được đề cập trong tiểu thuyết này lại
vượt ra khỏi chiều kích của một câu chuyện cụ
thể, mang ý nghĩa phổ qt. Đó chính là chiến
tranh rịng rã, “thứ ác nghiệp đang cịn rình rập
ẩn náu chỉ đợi cơ hội là lại làm cho lệ rơi máu
đổ” mà căn nguyên sâu xa là tình trạng “ruỗng
rã trong bạo lực”, “nhiễm độc trong tâm thức”
xã hội bởi tham vọng quyền lực và những ngộ
nhận lầm lạc về giá trị. Cho nên hư cấu là một
cách đối thoại với lịch sử, vừa để “bắt mạch
chẩn bệnh”, vừa “giải phẫu để suy ngẫm, hội
chẩn”, cuối cùng “cắt bỏ từng phần” những độc
tố văn hóa đó.
Trong tâm thế đối thoại, phản biện lịch sử,
Gió lửa tái hiện một không gian ngột ngạt trải
dài từ Bắc đến Nam ở buổi Trịnh tàn, Lê mạt
với xung đột, nội chiến kéo dài giữa các thế lực
chính trị: nhà Lê - Trịnh, Tây Sơn, Nguyễn tràn
đầy những toan tính, hận thù, chết chóc,…


VĂN HĨA - NGHỆ THUẬT

trong đó khơng hiếm cảnh huyết lệ giữa cha
con, vợ chồng, anh em, bạn hữu. Xuất hiện
bắt đầu từ phần sau của tác phẩm, khi mà Gió

Đàng trong đã nổi lên cùng những biến cố “nồi
da sáo thịt”, hình ảnh Nguyễn Huệ hiện lên
trước hết như là hiện thân của sức mạnh quyền
lực và bạo lực, thứ sức mạnh nhuốm vẻ lạnh
lùng đến tàn nhẫn. Nếu trong Sơng Cơn mùa
lũ, Nguyễn Huệ cũng có lúc tỏ ra vơ tâm, tàn
nhẫn, thậm chí phải hy sinh tình riêng để hồn
thành đại nghiệp, song về căn bản ơng vẫn
là con người nhân hậu và hướng thiện, ln
tìm cách thốt khỏi sự kìm tỏa của những tranh đoạt quyền lực, thì ở Gió lửa, Nguyễn Huệ
ngay từ đầu đã chủ động bước vào vịng xốy
những tranh đoạt ấy: “Nước đục lắm rồi. Ai
thị tay xuống trước, kẻ đó có nhiều may mắn
vớ được con cá độc nhất sống trong bùn. Có
lấm tay, chờ nước trong rồi lại rửa, có sao đâu”
[3, tr.353]. Cần khẳng định một điều, thực ra
những phẩm tính anh hùng nổi trội trong con
người Nguyễn Huệ từng được Nguyễn Mộng
Giác khai thác triệt để trong Sông Cơn mùa lũ
cũng ít nhiều được đề cập trong tác phẩm này:
khả năng điều binh khiển tướng, nhãn quan
thực tế, tinh nhạy trước biến động thời cuộc,
lý tưởng xã hội lớn lao… Nhưng dường như
là một chủ ý có phần cực đoan, áp đặt, trong
tiểu thuyết của mình, Nam Dao đã “trưng bày”
và đẩy tới tối đa những phần lầm lạc, u tối bản
thể trong con người Nguyễn Huệ, khiến người
đọc có cảm giác qua sự mơ tả của nhà văn,
lịch sử đã bị làm cho “méo mó” đến khó chấp
nhận. Sự phát triển của nhân cách Nguyễn

Huệ từ lúc cịn thanh niên đến trước khi đăng
quang ngơi vương theo chiều hướng trỗi dậy
khơng gì kìm hãm nổi của bản tính hiếu chiến
và tham vọng quyền lực. “Khối cảm của chiến
thắng” đã dẫn dắt người thanh niên Nguyễn
Huệ trên hành trình chinh chiến dằng dặc suốt
thời trai trẻ, xem đó như là nghĩa lý của cuộc
đời mình: “Nhìn khn mặt Huệ gồ lên, cằm
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

bạnh ra như cằm hổ mang, mắt rừng rực lửa
có màu đỏ của máu, Tự biết có nói thêm cũng
vơ ích. Con người đã dày dạn chiến trận đứng
cạnh căng bật như cánh cung để phóng đến
mục tiêu của mình theo đường thẳng của mũi
tên bay đi, khơng mủi lịng quan tâm đến bất
cứu gì khác sự chiến thắng” [3, tr.355]. Nhưng
nhìn sâu vào bản thể, ở phần sâu kín nhất là
hình ảnh một Nguyễn Huệ đầy cô độc, yếu
đuối. Cũng giống như Sông Côn mùa lũ, cái yếu
đuối cô độc của Nguyễn Huệ được nhà văn
khai thác đầy tinh tế và chân thật qua bi kịch
tình yêu của Nguyễn Huệ với người bạn gái tên
An, một bi kịch mang theo nỗi đau, sự day dứt
và ln dày vị ơng trong suốt cuộc đời, ngay
cả khi ở tột cùng danh vọng quyền lực. Tuy
nhiên, ở Sông Côn mùa lũ, những nhớ nhung,
khổ sở, day dứt, tiếc nuối của An và Nguyễn
Huệ cũng là hiện thân của một tình yêu cao
cả, thuần khiết, khơng toan tính vụ lợi, dù trải

qua bất kỳ sóng gió hiểm nguy nào cũng suốt
đời thủy chung với nhau, yêu thương đùm bọc
lẫn nhau. Với Nguyễn Huệ, đó là nguồn mạch
trong lành và quý giá, tuy khổ đau nhưng cũng
rất đỗi ngọt ngào, ấm áp, là minh chứng của
một bản thể sâu sắc và tinh tế. Trong Gió lửa,
mỗi khi nhớ về An, Nguyễn Huệ lại thấy chập
chờn hình ảnh người con gái mảnh dẻ, yểu
điệu bên cầu ao năm nào cùng câu trả lời nửa
như trách cứ, nửa như giễu cợt: “…chẳng phải
vì mặt Huệ mụn, mà vì Huệ không biết thế nào
là hạnh phúc. Thứ hạnh phúc bình thường” [3,
tr.370]. Câu nói ấy ln văng vẳng bên tai, giày
vị Nguyễn Huệ, đơi khi đánh thức một góc sâu
kín nào đó khiến ơng lờ mờ nhận ra hình như
mình đã đánh mất thứ gì đó thật sự đáng q
trong cuộc đời. “Ngồi một mình trong ánh nến
chập chờn, Huệ nhắm mắt lại, hình dung ra
khn mặt An thuở ngồi bên cầu ao, lại tự hỏi
mình thế nào là hạnh phúc… Có phải chăng là
những giây phút rạo rực, tung qn vào yểm
kích, tính tốn đường đi nước rút của địch,
cơng thành, phá ải. Có phải chăng là khi thu

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

79



VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

qn lương, vàng bạc, châu báu chiếm được?
Có phải chăng là chỉ một câu nói lớn, một cái
trừng mắt, một lời giễu cợt mà đủ làm đám
bề tôi cứng họng, thắt tim, dập đầu vâng dạ.
Đó là, nói gọn lại, quyền uy. Nó thể hiện con
người Huệ. Nhưng tại sao khi giết xong địch,
chiếm xong thành, thu vào tay châu báu, quát
gọi cho người ta vâng dạ, Huệ lại cảm thấy
trống rỗng, để một nỗi cô đơn mênh mang ập
vào làm tan đi tất cả những cái gì vừa tạo ra,
biến chúng thành vô nghĩa vô lý… Trả lời đi,
đợi gì nữa An ơi… Thế nào là hạnh phúc bình
thường?” [3, tr.372]. Do thế, bi kịch tình yêu của
Nguyễn Huệ với An là một “bi kịch kép”: vừa bị
chối từ, vừa bị giễu cợt. Hơn thế, sự giễu cợt
của An đánh trúng vào “tử huyệt” Nguyễn Huệ,
người mà ngay từ đầu định mệnh đã bị cuốn
vào vòng quay của những trận chiến sinh tử,
gần như suốt đời không có cơ hội để biết thế
nào là hạnh phúc đời thường. Đó khơng phải
là một giễu cợt bơng đùa nơng nổi mà là một
phán xét nhức nhối, cho thấy nỗi bất hạnh
lớn nhất trong cuộc đời một con người không
hẳn là nỗi đau của tình yêu bị khước từ, mà là
sự trống rỗng bản thể bởi những ngộ nhận về
giá trị. Đặt ra một tương quan đối nghịch giữa
quyền lực và nhân tính, hình tượng Nguyễn

Huệ mang tính luận đề về chiến tranh, bóng
tối và cái ác, trong đó con người vừa là chủ thể,
vừa là nạn nhân của chính mình.
Một điều hết sức thú vị trong Gió lửa là
sự biến đổi theo chiều hướng tích cực của
nhân vật, kéo gần khoảng cách giữa nhân vật
Nguyễn Huệ trong văn chương và người anh
hùng Nguyễn Huệ trong lịch sử. Nó bắt đầu từ
thời điểm Nguyễn Huệ chuẩn bị cho trận chiến
lớn nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông,
trận chiến làm rung chuyển lịch sử và rung
chuyển lòng người: đối đầu với 20 vạn quân
xâm lược Mãn Thanh. Đó là thời điểm mà cả
Nguyễn Huệ lẫn các thuộc hạ của ông, những
nhân sĩ Bắc Hà đều dự cảm về một “kỷ nguyên
mới” sắp đến, thay thế cho gần hai trăm năm
80

Số 30 (Tháng 12 - 2019)

lịch sử binh biến, máu lửa, hoang tàn, chia cắt
trên dải đất này, một kỷ nguyên đã thấp thống
bóng những thương thuyền đến từ Tây dương
mang theo khát vọng tiếp thu được cách nhìn,
cách nghĩ, và những giá trị mới. Trong thời
khắc khẩn trương đó của cuộc chiến, một
người đang đầy cao ngạo như Nguyễn Huệ
bỗng nhiên tái mặt khi nghe thuộc hạ đáp
lời: “Muốn biết, phải thử sống một cuộc sống
bình thường, từ đó mới thơng hiểu được niềm

hạnh phúc của những kẻ bình thường, thưa
Vương thượng” [3, tr.520]. Cái mà Nguyễn Huệ
muốn biết ở đây là “cái phải làm gì” khi ơng
đăng quang ngơi vương. Trong khoảnh khắc
ấy, lời nói của An bên cầu ao ngày nào lại văng
vẳng bên tai. Thì ra cái nghĩa lý của hạnh phúc
mà Nguyễn Huệ suốt đời kiếm tìm lại gắn với
những niềm vui, mong ước tưởng như nhỏ bé,
đời thường. Lần đầu tiên Nguyễn Huệ ý thức
về sứ mạng lịch sử nặng nề nhưng cao cả của
mình: “sống làm cái gạch nối từ hiện tại vào
một tương lai tươi sáng hơn”. Cái ý nghĩ táo
bạo ấy đã hối thúc ơng “phải sống một cuộc
sống bình thường, từ đó mới thấu hiểu được
niềm hạnh phúc của những kẻ bình thường”,
bắt đầu từ việc “nhịn ăn để hiểu thế nào là nỗi
sợ chết đói của những người bình thường” [3,
tr.558]. Cái đói là một bài học lớn nhất trong
cuộc đời Nguyễn Huệ, giúp ông hiểu ra căn
nguyên của sự thịnh, loạn. Bên cạnh binh đao,
gươm giáo, súng đạn, cái đói cũng là một đe
dọa đến sự bấp bênh của sinh mạng, cũng
ẩn chứa một sức mạnh khủng khiếp hủy diệt
nhân tính và tồn vong của một dân tộc. Những
biến chuyển tích cực trong con người Nguyễn
Huệ bắt đầu từ sự nhận thức về những điều
bình dị mà sâu xa thuộc về nhân sinh và nhân
tính. Vì vậy, những khám phá và tái hiện nhân
vật người anh hùng này trong Gió lửa, tuy có
chỗ “liều lĩnh”, cực đoan trong các tương quan

đối nghịch và phức tạp song cũng đặt ra và
giải đáp được những vấn đề hóc búa thuộc về


VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

“thách đố bản thể” cũng như câu chuyện còn
để ngỏ về những vấn đề dân tộc trong chiều
dài lịch sử không thiếu hào hùng nhưng cũng
đầy bi kịch của mình.
Thay cho lời kết
Trong một nghiên cứu của mình, GS. Trần
Đình Sử đã chỉ ra mối tương quan và sự khác
nhau trong quan niệm về lịch sử giữa chủ
nghĩa lịch sử truyền thống và chủ nghĩa tân lịch
sử, theo đó, chủ nghĩa lịch sử truyền thống
quan niệm rằng mọi sự thực được chép vào
sách sử là chân lý khách quan, trong khi đó
chủ nghĩa tân lịch sử với tính hồi nghi khoa
học lại cho rằng “lịch sử chỉ là diễn ngôn, là
văn bản”, tức là sự ghi chép, trình bày diễn đạt
các sự kiện đã xảy ra theo một quan điểm nào
đó, chứ khơng phải sự thật như nó vốn có. Tất
nhiên tính khách quan vẫn có ở các sự kiến lớn,
nhưng ln có những nội tình trong đó khơng
ai biết, cũng khơng được ghi chép lại bởi nhiều
lý do, để lại những khoảng mờ, khoảng trắng
của lịch sử. Như vậy, lịch sử phải được văn bản
hóa, diễn ngơn hóa. Mà diễn ngơn hóa thì phải
khai thác các tiềm năng, khả năng trong sự thật.

Ở phương diện này, tiểu thuyết và lịch sử gần
nhau [7].
Sự vận động của tư duy tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau 1975 nhìn từ cách “ứng xử” của
nhà văn với câu chuyện, nhân vật của quá khứ
về căn bản ảnh hưởng chủ nghĩa tân lịch sử.
Bằng việc gia tăng và nới rộng biên độ của hư
cấu tưởng tượng cùng những tìm tịi về bút
pháp, các tác giả đã đem đến những kiến giải
mới về lịch sử theo cách nhìn, cách tiếp cận và
quan điểm riêng của mình, thể hiện khả năng
khai thác các tiềm năng, khả năng trong sự thật,
góp phần tạo nên sự phong phú của sáng tạo
nghệ thuật trong bối cảnh đổi mới mạnh mẽ
của văn học đương thời.
Đ.T.T.T
(TS., Trưởng Khoa Viết văn Báo chí,
Trường ĐHVHHN)
Số 30 (Tháng 12 - 2019)

Tài liệu tham khảo
1. Hoa Bằng (1953), Quang Trung - anh hùng
dân tộc, Nxb. Bốn phương, Sài Gòn.
2. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xi Việt Nam
1975 - 1995: Những đổi mới cơ bản, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
3. Nam Dao (2014), Gió lửa, Người Việt Books
xuất bản, Hoa Kỳ.
4. Nguyễn Mộng Giác (2016), Sông Côn mùa
lũ, trọn bộ 3 tập, Nxb. Hội Nhà văn & Công ty

TNHH sách Phương Nam, Hà Nội.
5. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu Văn học Việt
Nam - những khả năng và thách thức/Literary Study
in Vietnam: Possibilities and Challenges, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại
Nam thực lục, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên
dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
7. Trần Đình Sử (2016), “Về tiểu thuyết lịch sử”,
in trong Những vấn đề văn học và ngôn ngữ Nam
Bộ, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh.
8. Trần Hữu Thục, “Nhân vật Nguyễn Huệ
trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng
Giác”, />9. Tạ Chí Đại Trường (2014), Lịch sử nội chiến ở
Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb. Tri thức và Cơng
ty Văn hóa & Truyền thơng Nhã Nam phối hợp
xuất bản, Hà Nội.
10. Đỗ Minh Tuấn, “Sông Côn mùa lũ” của
Nguyễn Mộng Giác: Sự khám phá nhân cách văn
hóa Việt”, />chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/dien-dan/30nhung-goc-nhin-van-hoa/11162-song-conmua-lu-cua-nguyen-mong-giac-su-kham-phanhan-cach-van-hoa-viet
11. Từ điển văn học (Bộ mới) (2004), Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 12 - 12 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 18 - 12 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 27 - 12 - 2019

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU


81



×