GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NHẰM GÓP PHẦN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT
I. ĐỊNH HƯỚNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT
1. Chính sách tín dụng đối với hộ sản xuất của Nhà nước :
Với quan điểm khẳng định kinh tế hộ gia đình luôn có vị trí quan trọng, Đảng
và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn nói
chung và hộ sản xuất nói riêng. Các chính sách ưu đãi này được cụ thể hóa trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực Ngân hàng có chính sách tín dụng đối
với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chính sách này được quy định tại Điều 8
- Luật các tổ chức tín dụng "Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn,
lãi suất, điều kiện, kỳ hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân
nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá , thực hiện CNH -
HĐH nông nghiệp và nông thôn
Sau đó, Thủ trướng chính phủ đã ban hành quyết định số 67/ 1999/ QĐ - TTg
về một chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông
thôn. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số 320/ NHNN14 giao cho
NHN
0
& PTNT Việt Nam chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. NHN
0
& PTNT Việt
Nam ban hành văn bản số 791/ NHNP - 06 cụ thể hoá nội dung thực hiện chính
sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân
nhằm góp phần cùng các ngành, lĩnh vực khác thực hiện chủ trương của Đảng và
Nhà nước về CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế các hộ sản
xuất trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
2. Định hướng chung của NHN
0
& PTNT Việt Nam :
Để thực hiện hướng đầu tư và chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát
triển nông nghiệp, nông thôn do Chính phủ đề ra, đồng thời căn cứ định hướng của
Thống đốc NHNN, NHN
0
& PTNT Việt Nam đưa ra định hướng : Tăng cường
năng lực tài chính, nâng cao năng lực quản lý điều hành, tăng cường quyền tự chủ
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm để thực hiện tốt vai trò chủ lực và chủ đạo trong
hệ thống tín dụng nông nghiệp, nông thôn và nâng cao chất lượng kinh doanh,
giảm thiểu rủi ro tín dụng, đa dạng hoá và hiện đại hoá các hoạt động dịch vụ Ngân
hàng .
Đồng thời NHN
0
& PTNT Việt Nam cho vay các đối tượng chủ yếu sau :
- Ưu tiên cho cây trồng, vật nuôi theo hướng sản phẩm hàng hoá, vùng
chuyên canh tập trung. Đối với ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cho vay
theo hướng tập chung, có thị trường ổn định trong và ngoài nước.
- Ưu tiên những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng sinh thái nuôi trồng
đặc sản, trong đó đồng bằng sông Hồng là lương thực, rau quả, chăn nuôi lợn, gà,
trâu bò.
- Hộ gia đình là khách hàng chủ yếu, khuyến khích phát triển loại hình kinh tế
trang trại, kinh tế hợp tác.
3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây :
Từ nay đến hết năm 2001 Hà Tây vẫn là một tỉnh nông nghiệp. Mục tiêu đề
ra là đạt cơ cấu kt : Nông nghiệp 40 %, Công nghiệp và xây dựng 30 %, du lịch và
dịch vụ 30 %. Định hướng cụ thể là
Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH đồng thời tiến hành đồng bộ
các yếu tố cơ bản sau :
+ Vật liệu sản xuất nông nghiệp : thông qua thành tựu và tác động của công
nghệ sinh học, hoá học tạo ra giống mới có năng xuất, chất lượng cao .
+ Đổi mới động lực, công cụ sản xuất nông nghiệp : tập chung chủ yếu vào
những ngành và công đoạn có nhu cầu cấp thiết mà lao động thủ công làm không
có hiệu quả như bơm nước, bảo vệ thực vật, làm đất chế biến, bảo quản, vận
chuyển... trước hết vào những vùng nông nghiệp tập trung, thâm canh sản xuất
nhiều nông sản cho nhu cầu xuất khẩu.
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp
nông thôn được xác định bắt đầu bằng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được
hình thành và tồn tại trong các làng xã chuyên làm nông nghiệp với vị trí là nghề
phụ và trong các làng nghề truyền thống. Khuyến khích các thành phần kinh tế mở
ra nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng.
Cải tạo, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thông ; xây
dựng các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu, nâng cấp phát triển giao thông nông thôn,
lưới điện, y tế, giáo dục...
4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của NHN
0
&
PTNT Hà Tây :
Thứ nhất, bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, Ngân hàng chủ
động kịp thời nắm bắt nhu cầu đầu tư, dự án đầu tư, đối tượng đầu tư ở từng vùng,
từng xã để thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế , thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp , nông thôn .
Mục tiêu phấn đấu tổng dư nợ đạt 1.236 tỷ đồng, trong đó dư nợ trung - dài
hạn là 600 tỷ đồng.
Thứ hai: Gắn tín dụng với đầu tư phát triển nông thôn qua quá trình liên kết
các thành phần kinh tế , áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, khép kín đầu tư từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm và xuất
khẩu. Cụ thể là :
+ Tập trung vốn tín dụng cho sản xuất , mua giống lúa mới có năng suất và
chất lượng cao; xây dựng các công trình thủy lợi nội đồng ; mua phân bón, hoá
chất, thiết bị công tác.
+ Tiếp tục cho vay phát triển chăn nuôi theo chương trình dự án nhằm nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm .
+ Đầu tư khôi phục hiệu quả ngành nghề truyền thống, mạnh dạn phát triển
những ngành nghề mới nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người nông
dân.
+ Nghiên cứu đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, lao động, đất đai .
Thứ ba : Giảm thấp nợ quá hạn và nợ có vấn đề theo phương châm "An toàn
để phát triển, phát triển phải an toàn". Mục tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm là
dưới 1 %.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN :
Để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng nhằm phát triển kinh tế hộ sản
xuất phải đảm bảo hài hoà tất cả các chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối với hộ sản
xuất . Do vậy Ngân hàng phải kết hợp đồng bộ các giải pháp cơ bản.
1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất :
a. Cho vay tập trung, có trọng điểm
Đầu tư vốn tập trung, có trọng điểm đối với khách hàng thuộc những ngành,
vùng có tiềm năng lớn và triển vọng phát triển bền vững. Một nguyên tắc quan
trọng để tránh rủi ro của Ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng là
"đòi hỏi phải tiến hành kinh doanh một cách thận trọng", vì vậy Ngân hàng phải
chọn lọc khách hàng một cách kỹ lưỡng.
Trước mắt Ngân hàng cần tiếp tục đầu tư vào các tiểu ngành hoạt động có
hiệu quả là chăn nuôi lợn, gà, gia cầm, trâu bò, trồng cây ăn quả, chế biến nông
sản... Khôi hục và phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống là
một định hướng lớn trong chính sách kinh tế của tỉnh, do vậy Ngân hàng cần trú
trọng đầu tư cho các hộ làm nghề.
Các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp làm ra có giá trị cao, tuy nhiên còn nhiều
khó khăn về khâu nguyên liệu, giá vật tư đầu vào, tìm kiếm thị trường tiêu thụ...
nên sự phát triển còn chậm, do đó cần cẩn trọng khi vay .
b. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ (tổ tín chấp).
Tổ tương trợ là mô hình do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, dưới sự
chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội được UBND
xã công nhận và cho phép hoạt động . Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ
nhau giữa các thành viên và giải quyết tốt các vấn đề sau :
Thứ nhất : Tổ là nơi sản xuất và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất
bảo đảm công khai, chuẩn xác, kịp thời. Nhờ đó Ngân hàng giải ngân nhanh mà
vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng
Thứ hai : Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện
cần thiết, thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ
đúng hạn của hộ vay vốn.
Thứ bai : Tổ cũng là nơi để các hộ sản xuất tương trợ nhau, không những về
nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức kỹ thuật sản xuất , về nguyên vật liệu đầu
vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Thứ tư : Cho vay qua tổ tín chấp sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế
chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng . Bởi lý do tài sản thế
chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không
muốn mua lại các tài sản này.
Hình thức chuyển tải vốn tín dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ tín chất đem lại
lợi ích cho cả hai phía : hộ vay vốn và Ngân hàng.
Đối với hộ gia đình họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng mà
không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện
nay số tiền vay của đa phần các hộ gia đình còn nhỏ nên người dân dễ nảy sinh tâm
lý ngại đi vay ngân hàng mà vay mượn những người xung quanh, gây tình trạng
cho vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế - xã hội .
Đối với Ngân hàng, thông qua hình thức tổ tín chấp, việc cung cấp tín dụng
được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn đồng thời đảm bảo an toàn cho vốn vay. Kết
quả thực hiện cho vay qua "nhóm" của NHN
0
Hà Tây đã cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn
hàng năm rất thấp dưới 1%. Mặt khác, cho vay qua "nhóm" giảm áp lực quá tải
đối với cán bộ tín dụng. Với số tiền hộ sản xuất vay hàng năm xấp xỉ 3 triệu đồng,
nếu muốn tăng 25 % dư nợ phải chấp nhận tăng thêm khoảng 26% số lượng khách
hàng, như thế áp lực quá tải ngày càng nặng nề làm ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng. Tuy nhiên với tổ tương trợ thì các thành viên của tổ đưa đơn xin vay vốn và
phương án kinh doanh cho tổ trưởng. Việc hoàn thành thủ tục vay vốn do tổ trưởng
đảm nhiệm .
Với kinh nghiệm những năm qua Ngân hàng có thể áp dụng hình thức này sâu
rộng hơn nữa. Tuy nhiên để chất lượng tínd ụng ngày càng được nâng cao và cho
vay qua "nhóm" ngày càng có hiệu qủa thì Ngân hàng cần được thực hiện tốt một số
vấn đề sau :
- Thứ nhất : Ngân hàng phối hợp tốt với các tổ chức chính tị xã hội đặc biệt là
Hội nông dân, Hội phụ nữ và Hộ cựu chiến binh. Đây là các tổ chức chính trị thích
hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
- Thứ hai : Ngân hàng tổ chức các lớp bồi dưỡng cho trưởng n hóm kiến thức
cơ bản về quản lý, về nghiệp vụ tín dụng ...
- Thứ ba : Ngân hàng nên triển khai thí điểm cho vay hộ sản xuất qua HTX.
Điều này cũng tương tự như cho vay quá nhóm nhưng trước mắt giúp Ngân hàng
giải quyết được hạn chế liên quan đến tư cách pháp nhân của nhóm .
- Thứ tư : Về lâu dài, trong quá trình sàng lọc Ngân hàng nên chuyển một số tổ
tín chấp có đủ điều kiện sang thể chế tài chính vi mô.
c. Thực hiện cho vay không phải thế chấp
Theo quy định hiện nay những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh đến 10 triệu
đồng thì không phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Quy định này tạo điều kiện cho
nhiều hộ sản xuất nhỏ, thu nhập thấp tiếp cận đến vốn tín dụng Ngân hàng , nhưng
mặt khác cũng làm phát sinh nguy cơ có hàng ngàn món vay nhỏ bị mất an toàn.
Do đó, thường Ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng phải kê khai tài sản thế chấp.
Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp :
- Thứ nhất : Ngân hàng nên bỏ thông lệ yêu cầu người vay kê khai tài sản và
coi tài sản kê khai là tài sản thế chấp. Danh sách tài sản nên được sử dụng là thông
tin cần thiết cho cán bộ tín dụng và chỉ được sử dụng trong quá trình thẩm định
món vay đồng thời khẳng định tính nghiêm túc của mục đích vay vốn.
- Thứ hai : Để giải quyết vấn đề về tài sản thếp chấp của người xin vay và
không bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tín dụng với các hộ có tiềm năng cán bộ tín
dụng có thể tham khảo phương pháp cho điểm tín dụng : Phương pháp này nhằm
xác định rủi ro tín dụng theo những khía cạnh đánh giá khác nhau. Phương pháp sử
dụng 3 tiêu thức cơ bản về người vay để đánh giá là : tư cách, năng lực, vốn (hay
khả năng tài chính).
1. Tư cách + năng lực + vốn = điểm rủi ro tín dụng tốt
2. Tư cách + năng lực + vốn thiếu = điểm khá
3. Tư cách + vốn + năng lực thiếu = điểm khá
4. Tư cách khiếm khuyết + năng lực + vốn = điểm nghi ngờ
5. Tư cách + năng lực - vốn = điểm hạn chế
6. Tư cách - năng lực + vốn = điểm kém
7. Năng lực + vốn - tư cách = điểm nguy hiểm
8. Vốn - tư cách - năng lực = điểm đặc biệt xấu
9. Tư cách - năng lực - vốn = điểm kém
10. Năng lực - tư cách - vốn = tín dụng lừa đảo
+ Về tư cách người vay : Nhiều chuyên gai Ngân hàng xem đây là yếu tố hàng
đầu tạo ra sự thành công của một hợp đồng tín dụng. Đó là sự trung thực, ý thức
trách nhiệm cao đối với các cam kết trong hợp đồng vay vốn. Việc điều tra tư cách
người vay có thể thực hiện qua việc tiếp xúc trực tiếp, qua hồ sơ lưu trữ tại Ngân
hàng trong những lần vay trước, từ các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào, họ được
liệt kê khi khách hàng xin vay vốn. Khi đánh giá khả năng tài chính của người vay
ngoài đánh giá khả năng tài chính cần tính đến thu nhập dự kiến tương lai của
người xin vay .
Ngoài các biện pháp trên. Ngân hàng còn phải áp dụng các biện pháp tổ chức
và kiểm soát quá trình giải ngân để đảm bảo việc sử dụng vốn vay dúng mục đích
như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
d. áp dụng các biện pháp phân tích tài chính kỹ thuật trong quy trình tín dụng .
Cán bộ tín dụng tại NHN
0
Hà Tây thường sử dụng kinh nghiệm truyền thống
trong quy trình tín dụng, do đó chất lượng tín dụng không đảm bảo. Để giải quyết
vấn đề này Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp sau :
- Thứ nhất : Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án hoặc
phương án sản xuất kinh doanh của hộ xin vay vốn, thực hiện nghiêm túc quá trình
thẩm định trước khi ra quyết định cho vay. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng sử
dụng các phương pháp phân tích về tài chính cũng như về kỹ thuật để thẩm định dự
án. Cán bộ tín dụng phải thẩm định được khả năng sinh lời của dự án để từ đó ra
quyết định cho vay hay không cho vay.
- Thứ hai : Đối với những món vay nhỏ cần áp dụng thủ tục riêng để thẩm định
làm cho hoạt động phân tích trở nên đơn giản hơn.
- Thứ ba : Ngân hàng cải tiến thủ tục thẩm định món vay trung và dài hạn.
Ngân hàng soạn thảo các mô hình tài chính cho quá trình sản xuất, chăn nuôi gia
súc, gia cầm, trồng trọt... để giúp cán bộ tín dụng thẩm định món vay cả về phương
diện kỹ thuật và tài chính. Ngân hàng cần triển khai các lớp đào tạo cán bộ tín
dụng về các vấn đề này nhằm cần triển khai hoá các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về
các vấn đề này nhằm nâng cao khả năng cũng như trình độ thẩm định dự án của
cán bộ tín dụng .
- Thứ tư : Khi quyết định thời hạn cho vay và định kỳ hạn nợ, Ngân hàng yêu
cầu cán bộ tín dụng phải sử dụng phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền tệ
và gắn với chu kỳ sản xuất kinh doanh hơn là kinh nghiệm truyền thống. Đồng thời
Ngân hàng phải trợ giúp cán bộ tín dụng kiến thức về vấn đề này thông qua các
khoá đào tạo .
e. Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ
quá hạn mới phát sinh :
- Chất lượng tín dụng cao còn thể hiện qua công tác thu nợ có hiệu quả. Vì
vậy, ngân hàng cần một hệ thống thu nợ để nhắc nhở những khoản nợ đến hạn của
khách hàng cũng như đôn đốc họ trả nợ. Hoạt động của hệ thống này rất quan
trọng vì chứng tỏ rằng Ngân hàng :
+ Có hiệu quả trong việc kiểm tra và quản lý tài sản vay
+ Nghiêm khắc trong hoạt động kinh doanh
+ Muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng
Việc gửi thư nhắc nhở và tiến hành đòi nợ có tính hệ thống và đúng lúc phải
được thực hiện đối với tất cả các tài khoản. Trong thông báo, lời lẽ phải lịch thiệp
song cũng cần nghiêm khắc, cương quyết yêu cầu khách hàng thanh toán đủ và đúng
hẹn .
Ngân hàng luôn duy trì tổ chức phân tích tình hình dư nợ và tình hình dư nợ
đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích xác định rõ món
vay có vấn đề, nợ quá hạn theo mức độ khác nhau ; xác định xã trọng điểm, khách
hàng trọng điểm. Định kỳ hàng tháng ngân hàng chia hoạt động tín dụng ra 4 phần
để phân tích và chỉ đạo cụ thể từng phần như sau
+ Đối với nợ quá hạn : Tổ chức phân tích từng đối tượng và phân ra 3 loại :
loại thu được ngay, loại thu dần một phần và loại khó thu. Từ đó, xác định rõ
nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu phù hợp .
+ Đối với nợ sắp đến hạn : Từ ngày 01 đến ngày 10 tháng trước, tổ chức in ra
những món nợ đến hạn của tháng sau , thông báo cho cán bộ tín dụng. Từ ngày 20
đến ngày 25 cán bộ tín dụng đi thâm nhập khách hàng để xác định khả năng thu
của từng khách hàng đến hạng tháng sau, từ đó có biện pháp cụ thể đến từng
khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt
phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh .
+ Đối với nợ chưa đến hạn : Sẽ tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ
10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung chính đó là : Vật tư bảo
đảm tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp. Nếu có vấn đề thì xử lý theo các
biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng sớm khắc phục khó khăn có điều kiện trả
nợ Ngân hàng .
+ Đối với các món cho vay mới : Yêu cầu cho vay nghiêm chỉnh, đúng quy
trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng lành mạnh hơn .
Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau