Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT KHON TRONG THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357 1767)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.37 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

BÀI TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐÔNG NAM Á
ĐỀ TÀI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT KHON TRONG
THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357-1767)
Giảng viên: ThS. Văn Kim Hoàng Hà

Sinh viên: Nguyễn Hồ Trọng Thoại
MSSV: 1856110129
Ngành Thái Lan học
Khố: 2018-2022

Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 1 năm 2021


SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT KHON
TRONG THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357-1767)
I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Một số quốc gia trên thế giới coi nghệ thuật bản địa là
môn biểu tượng văn hố quốc gia của họ. Mơn nghệ thuật
này được mọi người coi là biểu tượng của nền văn hóa quốc
gia nơi mà nó đã xuất hiện và phát triển cho đến hiện nay. Ví
dụ, Việt Nam, cải lương; Trung Quốc, kinh kịch; Nhật Bản,
kịch Noh;Hàn Quốc, Quốc nhạc Gugak;... và loại hình nghệ
thuật địa phương nổi tiếng của Thái Lan mà hiện nay chúng


ta hay biết đến với tên gọi là nghệ thuật Khon, đây là hình
thức nghệ thuật vinh dự được UNESCO công nhận là Di sản
văn hoá phi vật thể. Ở Thái Lan, Nghệ thuật Khon rõ ràng
đã được mọi người chấp nhận như một bộ mặt nghệ thuật
mang bản sắc truyền thống của quốc gia và nó được cơng
nhận là một trong những di sản văn hóa quan trọng của xứ
sở chùa Vàng. Đối với riêng người Thái, nghệ thuật Khon
không đơn thuần chỉ là một hình thức nghệ thuật, mà cịn là
một phong cách sống, một niềm tự hào dân tộc.
Hiện nay, nhiều người chỉ biết đến nghệ thuật Khon
thông qua sách báo, phim ảnh hay những màn trình diễn đặc
sắc mà ít khi để ý đến lịch sử hình thành, sự phát triển và
những giá trị bên trong của loại hình nghệ thuật vốn là niềm
tự hào của Thái Lan này. Dần dần, nghệ thuật Khon đang
đánh mất đi vị thế vốn có của nó, trở thành thứ bị quên lãng

2


trong tâm trí của giới trẻ Thái Lan nói riêng và của thế giới
nói chung.
Chính vì vậy, chúng tơi đã quyết định chọn đề tài “SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT KHON TRONG THỜI KỲ
AYUTTHAYA (1357-1767)”, với những lý do chọn tên đề tài
như sau:
Thứ nhất, nhằm tìm hiểu quá trình hình thành và phát
triển của nghệ thuật Khon - một loại hình biểu diễn nghệ
thuật đặc sắc mang đậm bản sắc dân tộc của người dân
Thái Lan. Bởi vì trước nghệ thuật Khon trước thời kỳ
Ayutthaya khơng có sự nổi bật cũng như được biết đến rộng

rãi, cho đến thời kỳ Ayutthaya, nghệ thuật Khon trở nên nổi
bật, đặc sắc. Thế nên chúng tôi quyết định chọn mốc thời
gian là thời kỳ Ayutthaya cho đề tài này.
Thứ hai, chúng tôi muốn thông qua sự phát triển của
nghệ thuật Khon để làm nổi bật cách trị vì của các vị Vua
thời kỳ Ayutthaya, đồng thời là tìm hiểu bối cảnh xã hội thời
kỳ Ayutthaya thông qua sự phát triển của bộ môn nghệ thuật
Khon
Thứ ba, là sinh viên ngành Thái Lan học, chúng tơi
muốn tìm hiểu thêm về văn hố địa phương, đồng thời qua
đó phổ biến tính đặc sắc, giá trị tinh thần của môn nghệ
thuật Khon đến với mọi người.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu “SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ
THUẬT KHON TRONG THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357-1767)”
nhằm mục đích:

3


Trình bày đặc điểm của hình thức nghệ thuật Khon
trong thời kỳ Ayutthaya, bởi vì đây là thời kỳ mà nghệ thuật
Khon trở nên gần như hồn thiện.
Trình bày bối cảnh lịch sử thời kỳ Ayutthaya thông qua
sự phát triển của nghệ thuật Khon, từ đó làm nổi bật khả
năng trị vì của các vị Vua thời kỳ này.
Trình bày ý nghĩa, tầm quan trọng của nghệ thuật
Khon đối với người dân Thái Lan nói riêng và nền nghệ thuật
thế giới nói chung. Từ đó rút ra những ý nghĩa, giá trị về tâm
thức và thực tiễn của người dân Thái thơng qua hình thức

nghệ thuật này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Về chủ thể: Đề tài tập trung nghiên cứu về chủ thể
“NGHỆ THUẬT KHON” xoay quanh bối cảnh lịch sử để hình
thành những đặc điểm này, khái quát những đặc điểm của
nghệ thuật Khon và những ý nghĩa, giá trị của nó. Nhiều đặc
điểm của nghệ thuật Khon mang màu sắc riêng của đất
nước Thái Lan vẫn cịn giữ đến hiện nay. Và chính những
đặc điểm nổi bật đó đã khiến nghệ thuật Khon trở thành
niềm tự hào của người dân Thái Lan.
Về không gian: Không gian nghiên cứu vấn đề là tại
Thái Lan. Loại hình nghệ thuật này được biết đến như niềm
tự hào của người dân Thái Lan. Nghệ thuật Khon có quan
hệ mật thiết với văn hóa truyền thống của dân tộc Thái Lan,
đậm đà bản chất tôn giáo.
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ở thời kỳ
Ayutthaya. Đây là một trong bốn thời kỳ của đất nước Thái
Lan, từ năm 1357 đến năm 1767. Các vị Vua trong thời kỳ
này không những tập trung đến xây dựng đất nước, bảo vệ
4


lãnh thổ, mà còn rất chú ý đến lĩnh vực văn hoá nghệ thuật.
Đây là giai đoạn mà nghệ thuật Khon phát triển rộng rãi và
mạnh mẽ nhất, đặt nền móng cho sự phát triển lớn mạnh
hơn nữa, trở thành mơn nghệ thuật được cơng nhận là Di
sản văn hố phi vật thể.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình làm tiểu luận, người thực hiện đã sử
dụng những phương pháp nghiên cứu sau:



Phương pháp tổng hợp: Chúng tơi đã tìm đọc những
tài liệu nghiên cứu từ các nguồn thứ cấp như tạp chí,
sách, tài liệu, bài báo và nghiên cứu phù hợp với chủ
đề bằng cả tiếng Việt , tiếng Thái và tiếng Anh liên
quan về lịch sử Thái Lan, lịch sử của nghệ thuật Khon,
những đặc điểm của nghệ thuật Khon và yếu tố giá trị
của nghệ thuật Khon trong xã hội,... để tổng hợp lại
thành những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu.



Phương pháp phân tích: Từ những yếu tố đã tổng
hợp, chúng tôi bắt đầu phân tích những vấn đề như lý
do lịch sử và tâm thức tác động đến nghệ thuật Khon
giai đoạn này , đặc điểm và ý nghĩa tồn tại trong những
đặc điểm này.



Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Vận dụng kết
hợp tri thức về lịch sử, văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật
võ thuật xuyên suốt quá trình nghiên cứu.
Là một đề tài về nghệ thuật, mang tính chất lịch sử

học, văn hóa học và đất nước học, quan điểm khi nghiên cứu là
tuân thủ phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngồi việc
phân tích mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử liên quan đến đặc
điểm của loại hình nghệ thuật Khon trong thời kỳ Ayutthaya, đề tài

5


cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát những sự kiện
lịch sử, phân tích đặc điểm của loại hình nghệ thuật Khon, bối
cảnh lịch sử hình thành nên những thay đổi của nghệ thuật Khon
trong giai đoạn này, cũng như là những ý nghĩa, giá trị tồn tại của
những đặc điểm đó đúng với những gì nó đã tồn tại.
5. Lịch sử nghiên cứu.
Nghệ thuật Khon thật sự đã trở thành loại hình nghệ
thuật phổ biến trên thế giới nhờ vào những đặc điểm nổi bật
mang màu sắc riêng và ý nghĩa thực tế của nó. Trong sự
phổ biến của nghệ thuật Khon hiện đại thì việc nghiên cứu
về lịch sử, đặc điểm, ý nghĩa cũng như sự phổ biến của
nghệ thuật Khon là cần thiết cho việc mở rộng phổ biến cho
nghệ thuật Khon nói riêng cũng như văn hóa Thái Lan trên
tồn thế giới nói chung nhưng vẫn giữ những màu sắc riêng
của nó chứ khơng bị mai một hay bị hịa lẫn bởi những nền
văn hóa khác.
Dưới đây là một số tư liệu có liên quan đến đề tài mà
chúng tơi tìm hiểu được:
Quyển sách “Dance, Drama and Theatre in Thailand
(The Process of Development and Modernization) của
Mattani Mojdara Rutnin (The Centre for East Asian Cultural
Studies for Unesco, The Tokyo Bunko, 1993): Đây là một
cơng trình nghiên cứu rất cơng phu về lịch sử hình thành và
phát triển của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống Thái
Lan, trong đó có nghệ thuật Khon. Trong quyển sách này,
nghệ thuật khon khơng được tác giả tìm hiểu kỹ trên những
phương diện nội dung hay hình thức sân khấu mà chủ yếu là

ở nguồn gốc và quá trình hiện đại hóa của nó.
6


“Thai puppets and Khon masks” của Natthanpatra
Chandavij (Promporn Pramualratana, Riverbooks, Thailand,
1999): quyển sách này chỉ tìm hiểu về mặt nạ khon, bên
cạnh một đạo cụ độc đáo khác của sân khấu truyền thống
Thái Lan là con rối. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố hình thức,
trong sách cịn có một bản tóm tắt văn bản Ramakien của
Rama I rất chi tiết để minh họa cho nội dung của nhiều loại
hình sân khấu truyền thống Thái Lan.
Ngồi ra, chúng tơi tìm thấy bài viết của Mary Lou
Robertson - Tiến sĩ dân tộc học của Đại học NIU (Northern
Illinois University)- về các đặc điểm của mặt nạ khon mang
tên “The Khon Masks”, trên địa chỉ web
:85/'Ihai/literature/ramakian/khonm
asksofthailand/khonkho n.htm. Đây là bài viết miêu tả tỉ mỉ về
những loại hình mặt nạ khon khác nhau và tơ đậm tính chất
ước lệ hóa cao của những hình thức mặt nạ này.
Về nội dung của nghệ thuật Khon, tức sử thi
Ramakien, có khá nhiều tài liệu nước ngồi đề cập đến vấn
đề này. Có thể kể ra đây quyển “The Adventures of Rama:
the story of the Great Hindu Epic Ramayana ” của Joseph
Gaer (Little Brown, Boston, 1954) nói về q trình bản địa
hóa của sử thi Ramayana ở nhiều quốc gia Đơng Nam Á,
trong đó có Thái Lan, hay văn bản “The Poetics of the
Ramakian ” bằng tiếng Anh của Theodora H. Bofman trên
địa chỉ
:85/thai/literature/ramakian/ramaki

an.htm.
Ngoài ra, rất nhiều trang web về văn hóa, du lịch, văn
học Thái Lan đều có những bài viết đề cập đến nghệ thuật
7


khon. Dĩ nhiên, hầu hết chúng đều là những bài viết giới
thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản nhất của loại hình
sân khấu này. Có thể liệt kê một số trang web như:




/>:85/thai/
....
Như vậy, trên thế giới đã có những thành tựu nghiên
cứu về vũ kịch mặt nạ Khon của Thái Lan, còn ở Việt Nam,
đây vẫn còn là một đề tài mới mẻ. Và tìm hiểu vấn đề này
trong thời điểm hiện nay là điều thực sự cần thiết.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài nghiên cứu “SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ
THUẬT KHON TRONG THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357-1767)”
mang đến những ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
+ Về ý nghĩa khoa học: Cung cấp thêm kiến thức, tài
liệu về lịch sử mà chủ yếu là đặc điểm của hình thức nghệ
thuật truyền thống Khon ở Thái Lan trong thời kỳ Ayutthaya
+ Về ý nghĩa thực tiễn: Đây là nguồn tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, học thuật và tìm hiểu thơng tin về
văn hóa Thái Lan hay lịch sử về sự phát triển của nghệ thuật
Khon trong thời kỳ Ayutthaya nói riêng. Đồng thời sẽ cung

cấp thông tin về đặc điểm và những ý nghĩa của nghệ thuật
Khon, từ đó giúp người nghiên cứu, người đọc hay người
học võ có cái nhìn tổng qt về đặc điểm nền tảng của nghệ
thuật thuật trong thời kỳ Ayutthaya.
8


7. Bố cục
Bài tiểu luận “SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT
KHON TRONG THỜI KỲ AYUTTHAYA (1357-1767)” gồm 23
trang, được chia thành 3 phần, bao gồm: Mở đầu, nội dung,
kết luận. Trong đó, phần nội dung được chia thành 3
chương:


Chương 1: Khái quát bối cảnh xã hội thời kỳ
Ayutthaya. Ở chương này, chúng tôi sẽ khái quát
về không gian và thời gian, về xã hội thời kỳ
Ayutthaya. Nhằm làm nền tảng cho việc nghiên
cứu sâu về nghệ thuật Khon.



Chương 2: Tìm hiểu chung về nghệ thuật Khon.
Ở chương này, chúng tôi sẽ giới thiệu khái quát
về lịch sử ra đời, cũng như về nghệ thuật Khon
trước thời kỳ Ayutthaya.




Chương 3: Nghệ thuật Khon trong thời kỳ
Ayutthaya. Ở chương này, chúng tôi sẽ đi sâu
vào các đặc điểm, cũng như ý nghĩa, vai trò của
nghệ thuật Khon đối với đời sống văn hoá tinh
thần của người dân Thái Lan.

9


II. NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát bối cảnh xã hội thời kỳ Ayutthaya
1. Khái quát lịch sử thời kỳ Ayutthaya
Vương quốc Ayutthaya (tiếng Thái: อ อออ อ อ ) là một vương
quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767. Quốc gia này
gọi là Vương quốc Ayutthaya vì kinh đô là thành phố Ayutthaya.
Vào thời điểm cực thịnh, Ayutthaya có biên giới gần trùng với Thái
Lan ngày nay, chỉ thiếu vùng Lan Na.
Từ thời vua Loethai, vương quốc Sukhothai bắt đầu suy yếu.
Các chư hầu của Sukhothai bắt đầu cơng khai chống lại. Một trong
số đó là khu vực Suphanburi do U Thong cai trị. Năm 1348, U
Thong đã dời trung tâm của mình xuống đồng bằng Chao Phraya.
Trên một cù lao sông, ông cho lập kinh đô mới gọi là Ayutthaya,
đặt tên theo Ayodhya ở Bắc Ấn Độ, thành của anh hùng Rama
trong sử thi Hindu Ramayana. U Thong tiếp tục vương hiệu
Ramathibodi (1351-1369).
Năm 1360, Ramathibodi tuyên bố Phật giáo Thượng tọa bộ
là quốc giáo của Ayutthaya và đưa các thành viên của một tăng
đồn từ Tích Lan để thiết lập các trật tự tôn giáo mới và truyền
giáo cho các thần dân của mình. Ơng cũng cho biên soạn một đạo
luật, dựa trên Dharmasastra của Ấn Độ (một văn bản luật Hindu)

và luật tục Thái, đây là những pháp chế của hoàng gia. Viết bằng
chữ Pali—một ngơn ngữ thuộc nhóm Ấn-Aryan gần gũi với tiếng
Phạn và là ngôn ngữ của các kinh điển Phật giáo Nam truyền nên nó như có sức mạnh của thần linh. Thêm các quy định hoàng

10


gia, đạo luật của Ramathibodi nhìn chung có hiệu lực cho đến tận
cuối thế kỷ 19.
Ramathibodi cố gắng mở rộng vương quốc của mình bằng
cách chinh phục các vương quốc khác ở miền Bắc gồm
Sukhothai, Kamphaeng Phet và Phitsanulok. Vào cuối thế kỷ 14,
Ayutthaya đã được xem là cường quốc mạnh nhất Đông Nam Á.
Nhưng vương quốc này không phải là một quốc gia thống nhất và
đơn nhất, mà là một chắp vá của các tiểu vương quốc tự trị và các
tỉnh chư hầu trung thành với quốc vương của Ayutthaya theo hệ
thống Mandala. Các tiểu vương quốc này do các hồng thân của
Ayutthaya trị vì, có qn đội riêng và đánh lẫn nhau. Quốc vương
phải cảnh giác để đề phịng các hồng thân liên kết với nhau
chống lại ơng hoặc liên kết với kẻ thù của Ayutthaya. Khi có tranh
chấp về sự kế vị ngai vàng, các hoàng thân đã đưa quân về kinh
đô để tăng sức ép.
Trong suốt thế kỷ 15, các nỗ lực của Ayutthaya hướng về
bán đảo Malay, nơi có trung tâm thương mại lớn Malacca nhằm
tranh giành quyền bá chủ. Malacca và các quốc gia Malay khác ở
phía Nam của Tambralinga đã theo đạo Hồi từ đầu thế kỷ và do
đó, Hồi giáo đã là một biểu tượng của sự đoàn kết của người
Malay chống lại người Thái. Dù thất bại trong việc khuất phục
quốc gia Malacca làm chư hầu, Ayutthaya tiếp tục kiểm soát việc
buôn bán béo bở trên eo đất, thu hút nhiều nhà buôn Trung Hoa

mua đặc sản về cho thị trường xa hoa của Trung Hoa.
Năm 1767, Myanmar xâm chiếm Ayutthaya, phá hủy hồn
tồn kinh đơ Ayutthaya và kết thúc kỷ nguyên của quốc gia kiêu
hãnh của người Thái. Đây là một trong nhiều cuộc xâm lăng trong
suốt lịch sử của người Thái Lan từ nước láng giềng Myanma quốc gia hùng mạnh nhất Đơng Nam Á thời kỳ đó.
11


2. Những nét nổi bật về xã hội thời kỳ Ayutthaya
Xã hội Thái Lan trong thời kỳ Ayutthaya Bao gồm 5 tầng lớp:
Vua, hồng tộc, q tộc, dân thường, nơ lệ. Ngồi ra, cịn có
những người được mọi người ở mọi tầng lớp kính trọng và
ngưỡng mộ, cụ thể là các nhà sư.
Bản chất của sự phân chia giai cấp trong xã hội Thái Lan là bất
biến, và cá nhân có thể bị suy giảm vị trí xã hội của mình. Tùy theo
khả năng Và lợi ích cho quốc gia. Năm giai cấp trong xã hội Thái
Lan dưới thời kỳ Ayutthaya bao gồm:


Nhà Vua: là người đứng đầu đất nước, có địa vị và quyền
lực cao nhất



Hồng Tộc: là những người thân cận bên cạnh nhà Vua



Quý tộc: là những quan chức, những người đóng vai trị giúp
đỡ trong việc cai trị vương quốc theo mệnh lệnh của hồng

gia.



Thường dân: là tầng lớp chiếm số đơng trong xã hội



Nơ lệ: là tầng lớp thấp kém nhất

Đặc biệt, các nhà sư, tăng lữ khơng được xếp vào bất kì tầng lớp
nào bên trên nhưng được người ở mọi tầng lớp kính trọng vì họ
được xem như cầu nối giữa các tầng lớp.

3. Tiểu kết
Có thể nói, xã hội thời kỳ Ayutthaya là một xã hội phong kiến
điển hình. Dưới thời kỳ Ayutthaya, các vị Vua không chỉ xây dựng,
kiến thiết đất nước, mà còn tập trung vào chăm lo đời sống của
nhân dân, và đặc biệt là luôn chú ý đến lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật, nhất là nghệ thuật dân gian. Vì thế, thời kỳ Ayutthaya được
12


xem là một trong những thời kỳ thịnh vượng, hùng mạnh nhất của
đất nước Thái Lan.

Chương 2: Tìm hiểu chung về nghệ thuật Khon
1. Nguồn gốc và tên gọi của nghệ thuật Khon
Khon là một loại hình sân khấu cổ của Thái hay người ta cịn
gọi là múa Khon vì trong diễn Khon, múa đóng vai trị chủ yếu.

Các diễn viên Khon, khi lên sân khấu diễn thường mang mặt nạ
theo các vai mình đảm nhiệm. Họ múa hoặc làm các động tác
minh họa cho cốt truyện do các danh ca ngồi phía sau sân khấu
hát vọng ra, theo nhạc đệm.
"Khon" là một hình thức văn hóa dân gian đặc sắc tương
đương với loại hình sân khấu truyền thống Kabuki của Nhật Bản,
tuồng, chèo của Việt Nam. Trong đó, nhân vật nam mang mặt nạ,
cịn nữ thì trùm khăn có mạ vàng và một dàn nhạc đệm cho các
điệu múa và lời thoại. Khon bắt nguồn từ các điệu múa dân gian
và phát triển thành một loại hình nghệ thuật được biểu diễn và
thưởng thức trong cung đình của nước Xiêm ngày trước”.
Nghệ thuật "Khon" có nguồn gốc sâu xa từ những nghi lễ và
điệu nhảy ở đền miếu Ấn Độ. Người Thái đã kết hợp nó với nhiều
động tác võ thuật để sáng tạo ra một loại hình sân khấu vô cùng
độc đáo. Thế kỷ XIV là thời gian sân khấu khon bắt đầu để lại
nhiều dấu vết về sự xuất hiện của mình trong lịch sử.
Trong hình thức nguyên thuỷ, "Khon" là tổng hợp của nhiều
nghệ thuật trình diễn khác nhau, từ kịch bóng, múa cổ Chak Nak
đến võ thuật cổ điển.
13


Quá trình phát triển của nghệ thuật "Khon" bắt đầu từ thời kỳ
hoàn thiện vào thời đại Ayutthaya (1350 - 1767), và đạt đến trình
độ hồn hảo vào những giai đoạn trị vì của vua Rama I và Rama II
của triều đại Chakri.
Từ thời kỳ trị vì của vua Rama IV về sau, nghệ thuật khon
trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, đồng thời tiếp nhận những
ảnh hưởng mới từ phương Tây. Đến nay, nghệ thuật "Khon" đã
thay đổi nhiều so với thời kỳ đầu của nó.


2. Nghệ thuật Khon trước thời kỳ Ayutthaya
Khon là điệu múa truyền thống của Thái Lan kết hợp nhiều
nghệ thuật được đề cập trong cuốn sách văn học Thái Lan Lilit
Phra Lo (khoảng năm 1529) được viết trước thời đại của vua
Narai Maharaj.
Nguồn gốc của nó khơng được biết chính xác, nhưng có bốn
khả năng. Đầu tiên, "Khon" trong tiếng Benguela Kalinin xuất hiện
trong từ "kora" hoặc "Khon" là tên một loại nhạc cụ làm bằng da
của người Hindi. Bề ngồi và hình dạng của nó tương tự như
trống. Nó đã được phổ biến và được sử dụng cho các buổi biểu
diễn truyền thống địa phương. Người ta cho rằng kora là một trong
những nhạc cụ được sử dụng trong các buổi biểu diễn Khon.
Bằng tiếng Tamil "Khon" bắt nguồn từ từ "koll" gần nghĩa với "goll"
hoặc "golumn" trong tiếng Tamil. Những từ Tamil này liên quan đến
việc ăn mặc hoặc trang trí cơ thể từ đầu đến chân như trong việc
sử dụng trang phục của người Khon. "Khon" ở Iran có nguồn gốc
từ các từ "zurat khan" có nghĩa là 'búp bê bằng tay' hoặc 'con rối',
được sử dụng trong các buổi biểu diễn địa phương.
3. Tiểu kết
14


Bởi vậy có thể nói, trước thời kỳ Ayutthaya, nghệ thuật Khon
chưa tìm được vị thế riêng cho mình, vẫn còn khá xa lạ và mờ
nhạt đối với người dân Xiêm. Đến thời kỳ Ayutthaya, nghệ thuật
Khon mới thực sự vươn đến đỉnh cao, trở thành thứ không thể
thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Thái Lan sau này. Từ
đó, ta có thể thấy dưới thời kỳ Ayutthaya, các vị vua không chỉ tập
trung vào xây dựng, bảo vệ đất nước, mà còn chú trọng đến việc

phát triển văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần của người dân
bằng các loại hình nghệ thuật, mà nghệ thuật Khon là một ví dụ
điển hình.

15


Chương 3. Nghệ thuật Khon trong thời kỳ Ayutthaya

1. Đặc điểm của nghệ thuật Khon
a. Diễn viên
Diễn viên của đoàn "Khon" thường chia làm bốn loại: một
loại chuyên đóng vai nam, một loại chuyên đóng các vai nữ, có
loại chuyên đóng các vai quỷ và các vai Siman được chuyên mơn
hóa cao độ trong các vai của mình, cho nên khi đã tập vai nào rồi,
họ không được tập các vai khác. Mỗi diễn viên luyện tập các vai
diễn của mình rất cơng phu từ lúc mới sáu hoặc bảy tuổi. Vì vậy,
khi diễn bao giờ họ cũng thu được những kết quả tốt đẹp.

Diễn viên kịch Khon. Nguồn: Internet
Trước thế kỷ 19, diễn viên kịch Khon chủ yếu là đàn ơng.
Sau đó, phụ nữ mới bắt đầu tham gia các vai diễn. Ngày nay,
Khon hiện đại chứa đựng nhiều yếu tố từ nai lakhon bao gồm cho
nữ biểu diễn nhân vật nữ mà theo truyền thống được thực hiện
bởi những người đàn ông. Trong khi nhân vật yêu tinh và khỉ vẫn
còn đeo mặt nạ, hầu hết các nhân vật của con người thì khơng.
16


b. Mặt nạ

Mặt nạ là thứ đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong
nghệ thuật Khon. Các mặt nạ muôn màu, mn vẻ về kích thước,
hình dáng, màu sắc, phù hợp với tính chất quy ước cho từng nhân
vật cụ thể trong khi diễn. Sân khấu Khon của Thái Lan có tới 30
mặt nạ các nhân vật là người, 100 mặt nạ quỷ... Tại sao họ lại đeo
mặt nạ? Vì, dùng mặt nạ để một diễn viên cũng có thể diễn tả
được các loại thánh thần, ma quỷ, đạo sĩ, quý tộc…
Chiếc mặt nạ Khon được vẽ rất sắc sảo. Nó là yếu tố quyết
định cho các bộ trang phục lộng lẫy được sử dụng trong hình thức
múa cổ điển mang phong cách của Thái Lan được biết đến với tên
gọi là Khon. Điệu múa Khon điển hình thường kể lại một tình tiết
nào đó trong sử thi Ramayana của đạo Hindu. Thế nhưng, hiện
nay, mặt nạ Khon cũng được sử dụng như là vật trang trí được
trưng bày trong nhà và thậm chí xuất hiện tại nhiều nhà hàng Thái
Lan ở nước ngoài.

Mặt nạ Khon. Nguồn: Internet
Mỗi nét văn hóa đều mang nét đặc trưng của nó và mặt nạ
Khon ln mang hơi thở của cuộc sống có thể được xem là hình
ảnh tiêu biểu nhất của văn hóa Thái Lan.
17


c. Các điệu múa
Bên cạnh mặt nạ, múa tạo ra sức hấp dẫn chính cho Khon,
động tác múa của Khon đẹp, hùng dũng, thiết tha, dứt khoát và
gợi cảm. Trong khi diễn, diễn viên chỉ múa chứ khơng nói hoặc
hát, toàn bộ nội dung và lời thoại do ban đồng ca hát vọng ra từ
trong hậu trường, kịch bản của Khon chủ yếu lấy từ các tác phẩm
Ramakien.

Các động tác múa và kịch Khon gợi cảm, rất đẹp. Múa trong
sân khấu Khon được chú ý, các động tác, các điệu múa cần phải
chuẩn xác, khỏe đẹp, hùng dũng và dứt khoát, đặc biệt trong cái
cảnh chiến đấu. Điểm nổi bật trong kịch Khon là các vai của tạo
hình sân khấu này đều do nam đóng, kể cả các vai nữ.
Múa, khởi phát từ trái tim, dâng lên ánh mắt, truyền ra cánh
tay, bốc thành ngọn lửa thiêng và tỏa sáng trên đôi bàn tay, mang
ý nghĩa đốt cháy và hủy diệt mọi phiền não, tới khi toàn thân và
cánh tay rung động, vươn cao thì cái Tiểu ngã hạn hẹp thốt ra
khỏi con người để hịa vào cái bao la của Đại ngã... Khi múa các
ngón tay của vũ nữ luôn hướng lên cao, như là ngọn lửa thiêng
bùng cháy…

18


Vở diễn Ramakien. Nguồn: Internet
Có ý kiến cho rằng điệu múa truyền thống Khon được du
nhập từ đất nước Ấn Độ sang Thái Lan vào khoảng thế kỉ thứ X và
được phát triển từ một nghi lễ tôn giáo của đạo Hindu thành một
dạng kịch mang tính giáo lý ở cung đình hồng gia Thái Lan. Là
một hình thức văn hóa dân gian đặc sắc tương đương với loại
hình sân khấu truyền thống Kabuki của Nhật Bản, Khon đã được
biểu diễn trong nhiều sự kiện xã hội quan trọng. Thế nhưng, giống
như nhiều truyền thống cổ xưa khác, hiện tại loại hình nghệ thuật
này đang phải đấu tranh để được tồn tại.
d. Hình thức sân khấu
Các hình thức sân khấu ở đây rất phong phú, rất đa dạng
nhưng khơng có một hình thức sân khấu của chung cho mọi giai
cấp. Mỗi tầng lớp trong xã hội đã tìm được các hình thức sân khấu

riêng thích hợp với mình. Các gia đình q tộc, thuộc dịng dõi vua
quan ưa thích kịch Khơn Răbăm, cịn những người nhân dân chỉ
có thể thưởng thức các hình thức sân khấu dân gian như Lakhon
19


múa rối, Sêpa v.v… Chính vì vậy, trong thời gian dài phát triển,
sân khấu Thái Lan đã phân hóa thành hai loại rõ rệt: sân khấu
cung đình và sân khấu dân gian. Sân khấu cung đình về hình thức
vơ cùng lộng lẫy, xa hoa, trang trí điêu luyện, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của sân khấu Ấn Độ. Sân khấu dân gian thì mộc mạc, giản dị,
đậm màu sắc dân tộc.
Một vở diễn Khon trước khi ra mắt cơng chúng có một sự
đầu tư kĩ lưỡng từ bối cảnh, trang phục, âm nhạc đến từng nhân
vật. Vì thế mà một nhà nghiên cứu sân khấu nổi tiếng từ những
năm đầu thế
kỷ
XIX

đã

viết

một
cách

trang
trọng: “Sân khấu Khon được trình diễn tại địa điểm đẹp... trang
phục và trang trí vì vậy phức tạp, kỹ lưỡng và thường được cố
gắng làm một cách chính xác nhất. Trang phục thường làm theo

lối phục sức truyền thống cổ điển và khơng được thay đổi vì nó đã
được tìm cho mơ hình đẹp, thích hợp nhất...”.
Khung cảnh sân khấu của một vở kịch Khon. Nguồn: Internet
2. Vai trò và ý nghĩa của nghệ thuật Khon
20


a. Vai trị của nghệ thuật Khon
Có thể nói, nghệ thuật Khon đóng vai trị rất quan trọng trong
văn hố bản địa của người dân Thái Lan. Giúp truyền tải đến mọi
người và các thế hệ sau này về những câu chuyện mang tính sử
thi, hùng tráng thơng qua một hình thức biểu diễn đậm đà bản sắc
Thái Lan. Đồng thời, nghệ thuật Khon cịn có vinh dự được
UNESCO cơng nhận là Di sản văn hoá phi vật thể, đây cũng là Di
sản văn hoá phi vật thể đầu tiên ở Thái Lan. Nghệ thuật Khon vừa
đóng vai trị như một môn nghệ thuật, vừa như là một biểu tượng
văn hố khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân
Thái Lan.
b. Ý nghĩa của nghệ thuật Khon
Không chỉ mang ý nghĩa về mặt tinh thần, nghệ thuật Khon
còn mang ý nghĩa biểu tượng, đại diện cho văn hoá Thái Lan. Nếu
Việt Nam được thế giới biết đến thông qua những lời hát đầy sâu
lắng, chan chứa nỗi lòng của mông nghệ thuật cải lương, Trung
Quốc là cái nôi, nơi sinh ra và phát triển của thể loại kinh kịch nổi
tiếng, thì ở Thái Lan, thế giới như được chiêm ngưỡng bản sắc
văn hố Thái Lan thơng qua những chiếc mặt nạ, những điệu múa
điêu luyện của nghệ thuật Khon. Đây không chỉ mang ý nghĩa về
mặt tinh thần, mà cịn là tiếng nói, niềm kiêu hãnh, sự tự hào của
văn hoá nghệ thuật dân tộc Thái Lan
3. Tiểu kết

Nếu nghệ thuật Khon, một biểu tượng cho nền văn hố Thái
Lan, được cả thế giới biết đến thì chúng ta không thể nào không
nhắc đến các vị vua trong thời kỳ Ayutthaya. Chính nhờ sự quan
tâm đến mặt tinh thần, cũng như là văn hoá nghệ thuật của họ,
21


nghệ thuật Khon mới có cơ hội được phát triển một cách rực rỡ.
Dưới thời Ayutthaya, nghệ thuật Khon phát triển cực thịnh, đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật, truyền tải cho người dân những câu
chuyện, những trang sử thi hào hùng đồng thời như là chiếc cầu
nối giữa nghệ thuật và văn hoá địa phương ở Thái Lan.

22


III. Kết Luận
Nghệ thuật Khon đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống của người dân Thái Lan. Đây được xem là bức
tranh phản chiếu đời sống tinh thần, bản sắc văn hoá dân tộc của
người dân Thái Lan. Dưới thời kỳ Ayutthaya, nghệ thuật Khon đã
phát triển đến mức hoàn hảo, trở thành một nét đặc trưng trong
văn hoá, một niềm tự hào của người dân Thái Lan. Hiện nay, do
sự phát triển nhanh đến chóng mặt của xã hội, những giá trị nghệ
thuật của thể loại Khon đang dần bị mai một. Hi vọng là trong
tương lai, nghệ thuật Khon có thể lấy lại vị thế vốn có của mình,
một niềm tự hào của người dân ở xứ chùa Vàng.

23



TÀI LIỆU THAM KHẢO:






Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Men (2009), Tìm hiểu nghệ thuật Khon của
Thái Lan, Cơng trình dự thi Giải thưởng sinh viên nghiên
cứu khoa học - Euréka lần thứ 11 năm 2019
2. TÌM HIỂU VỀ NGHỆ THUẬT "KHON" CỦA THÁI LAN
< xem ngày 10/1/2021
Tiếng Anh
1. Marina Kochetkova (2020), Khon – The Art of Thai Dance,
Daily Art Magazine
Tiếng Thái
1. < xem ngày 12/1/2021
2. EJeab Academies (2018), ออออออ
อออออออ
ออออออ
ออออ อออออออออ
อออ
ออออออออ, Daily News Thailand

24




×