Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HSG: TÂM HỒN, TRÍ TUỆ, TÀI NĂNG CỦA CON NGƯƠI VIỆT NAM QUA VĂN HỌC DÂN GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.74 KB, 23 trang )

Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
CHUYÊN ĐỀ DẠY ĐTQG 2020

TÂM HỒN, TRÍ TUỆ, TÀI NĂNG
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM QUA
VĂN HỌC DÂN GIAN


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
MỤC LỤC

I. Tại sao VHDG thể hiện sâu sắc tâm hồn, trí tuệ, tài năng của con người Việt
Nam thời xưa?...................................................................................................3
II. Vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ, tài năng của con người VN qua VHDG.................3
1. Vẻ đẹp tâm hồn con người VN qua VHDG...............................................3
2. Trí tuệ, tài năng của con người VN qua VHDG......................................10
a. Trí tuệ của con người VN trong nhận thức về vũ trụ, thiên nhiên...........10
b. Trí tuệ của con người VN trong nhận thức về con người và các mối quan
hệ xã hội......................................................................................................12
c. Trí tuệ, tài năng của con người Việt Nam trong việc sáng tạo các tác
phẩm VHDG................................................................................................15
III. Nét riêng biệt, độc đáo trong nội dung và cách thể hiện tâm hồn, trí tuệ, tài
năng của con người VN qua VHDG................................................................15
1. Nét riêng biệt trong nội dung..................................................................15
2. Nét riêng trong cách thể hiện...................................................................15
IV. Luyện tập...................................................................................................15


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
I. Tại sao VHDG thể hiện sâu sắc tâm hồn, trí tuệ, tài năng của con người
Việt Nam thời xưa?


- Mối quan hệ giữa nhà văn và tác phẩm
Tác phẩm văn học lấy ngôn từ nghệ thuật làm chất liệu và hình tượng nghệ
thuật làm phương tiện phản ánh thế giới. Thơng qua đó, nhà văn thể hiện tư
tưởng, tình cảm và những triết lý nhân sinh của mình. “Tác phẩm nghệ thuật
nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ
khơng những ghi lại cái đã có rồi mà cịn muốn nói một điều gì mới mẻ.”
(Nguyễn Đình Thi)
Tác giả của tác phẩm văn học dân gian là người bình dân lao động. Trong quá
trình sáng tác và lưu truyền, tác giả dân gian đã gửi gắm tư tưởng, tình cảm,
lối tư duy, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan. Thông qua tác phẩm
VHDG, ta thấy được tâm hồn, trí tuệ, tài năng của người bình dân.
- Mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống.
Bản chất của văn học là tấm gương phản ánh hiện thực cuộc sống. Thông qua
văn học, ta nhận thức được hiện thực đời sống của thời đại được tác giả phản
ánh. Tác phẩm văn học vì thế là thước phim quay chậm, giúp người đời sau
có thể soi vào đó để “hồi quang quá khứ”, để biết và hiểu được hiện thực đã
xảy ra.
Tác phẩm văn học dân gian được hình thành từ thuở sơ khai mở nước, khi
người Việt chưa có chữ viết, ghi lại quan điểm, nhận thức của người Việt về
thế giới xung quanh, thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt
thuở ban đầu.
II. Vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ, tài năng của con người VN qua VHDG
1. Vẻ đẹp tâm hồn con người VN qua VHDG
a. Tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Văn học dân gian sinh thành từ trong đời sống của người bình dân – những cư
dân nơng nghiệp, gắn liền với văn hóa làng xã  Con người Việt Nam sống
chan hịa gắn bó với làng quê, với thiên nhiên.

- Yêu cảnh thiên nhiên gần gũi, thân thuộc
“Gió đưa cành trúc la đà……………….Tây Hồ”
- Tự hào về cảnh trí thiên nhiên đất nước
“Đồng Đăng có phố Kì Lừa………..Tam Thanh”

“Nam Kì sáu tỉnh em ơi,
Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn.
Sơng Hương nước chảy trong ln,
Núi Ngự danh tiếng cả mn dặm ngồi.

“Nhà Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

“Ngày xuân cái én xôn xao,
Con công cái bán ra vào chùa Hương
Chim đón lối, vượn đưa đường,
Nam mơ đức Phật bốn phương chùa này.

“Ngọ Mơn năm cửa chín lầu,
Cột cờ ba bậc, Phú Văn Lâu hai tầng.


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia



Ở đâu năm cửa, nàng ơi!

Sơng nào sáu khúc nước chảy xi một dịng?
Sơng nào bên đục bên trong?

Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?
Ở đâu là chín tầng mây?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng?
Ở đâu lại có con sơng Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai mà sinh ra cửa, sinh nhà, nàng ơi?
Kìa ai đội đá vá trời?
Kìa ai trị thủy cho đời bình yên
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời?
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
- Thành Hà nội năm cửa, chàng ơi!
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xi một dịng.
Nước sơng Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sơng lắm nước, núi nay lắm vàng.
Chùa Hương Tích mà lại ở hang;
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết khơng?
Ơng Nguyễn Minh Khơng xin được túi đồng,
Trên trời lại có con sơng Ngân Hà.

Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;
Ông Hữu Sào sinh ra cửa, ra nhà, chồng ơi!
Bà Nữ-Oa đội đá vá trời;
Vua Đại Vũ trị thủy cho đời bình yên

- Tình yêu thiên nhiên gắn liền với lao động sản xuất
“Đứng bên ni đồng……………bát ngát mênh mông”
- Luôn nhớ về quê hương mỗi khi đi xa
“Anh đi anh nhớ quê nhà…………..bên đường hôm nao”
b. Tâm hồn chan chứa tình yêu thương giữa con người với con người
Con người Việt Nam vốn có truyền thống tương thân tương ái, truyền thống
nhân đạo từ ngàn xưa. Hơn nữa, môi trường sống cộng đồng làng xã khiến
con người gắn bó gần gũi với nhau. Sản xuất nơng nghiệp và nền kinh tế còn
lạc hậu khiến con người cần phải gắn bó, nương tựa vào nhau để sinh sống.
- Tình cảm u thương trong gia đình: biết ơn ơng bà cha mẹ, yêu quí anh
em...


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
“Anh em như thể tay chân
Rách lành đùm đọc, dở hay đỡ đần”
“Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”
- Tình cảm yêu thương, đùm bọc giữa những người trong một cộng đồng”
“Nhiễu điều……….thương nhau cùng”
“Bầu ơi……………..một giàn”
- Tình u đơi lứa
“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
“Khăn thương nhớ ai……
..Lo vì một nỗi không yên một bề”
 Tâm hôn lãng mạn bay bổng, khao khát tình yêu và hạnh phúc
- Tình nghĩa bạn bè
“Cây đa cũ, bến đị xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”
“Ra đi vừa gặp bạn hiền
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời”
c. Tâm hồn yêu đời, lạc quan, tin tưởng ở tương lai, tin tưởng ở chính
mình


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Quy luật của cuộc sống: thiện thắng ác, qua cơn bĩ cực đến ngày thái lai.
Người bình dân VN ln tin vào quy luật đó và lấy đó làm điểm tựa tinh thần
để vượt qua gian khó.
- Lạc quan, hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn
Ví dụ: Mười cái trứng
- Tin tưởng ở chính nghĩa, cái thiện thắng cái ác
Ví dụ: Kết thúc có hậu trong truyện cổ tích
- Cuộc sống gian khổ khó khăn nhưng luôn tràn ngập tiếng cười:
+ Ca dao hài hước
+ Truyện cười dân gian
d. Nghị lực phi thường, vượt lên khó khăn, nghịch cảnh
- Kiên trì, bền bỉ làm lụng vượt qua khó khăn
+ Vượt qua khó khăn, thiếu thốn về vật chất, khơng đầu hàng số phận
Ví dụ: Chử Đồng Tử
VD: Mười cái trứng
+ Vượt qua thiên tai để kiến tạo cuộc sống

Ví dụ: Sơn Tinh Thủy Tinh
- Kiên trì đấu tranh chống lại cái ác, giành lại sự sống, bảo vệ tình yêu và
hạnh phúc
+ Đấu tranh với cái ác để giành lại sự sống
Ví dụ: những lần hóa thân của Tấm
+ Bảo vệ tình u và hạnh phúc
Ví dụ: Chử Đồng Tử


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
- Kiên trì đấu tranh chống lại kẻ thù, bảo vệ giang sơn gấm vóc
Ví dụ: Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy, Thánh Gióng
Ca dao: “
“Q em sóng nước xanh xanh
Bán bn tấp nập ghe mành liên miên
Từ ngày giặc Pháp cuồng điên
Bao vây đốt phá ghe thuyền nát tan
Chồng em đi biển thác oan
Con em bụng đói da vàng bọc thân
Sớm hôm em chạy tảo tần
Bữa khoai bữa sắn em lần ni con
Đá mịn nhưng dạ khơng mịn
Q em cịn khổ em còn đánh Tây
“Đã là cây bách, cây tùng
Nắng mưa đâu quản, bão giơng đâu sờn
Đã rằng vì nước vì non
Nước nhà còn giặc, ta còn ra đi”

“Thà rằng uống nước hố bom
Còn hơn theo giặc, lưng khom, chân quỳ”


“Con ơi, con ngủ cho mùi
Để mẹ ngồi vót cho rồi bó chơng.
Chơng này gìn giữ non sơng,
Chơng này góp sức diệt quân bạo tàn.


Chun đề dạy HSG Quốc gia
Chơng này xóa sạch tóc tang,
Chông này đem lại tiếng đàn lời ca
Cho con gần mẹ gần cha,
Cho nước độc lập, cho nhà yên vui.
Con ơi con ngủ cho mùi,
Để mẹ ngồi vót cho rồi bó chơng”
--------------------------2. Trí tuệ, tài năng của con người VN qua VHDG
Văn học dân gian Việt Nam là nguồn tư liệu ít được khai thác về mặt triết học,
vì, trước hết người ta thường coi đó là thứ văn học truyền miệng, kỹ thuật lưu
truyền thấp kém nên dễ bị tam sao thất bản. Thứ đến, nó bị xem là loại văn
phong khơng bác học, có nhiều hạn chế, lạc hậu. Song, thật ra trong thứ văn
chương bình dân ấy đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng mà ở đó, chúng
ta cũng có thể nghiệm được năng lực tư duy, phán đốn, phân tích và nhận
thức của người Việt Nam. Thông qua văn học dân gian, ta thấy được trí tuệ và
tài năng của con người Việt Nam.
a. Trí tuệ của con người VN trong nhận thức về vũ trụ, thiên nhiên
- Nhận thức về sự hình thành của vũ trụ
Các thần thoại, truyền thuyết dân gian cổ xưa do những người dân sơ khai với
một trí thơng minh chưa phát triển đã đặt vấn đề về nguồn gốc của vũ trụ, con
người:
+ Trời và đất cách xa nhau. Theo thần thoại, đó là do có thần trụ trời đã dựng
một cây cột chống trời, đẩy trời lên cao.

+ Trời trịn, đất vng (Sự tích bánh chưng bánh giày)
+ Tính tương đối của khối lượng, thời gian, khơng gian


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Thuyết tương đối của Anhxtanh khẳng định rằng, một vật khi chuyển động
với một vận tốc nhanh bằng tốc độ ánh sáng thì khối lượng của nó có thể tăng
lên, khơng gian co lại và thời gian thì trơi chậm đi. Thuyết tương đối đó, ngày
nay, đã được các nhà bác học kiểm nghiệm là đúng và chuẩn xác. Một con tàu
vũ trụ đi với vận tốc xấp xỉ vận tốc ánh sáng, thời gian trơi đi ở đó chỉ có 1
năm; trong khi đó, lấy sự đứng yên của trái đất làm chuẩn thì thời gian đã trôi
là 100 năm. Trong truyền thuyết của nhiều dân tộc đã từng có những liên hệ
đến tính tương đối của khối lượng, không gian, thời gian tương tự như vậy,
chẳng hạn trong truyền thuyết Từ Thức gặp tiên của người Việt Nam. Chàng
trai Từ Thức vơ tình cứu một nàng tiên bị mắc nạn trên trần thế, vì cảm phục
tấm lịng hào hiệp, nàng mời Từ Thức lên cõi tiên chơi có 3 năm. Khi trở về
làng q thì mọi vật đã đổi thay, thời gian trơi đi tận 80 năm, bạn bè người
thân đều đã chết hết cả, đứa cháu khi chàng ra đi mới 1 tuổi nay đã trở thành
ông lão 80 tuổi.
=> Một số nhà nghiên cứu văn hoá dân gian trên thế giới đã mạnh dạn tuyên
bố rằng, những người sáng tạo ra các truyền thuyết trên đã đi trước các nhà
khoa học khi đặt vấn đề nguồn gốc vũ trụ và "rất có thể nhiều giả thuyết của
các nhà khoa học về vũ trụ được sinh ra bởi sự thúc đẩy của tâm thức dân
gian nhiều hơn bởi các suy luận khoa học.
- Nhận thức về sự hình thành của con người, sự tồn tại của các tộc người
khác nhau (Truyện “Quả bầu mẹ”)
- Nhận thức tự nhiên để phục vụ lao động sản xuất
VD:
“Chớp đơng nhay nháy, gà gáy thì mưa”
“Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa”

“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
=> Nhận thức, hiểu rõ các hiện tượng tự nhiên không phải là chuyện một sớm
một chiều, mà là kết quả của sự đúc rút kinh nghiệm qua hàng nghìn năm.
Nhờ việc nhận thức được các hiện tượng tự nhiên, người bình dân Việt Nam
có thể chủ động trong lao động sản xuất để đạt kết quả tốt:
“Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy cịn trơng nhiều bề
Trơng trời, trơng đất, trơng mây
Trơng mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”
Nhờ nhận thức được tự nhiên mà con người có thể cải tạo tự nhiên để phục vụ
cho cuộc sống: Đắp đê chống lũ lụt (Sơn Tinh Thủy Tinh), khai phá đầm
hoang (Chử Đồng Tử)
b. Trí tuệ của con người VN trong nhận thức về con người và các mối
quan hệ xã hội.
- Nhận thức: con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
Có một câu tục ngữ đẹp được coi là tiêu biểu cho tư tưởng nhân văn về con
người, đề cao hết mức giá trị và vị thế của con người trong trời đất. Đó là
“người là hoa của đất”. Như vậy, con người là sản phẩm của tự nhiên, nhưng
là sản phẩm cao nhất, hoàn mỹ nhất của tự nhiên, vừa có vẻ đẹp về thể xác,
vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ.
Con người là chúa tể của mn lồi vì nó có trí khơn (“Trí khơn của ta đây”);
, có khả năng cải tạo thiên nhiên, nó là Con nhưng cũng là Người. Ngồi
những nhu cầu bản năng, con người cịn có ý thức, có khả năng thăng hoa
những nhu cầu ấy thành Người. Chẳng hạn, con người thăng hoa nhu cầu ăn
uống thành văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu.
- Con người đề cao đời sống tinh thần hơn là vật chất, coi linh hồn cao
hơn thể xác.



Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
+ Con người ham sống nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có
vật chất nhưng cịn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh
thần, là tình thương và danh dự (“Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước
đục đau lịng cị con”. “Sống vì mồ mả, ai sống bằng cả bát cơm”…).
“Thà ăn bắp họp đơng vui/ Cịn hơn giàu có mồ cơi một mình” hoặc hoặc
“Đói cho sạch, rách cho thơm”. Họ ca ngợi cảnh “Cơm trắng ăn và chả
chim/ Chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà lo”, nhưng cũng chia sẻ niềm vui với
cảnh “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”.
+ Họ coi linh hồn cao hơn thể xác. Vợ Trương Ba nhận anh hàng thịt là
chồng, vì xác anh hàng thịt mang linh hồn Trương Ba. Nói thế khơng phải là
người bình dân xưa hiểu quá đơn giản về bản thể con người. Trong bản thể
con người, trước cả Preude, người bình dân xưa hiểu vai trị, vị thế của vơ
thức, của ẩn ức sinh lý trong tâm thức con người. Có một chuyện: Người anh
mới cưới vợ, có việc phải đi xa ít lâu, dặn em trai ở nhà phải trông coi chị dâu
cho mình. Người em ở buồng bên cạnh, sợ chị dâu đêm đi (theo trai) liền đục
vách ra một lỗ rồi thò tay qua đặt lên bụng chị (để nếu chị bỏ đó thì biết). Nào
ngờ bụng chị ngày một to ra, khi người anh trở về cho là em đã phạm tội loạn
luân, liền đánh chửi, người em thanh minh khơng được, tự tử chết. Sau chị
dâu đến kì mãn nguyệt khai hoa, sinh ra một cái bàn tay. Như vậy, người bình
dân xưa thừa nhận bản năng vơ thức có vị trí của nó trong tâm thức con
người, ngay cả khi nó đã bị (được) ý thức chế ngự.
- Nhận thức được vai trò của lao động sản xuất và sự cần thiết của cơng
cụ sản xuất
Người bình dân hiểu rằng muốn có hạnh phúc, trước hết phải được ấm no.
Muốn ấm no thì cần phải lao động cái quan trọng nhất, tiên tiến nhất trong sản
xuất là công cụ lao động. VD: Truyện “Thần sắt” (cổ tích dân tộc Thái), sở dĩ
người xấu xí, con gái trơng thấy phải chạy, bà già thì ơm mặt khóc vì anh đói



Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
ăn, mùa màng thất bát do chỉ biết lấy que chọc lỗ gieo hạt. Đến khi có sắt, biết
rèn cuốc cày, làm đất kĩ, mùa màng bội thu, ăn no, mặc ấm, anh trở nên dẹp
đẽ, bà già trông thấy cười, con gái trông thấy chạy theo.
Trong quan niệm của người bình dân, nhiều nhân vật chính diện mà họ xây
dựng trong thần thoại, truyền thuyết là những người anh hùng trong lao động:
Sơn Tinh là anh hùng trị thủy, Chử Đồng Tử là anh hùng khai phá đầm lầy…
- Ý thức về nòi giống, quốc gia, dân tộc
Có thể nói, ít có dân tộc nào trên thế giới có ý thức sâu sắc về nòi giống như
dân tộc Việt Nam. Câu chuyện thần thoại Lạc Long – Âu Cơ là niềm tự hào
của người Việt Nam hàng ngàn năm nay.
- Quan điểm mỹ học dân gian: Đề cao cái đẹp phẩm chất bên trong hơn là
vẻ bề ngoài: “Cái nết đánh chết cái đẹp”, “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
- Quan điểm đạo đức học dân gian: Đề cao tình u thương, lịng nhân đạo
VD: “Thương người như thể thương thân”, “Dẫu xây chín đợt phù đồ/ Sao
bằng làm phúc cứu cho một người”;
- Phép biện chứng
VD: “Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài”,
“Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”
- Quan điểm xã hội học:
Con người được đặt trong các mối quan hệ xã hội và có ảnh hưởng lẫn nhau.
“Một người làm quan cả họ được nhờ”.
Đề cao địa vị xã hội của con người:
“Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”;
- Quan điểm tâm lý học: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi chẳng tiếc,
tiếc công cầm vàng”



Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
c. Trí tuệ, tài năng của con người Việt Nam trong việc sáng tạo các tác
phẩm VHDG
- Trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo hình ảnh, chi tiết kì ảo hoang đường.
- Biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật để thể hiện tư tưởng, tình cảm.
III. Nét riêng biệt, độc đáo trong nội dung và cách thể hiện tâm hồn, trí
tuệ, tài năng của con người VN qua VHDG.
1. Nét riêng biệt trong nội dung
- Đời sống tâm hồn phong phú, trọng nghĩa tình, coi trọng đời sống tinh thần,
xem đó là sức mạnh để vượt qua khó khăn, nghịch cảnh.
- Mặc dù nhận thức về thiên nhiên ở mức độ sơ khai, nhận thức nhưng chưa
thể lí giải tự nhiên từ góc nhìn khoa học nhưng người bình dân ln chủ động,
sáng tạo để chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho đời sống.
2. Nét riêng trong cách thể hiện
- VHDG là tiếng nói của người bình dân lao động, thể hiện đời sống tâm hồn
và sức sống của con người gắn liền với những cảnh sinh hoạt đời thường,
thiên nhiên dân dã, gần gũi  Cách nói giản dị dễ hiểu, hình ảnh thân thuộc.
- Lí giải tự nhiên hoặc thể hiện ước mơ khát vọng bằng những yếu tố kì ảo
hoang đường.
IV. Luyện tập
Đề bài 1
Về truyện cổ tích, giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam có nhận xét:
“Truyện cổ tích thường cho chúng ta thấy rằng, trong cuộc đấu tranh cho
một cuộc đời tốt đẹp, có đau khổ mà khơng bng xi, có thất bại mà khơng
đầu hàng, có bi thảm mà khơng tuyệt vọng, thực trạng đen tối nhưng ánh
sáng của niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm của một cái gì tận thế
và trong ánh sáng đó, con người vẫn cố gắng vươn lên”


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia

(Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, H,
1975, tr45)
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý
1. Đặt vấn đề
Dẫn dắt và giới thiệu nhận định cần làm sáng tỏ.
2. Giải quyết vấn đề
a. Giải thích:
• Truyện cổ tích : Là những tác phẩm tự sự dân gian, có sự tham
gia của các yếu tố hoang đường, kì ảo, kể về cuộc đời, số phận
của những con người bình thường trong xã hội, thể hiện quan
niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động. Trong
hệ thống thể loại của văn học dân gian, có thể nói đây là một
trong những thể loại quen thuộc, gần gũi nhất và có sức hấp dẫn
đặc biệt đối với mỗi người.
• .....trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp: Truyện cổ tích
phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, hướng tới một
cuộc đời trong mơ ước, cơng bằng và hạnh phúc.
• ...có đau khổ mà khơng bng xi, có thất bại mà khơng đầu
hàng, có bi thàm mà khơng tuyệt vọng, thực trạng có đen tối
nhưng ánh sáng của niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm
của một cái gì tận thế và trong ánh sáng đó, con người vẫn cố
gắng vươn lên: Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời công
bằng, tốt đẹp, ta luôn bắt gặp những số phận bất hạnh, cảnh ngộ
trớ trêu .Nhưng vượt lên trên thực tại đen tối ấy là tinh thần lạc


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
quan, là niềm tin, là sự nỗ lực vươn lên, là tinh thần thực tế có
khả năng cải tạo xã hội.

 Bằng cách nói hàm súc, giàu hình ảnh, ý kiến đã khẳng
định sức sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan của những
con người bé nhỏ trong truyện cổ tích, làm sáng lên thực
tại tối tăm, bất hạnh.
b. Phân tích, chứng minh
* Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn, đấu tranh xã hội, hướng tới
ước mơ về một cuộc đời tốt đẹp.
• Truyện cổ tích ra đời từ thời xa xưa nhưng đặc biệt nở rộ trong
xã hội có sự phân hóa giàu – nghèo, tốt – xấu...Truyện cổ tích vì
vậy phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội. Đó là mâu thuẫn
giữa kẻ giàu – người nghèo, kẻ thống trị - người bị trị, giữa thiện
– ác...( Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh, Cây khế..)
• Thơng qua việc phản ảnh những mâu thuẫn ấy, nhân dân lao
động gửi gắm mơ ước về một xã hội công bằng, tốt đẹp.
-> Hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào, truyện cổ tích vì
vậy có thể xem là cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn của nhân
dân lao động.
* Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp, truyện cố tích đã
cho thấy thực tại đen tối, khổ đau, số phận bất hạnh, hẩm hiu của
những con người bé nhỏ
• Truyện cổ tích phơi bày những cảnh sống trái ngược nhau, dựng
lên bức tranh thê thảm về cuộc sống khốn cùng của những người
dân lành. Đó là cái đói của hai cơ cháu trong Sự tích chim hít cơ,
tình cảnh nghèo khổ của anh Khoai(Cây tre trăm đốt), Thạch


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Sanh, Chử Đồng Tử ...Ngay cả khi cái nghèo, cái đói khơng phải
là chủ đề chính của một số câu chuyện thì hình ảnh cái đói, nạn
đói vẫn xuất hiện phổ biến trong truyện cổ tích (nạn đói trong Sự

tích ơng đầu rau, Sự tích chim đa đa, đoàn người lũ lượt chờ
phát chấn trong Gái ngoan dạy chồng..


Truyện cổ tích cịn cho thấy tình cảnh bị chà đạp, bị áp bức, bóc
lột của những con người bé nhỏ. ( Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh,
đặc biệt là truyện Tấm Cám) (Tập trung phân tích tình cảnh của
Tấm qua mâu thuẫn dai dẳng, quyết liệt với mẹ con Cám để thấy
được số phận bé nhỏ, đáng thương, tội nghiệp của Tấm)

* Tuy nhiên, trong thực tại bi thảm ấy, con người vẫn vươn lên,
không chịu khuất phục bằng sức mạnh của niềm tin và tinh thần
lạc quan (Nội dung trọng tâm)
• Những con người bé nhỏ trong truyện cổ tích thường khơng khuất
phục trước hồn cảnh, đau khổ mà không buông xuôi, thất bại mà
không đầu hàng, luôn vươn lên để giành hạnh phúc cho mình
( HS chứng minh bằng sức sống mãnh liệt, vượt qua thực tại
nhiều đau khổ, bất công của các nhân vật trong một số truyện cổ tích
như: Lọ nước thần, Sọ Dừa...Đặc biệt, nên tập trung phân tích truyện
Tấm Cám để làm rõ nội dung này. Cô Tấm ở chặng đầu chỉ biết khóc
và cầu cứu sự giúp đỡ của Bụt, nhưng ở chặng sau khơng hề khóc,
cũng khơng chịu khuất phục trước sự tiêu diệt của mẹ con Cám mà
liên tục biến hóa thành chim vàng anh -> cây xoan đào -> khung cửi ->
cây thị -> cô Tấm xinh đẹp hơn xưa. Sự tái sinh ấy và hành động quyết
liệt, chủ động giành lại hạnh phúc của Tấm đã cho thấy sức sống mãnh
liệt của những con người nhỏ bé)


Chun đề dạy HSG Quốc gia
• Truyện cổ tích cịn mang đến ánh sáng của sự lạc quan, bi thảm

mà khơng tuyệt vọng
- Những yếu tố kì ảo ( ơng Bụt, con vật, đồ vật thần kì...) xuất hiện
trong truyện cổ tích khơng chỉ đem đến sức hấp dẫn và sắc màu
đặc trưng của thể loại mà còn thể hiện một cái nhìn lạc quan của
nhân dân lao động vào cuộc sống, niềm tin tưởng và mơ ước về
những lực lượng cứu giúp con người.
- Kết thúc của truyện cổ tích thường là có hậu, minh chứng cho sự
lạc quan cả nhân dân ( Tấm Cám, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử..)
- Ngay cả khi kết thúc mang tính bi thảm nhưng bằng sự lí giải
đầy nhân hậu của nhân dân, truyện cổ tích vẫn làm sáng lên những
tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người, không bi kịch, tuyệt vọng
mà ấm áp tình nghĩa ( Sự tích trầu cau, Sự tích chim quốc..)
c. Đánh giá chung
- Ra đời và phát triển trong thời kì xã hội có sự phân hóa, phản ánh cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động cho một cuộc đời công bằng và tốt đẹp,
truyện cổ tích đã cho thấy sức sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan của những
con người nhỏ bé, từ đó khơi gợi trong mỗi con người niềm tin và mơ ước về
một cuộc sống tốt đẹp.
- Với tinh thấn đó, trải qua thời gian, truyện cổ tích cho đến nay vẫn
gắn bó, thân thuộc và có ý nghĩa lớn lao trong đời sống tâm hồn dân tộc.
- Sức sống mãnh liệt, tinh thần slạc quan của con người được thể hiện
trong cổ tích tiếp tục được kế thừa và phát triển trong văn học viết.
3.Kết thúc vấn đề ( 1đ)
Khẳng định lại nhận định cần làm sáng tỏ


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Đề bài 2
“Sinh ra từ cuộc đời trăm nghìn đắng cay, nhưng ca dao cổ khơng phải chỉ là
những tiếng nói đắng cay mà nhiều khi cái đắng cay, chua xót của cuộc đời

lại bị chìm đi trong cái thắm thiết, ngọt ngào, tươi mát của những tâm hồn
khỏe mạnh lạc quan”
(Văn học dân gian, tập 2 – Hoàng Tiến Tựu)
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
1. Giải thích nhận định
- Nhận định trên khẳng định ca dao ra đời từ hoàn cảnh khắc nghiệt của hiện
thực đời sống nhân dân lao động trong xã hội xưa với trăm nghìn đắng cay.
Đó chính là tiếng nói thể hiện tâm tư tình cảm của người lao động nghèo khổ.
- Ca dao cổ không phải chỉ là những tiếng nói đắng cay mà nhiều khi cái
đắng cay, chua xót của cuộc đời lại bị chìm đi trong cái thắm thiết, ngọt
ngào, tươi mát của những tâm hồn khỏe mạnh lạc quan. Nói chìm đi nghĩa là
người Việt Nam có than thở, ốn trách, giận hờn, nguyền rủa… như một sự
lên án, một sự phản kháng, một khao khát phá bỏ và thay đổi thực tại nhưng
những bài ca dao mang nội dung ấy không phải là âm hưởng chủ đạo. Cảm
hứng chính trong ca dao vẫn là tiếng hát lạc quan, tha thiết với cuộc đời,
mang âm hưởng thắm thiết, ngọt ngào, tươi mát. Thực ra những cung bậc cảm
xúc ấy đối lập nhưng thống nhất vì cội nguồn của nó đều là biểu hiện của tâm
hồn khao khát sống, vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, ln biết nhìn về
phía trước của người lao động Việt Nam trong xã hội xưa.
2. Phân tích những bài ca dao cổ để minh họa cho nhận định trên
- Ca dao có tiếng nói đắng cay, than thân trách phận (ý phụ)
+ Người dân than phận khó: Bài ca dao Mười cái trứng (những câu
đầu)


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
“Khổ như tôi đây mới ra thậm khổ
Lên non đốn củi đụng chỗ đốn rồi
Xuống song gánh nước đụng chỗ cát bồi khe khô”
“Con kiến mà leo cành đa…..leo vào ra”

“Con cò mà đi ăn đêm”
+ Người phụ nữ than thân trách phận
“Thân em như tấm lụa đào….ta ai?
“Thân êm như giếng giữa đàng ….rửa chân”
- Ca dao thể hiện tiếng nói thắm thiết, ngọt ngào tươi mát của những
tâm hồn khỏe mạnh, lạc quan (ý chính).
+ Ngun nhân vì sao âm hưởng chủ đạo của da dao Việt Nam là tiếng
nói thắm thiết, ngọt ngào tươi mát của những tâm hồn khỏe mạnh, lạc
quan
 Vì người bình dân Việt Nam có tâm hồn phong phú, vốn chan chứa
tình yêu thương
 Người bình dân tin ở quy luật của cuộc sống: thiện thắng ác, qua
cơn bĩ cực đến ngày thái lai
 Chỉ có tình u thương và sự lạc quan tin tưởng mới giúp con người
có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn mà tồn tại, vượt qua gian
lao mà chiến đấu.
+ Biểu hiện của tiếng nói thắm thiết, ngọt ngào, tươi mát của một
tâm hồn khỏe mạnh, lạc quan trong ca dao. Mỗi ý nhỏ phân tích 12 ví dụ, chú ý phân tích nghệ thuật hài hịa với nội dung.
 Tình u thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước
 Tình cảm gia đình, tình yêu thương giữa con người với con
người, tình yêu đôi lứa.
 Yêu đời, lạc quan, tin tưởng ở tương lai
 Giàu nghị lực, kiên trì bền bỉ đấu tranh chống thứ lực bạo tàn,
chống giặc ngoại xâm
“Ruộng ta ta cấy ta cày,
Không nhường một bước cho bầy Nhật – Tây


Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
Chúng mày lảng vảng tới đây,

Rủ nhau gậy, cuốc đuổi ngay khỏi làng”
|Chớ vì nghẹn một miếng mà bỏ bữa bỏ ăn,
chớ vì ngã một lần mà chân khơng bước”
“Đá mịn nhưng dạ khơng mịn
Q em còn khổ em còn đánh Tây”
3. Đánh giá, mở rộng
- Hai tiếng nói “đau khổ, đắng cay” và “thắm thiết, ngọt ngào, tươi mát”
trong ca dao tuy trái ngược nhau nhưng không mâu thuẫn nhau mà song
song tồn tại và có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Đó là hai biểu hiện
của một tâm hồn. Tiếng nói đau khổ đắng cay cho thấy con người nhìn
rõ hồn cảnh thực tại, lên tiếng than thân cũng là gián tiếp lên án xã
hội, các thế lực thống trị bạo tàn. Tiếng nói đau khổ đắng cay cũng là
cách gián tiếp thể hiện niềm khát khao có được cuộc sống tốt đẹp hơn,
hạnh phúc hơn. Tiếng nói thắm thiết, ngọt ngào, tươi mát cho thấy tâm
hồn con người luôn tràn ngập tình yêu thương, tinh thần lạc quan và
yêu đời.
- Tiếng nói đau khổ, đắng cay hay tiếng nói thắm thiết, ngọt ngào, tươi
mát trong ca dao đều hướng con người đến cái tốt đẹp, cái chân, thiện,
mĩ, thực hiện chức năng giáo dục của văn học
- So sánh: Thơ ca văn học viết cũng thể hiện tâm hồn con người Việt
Nam (có tiếng nói đắng cay đau khổ và tiếng nói ngọt ngào, tha thiết),
nhưng nội dung và cách thể hiện của ca dao khác thơ ca của các tác giả
văn học viêtt.
+ Nội dung
. Ca dao: Dù là tiếng nói đắng cay hay tiếng nói thắm thiết, ngọt ngào,
tươi mát đều gắn liền với đời sống lao động của người bình dân, những
cảnh vật thiên nhiên gần gũi với người dân lao động.
. Văn học trung đại: Thể hiện đời sống tâm hồn con người Việt Nam
nhưng ít hướng tới người bình dân. Thơ ca trung đại chủ yếu thể hiện



Chuyên đề dạy HSG Quốc gia
tiếng lòng của những bậc nhà nho, những con người ưu thời mẫn thế,
suy nghĩ, cảm xúc cũng gắn liền với thời cuộc đất nước. (Liên hệ tới:
Cảnh ngày hè, Câu cá mùa thu, Nhàn…)
. Văn học hiện đại: Thể hiện đời sống tâm hồn con người Việt Nam gắn
liền với cảnh trí thiên nhiên đất nước mới mẻ, gắn liền với bối cảnh
thời đại (kháng chiến chống giặc Pháp, Mỹ) (ngay cả tình yêu đơi lứa
cũng nằm trong tình u đất nước – văn học kháng chiến) ( Liên hệ tới:
Mùa xuân nho nhỏ, Đất Nước,)
Thể hiện đời sống tâm hồn con người gắn liền với việc thể hiện cái tôi
cá nhân (Thơ mới)
+ Nghệ thuật:
. Ca dao: Thể thơ truyền thống (lục bát, vãn bốn, vãn năm, song thất lục
bát), từ ngữ đời thường, cách nói nơm na, dân dã, quen thuộc của người
bình dân
. Thơ ca trung đại: Thể thơ Thất ngơn, ngũ ngơn theo thể Luật Đường,
hình ảnh ước lệ, sùng cổ (điển tích điển cố)…
. Thơ ca hiện đại: Thể thơ tự do, hình ảnh quen thuộc, gần gũi, luật thơ
phóng khống và mới mẻ.
Đề 3:



×