Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HAI BÀ TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.79 KB, 30 trang )

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
NHNo&PTNT HAI BÀ TRƯNG.
I. Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng.
1. Vài nét sơ lược về chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội.
Hoàn cảnh ra đời : Ngân hàng là một trong những lĩnh vực kinh tế trọng
điểm của Việt Nam phát triển cùng với sự nghiêp CNH-HĐH .Trước nhu cầu
ngày càng tăng của nền kinh tế nhu cầu sử dụng vốn và các dịch vụ của Ngân
Hàng càng tăng đồng thời nhằm mục tiêu mở rộng mạng lưới hoạt động, đa
dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nâng cao hơn nữa uy tín và hiệu quả kinh
doanh của mình NHNo&PTNT đã không ngừng mở rộng các chi nhánh mới
,mỏ rộng khắp trên cả nước đặc biệt là Thành Phố Hồ Chí Minh,Hà Nội và Đà
Nẵng.
NHNo&PTNT Hà Nội ra đời cùng với quyết định 69/QĐNHNN tháng
8/1988 chuyển hệ thống Ngân Hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp và
thành lập 4 NHTM quốc doanh trên cơ sở các phòng tín dụng trước đây ở Ngân
Hàng Nhà Nước Việt Nam,Ngân Hàng Hà Nội là một Ngân Hàng vừa làm
nhiệm vụ quản lý vừa làm nhiệm vụ kinh doanh .Từ tháng8/1988 Ngân Hàng
Hà Nội lầm nghiệp vụ với 12chi nhánh Ngân Hàng cấp huyện của thành phố
lúc đó là NHNo&PTNT Ba Vì,Phúc Thọ, Sơn Tây,Thạch Thất, Đan Phượng,Từ
Liêm, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì …đồng thời tổ chức hoạt động tại trụ sở
số 2-phố Lạc Trung-Hà Nội . Đến tháng 9/1991quốc hội khóa IX phân chia
ranh rới các tỉnh thành phố 7 huyện ngoại thành được tách chuyển về tỉnh khác
nên địa bàn hoạt động và quản lý của Ngân Hàng Hà Nội bị thu hẹp,tập trung
nhiều vào các địa bàn nội thành.Trên cơ sở nhiệm vụ quản lý NHNo&PTNT Hà
Nội nhanh chóng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trên các quận nội
thành bằng việc mở ra 6 chi nhánh câp 4 là:Chợ Hôm, Hoàn Kiếm, Thanh
Xuân, Giảng Võ, Tây Hồ, Cầu Giấy.Các chi nhánh Ngân Hàng cấp 4 hoạt động
như một phòng giao dịch của NHNo&PTNT Hà Nội .
NHNo&PTNT Hai Bà Trưng là 1 trong 6 chi nhánh của NHNo&PTNT
Hà Nội. Được thành lập theo quyết định 59/ QĐ ngày 27/7/1994 của tổng giám
đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng được


tách ra từ NHNo&PTNT Hà Nội, khi mới ra đời chi nhánh là một Ngân Hàng
cấp 4 sau 3 năm đi vào hoạt động chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng được
nâng cấp thành Ngân Hàng cấp 3 trực thuộc NHNo&PTNT Thành phố Hà Nội.
Với tư cách là đơn vị thành viên trực thuộc NHNo&PTNT Hà Nội,chi nhánh
NHNo&PTNT Hai Bà Trưng là một đại diện theo ủy quyền của NHNo&PTNT
Hà Nội, là một đơn vị hạch toán phụ thuộc có con dấu, có bảng cân đối tài sản,
hoạt động theo pháp lệnh Ngân Hàng, HTX tín dụng, điều lệ và quy chế tổ chức
hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam.
Từ ngày 6/1/2003 trụ sở của chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng
được đặt tại 60 Ngô Thì Nhậm – Hai Bà Trưng – Hà Nội.
Là một trong những chi nhánh lớn của NHNo&PTNT Hà Nội trong quá
trình hoạt động NHNo&PTNT Hai Bà Trưng được sự chỉ đạo trực tiếp của
NHNo&PTNT Hà Nội, được sự quan tâm của UBND quận Hai Bà Trưng, sự
hỗ trợ tích cực của các ban ngành Hà Nội và quận Hai Bà Trưng về mọi mặt, ở
mọi thành phần kinh tế chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng đã không
ngừng phát triển về mọi mặt như: hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán và
ngân quỹ tài chính, hoạt động huy động vốn, hoạt động kinh doanh ngoại
tệ……..
NHNo&PTNT Hai Bà Trưng còn có lợi thế về mạng lưới : hiện tại với 4
phòng giao dịch đặt tại 4 phường trọng điểm của quận là Bà Triệu, Nguyễn Du,
Phố Huế, Đồng Tâm và 1 trụ sở chính đặt tại 60 Ngô Thì Nhậm.
Đến năm 2005 chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng phấn đấu mở rộng
thêm thành 7 phòng giao dịch. Bên cạnh đó là 1 mạng lưới các chi nhánh bạn
hoạt động rộng khắp trên toàn quốc và trên địa bàn Hà Nội là điều kiện thuận
lợi để phát triển và thực hiện các dịch vụ Ngân Hàng hiện đại.
Tóm lại tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã và
đang phát triển tốt, nhu cầu đầu tư ngày càng cần thiết đòi hỏi phải có nguồn
vốn để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội từ đó đặt ra một yêu cầu
lớn đối với Ngân Hàng là phải tập trung mạnh mẽ cong tác huy động vốn để
cho vay các thành phần kinh tế.

2. Cơ cấu tổ chức - bộ máy cán bộ :
Hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng với 45 cán bộ được tổ chức
theo sơ đồ sau :
Phòng giám đốc
Phó giám đốc phụ trách kinh doanh Phó giám đốc phụ trách hành chính
Phòng kế toán ngân quỹPhòng kiểm soát Phòng kế hoạch Phòng hành chínhPhòng kinh doanh
Phòng giao dịch12 Phòng giao dịch 14 Phòng giao dịch 40 Phòng giao dịch 52
Cho vay doanh nghiệpCho vay cầm đồ, các giấy tờ có giáThanh toán quốc tế
- Ban giám đốc NHNo&PTNT Hai Bà Trưng :Là người trực tiếp ra quyết
định thi hành,quản lý hoạt động của các phòng ban trong chi nhánh
- Nghiệp vụ tín dụng : Thực hiện nhiệm vụ cho vay và tổng hợp hợp đồng
kinh doanh của chi nhánh.Nghiên cứu đề xuất chiến lược kinh doanh an toàn
và hiệu quả từ đó tổng hợp các thông tin, cung cấp các thông tin giúp ban
giám đốc đưa ra các quyết định kịp thời và đúng đắn.
- Nghiệp vụ kế toán :Tổ chức hạch toán theo dõi các quỹ vốn tập trung
toàn chi nhánh, thực hiện hạch toán kế toán, các nghiệp vụ huy động vốn,
cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác của chi nhánh.Cuối ngày,tháng,
quý,nămtiến hành hạch toán quyết toán và các báo cáo thực hiện các khoản
nộp Ngân Sách Nhà Nước.
- Nghiệp kiểm soát: Kiểm tra công tác điều hành của các phòng giao dịch,
giám sát việc thực hiện quy định của chi nhánh, tuyển dụng cán bộ ngân
hàng.
- Phòng hành chính –nhân sự: Thực hiện công tác văn thư, lưu trữ hành
chính quản trị thông tin tuyên truyền, quảng cáo thông tin tiếp thị theo sự chỉ
đạo của ban giám đốc, giúp ban giám đốc đưa ra quyết định kịp thời và đúng
đắn.
-Các phòng giao dịch:Nhiệm vụ chính của các phòng giao dịch là huy
động vốn.
3. Tình hình kinh doanh năm 2003 – 2004.
Căn cứ vào thực tế điều kiện kinh tế xã hội ngay từ đầu năm ban lãnh

đạo đã tổ chức họp bàn triển khai định hướng kinh doanh năm 2003 do
NHNo&PTNT Hà Nội đề ra, xác định rõ chiến lược, hướng đi, đề ra các mục
tiêu và giải pháp kinh doanh cụ thể cho cả năm để thống nhất chỉ đạo và thực
hiện xuyên suốt. Định hướng kinh doanh tổng quát là “đẩy mạnh tuyên
truyền huy động vốn, khuyến khích mở tài khoản cá nhân, mở rộng dịch vụ
chuyển tiền nhanh, tập trung chú trọng mở rộng cho vay hộ nông dân, các dự
án toàn vùng, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, tăng cường và nâng
cao chất lượng thẩm định phong cách phục vụ khách hàng “.
Tổng vốn huy động đến 31/12/2003 đạt 738.205 triệu đồng tăng 161.463
triệu đồng so với năm 2002 về tỷ lệ tăng trưởng 27,99%
Tổng nguồn đến 31/12/2004 đạt 950.750 triệu đồng tăng 212.545 triệu
đồng so với năm 2003 về tỷ lệ tăng trưởng 28,8%
II .Thực trạng công tác huy động vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà
Trưng
1. Yêu cầu đặt ra đối với công tác huy động vốn.
- Tổng vốn huy động tăng bình quân 25%
- Tổng dư nợ tín dụng tăng bình quân 22 – 25%
- Nợ quá hạn đảm bảo dưới mức 1% so với tổng dư nợ
- Số hộ vay Ngân Hàng chiếm 20% tổng số hộ vào cuối năm 2005
- Đảm bảo tài chính theo quy định có tĩch lũy đảm bảo an toàn tuyệt đối
tài sản.
- Từng bước nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong cơ cấu tổng
nguồn vốn thực hiện đa dạng hóa các nghiệp vụ phong phú về hình thức thực
hiện biện pháp huy động vốn qua các kênh xây dựng chiến lược kinh doanh.
- Trong công tác huy động vốn phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa
bàn để có kế hoạch chương trình huy động vốn. Phải gắn chiến lược huy
động vốn với chiến lược sử dụng vốn trong một thể thống nhất.
2. Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà
Trưng.
Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế chi

nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng đã tích cực khai thác các nguồn tạm thời
nhàn rỗi đưa ra các hình thức huy động tạo điều kiện chủ động trong hoạt
động cho vay và các hoạt động khác của Ngân Hàng.
Trong điều kiện hiện nay huy động vốn là một mảng lớn trong hoạt động
huy động vốn của NHTM vấn đề đặt ra là nguồn vốn lớn có thể tìm ra ở đâu
phải thông qua việc huy động vốn của các NHTM điều này đòi hỏi các
NHTM phải có biện pháp hữu hiệu có các chiến lược huy động đúng đắn
hợp lý để thu hút nguồn vốn đảm bảo cho đầu ra của Ngân Hàng.
Với phương châm “đi vay để cho vay “ nguồn vốn huy động là nguồn vốn
chính mang tính chất sống còn đối với hoạt động của Ngân Hàng nên chi
nhánh đã vận dụng nhiều hình thức khác khai thác vốn ổn định có lợi trong
kinh doanh. Việc huy động vốn không phải là công việc độc lập mà phải gắn
liền với các nghiệp vụ bên có và các nghiệp vụ trung gian khác như chuyển
tiền thanh toán bên cạnh đó việc huy động vốn phải dựa trên cơ sở xác định
thị trường, đầu ra, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, lãi suất phù hợp.
Trước đây quan niệm Ngân Hàng chỉ cần sử dụng vốn có hiệu quả còn việc
khách hàng gửi tiền vào Ngân Hàng là việc đương nhiên. Hiện nay việc cạnh
tranh giữa các Ngân Hàng ngày càng diễn ra gay gắt và chủ yếu ở lĩnh vực
huy động vốn hơn là đi vay. Bởi vì nguồn vốn trong nền kinh tế thì có hạn
trong khi đó có quá nhiều Ngân Hàng chủ thể tài chính khác muốn chiếm
hữu quyền sử dụng nguồn vốn đó chính vì vậy mà trong công tác huy động
vốn Ngân Hàng đã bố trí 4 phòng giao dịch tại 4 địa điểm của quận và
thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền thông qua đội ngũ cán bộ kế
toán tại các cơ sở và tổ chức tuyên truyền quảng cáo, phát tờ rơi… Nhờ làm
tốt công tác huy động vốn nên nguồn vốn tại các địa bàn liên tục tăng qua
các năm giảm bớt được nguồn vốn sử dụng điều hòa của thành phố hoàn
toàn chủ động trong việc mở rộng tín dụng chủ động trong việc chi trả các
nhu cầu rút tiền của các tổ chức kinh tế xã hội.
Là một đơn vị nằm trên địa bàn có sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân
Hàng khác tuy đi vào hoạt động chưa lâu nhưng tốc độ huy động vốn của

Ngân Hàng cũng đạt được kết quả đáng khích lệ đó là trong 3 năm gần đây
tình hình huy động vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng đạt được
kết quả như sau:
Bảng 1 : Tốc độ tăng trưởng vốn huy động.
(Đơn vị : Triệu đồng)
Năm Nguồn vốn huy động
Tăng giảm
Số tiền %
2002 555.166
2003 683.520 128.354 23,11
2004 795.750 112.230 16,42
( Bảng cân đối kế toán năm 2002, 2003, 2004 của chi nhánh NHNo&PTNT
Hai Bà Trưng )
Trong đó :
(Đơn vị : Triệu đồng)
Chỉ tiêu 2002 2003 2004
Vốn huy động bằng VNĐ 467.776 582.270 665.598
Vốn huy động bằng ngoại tệ 87.390 101.250 130.152
Tổng cộng 555.166 683.520 795.750
Nhìn vào biểu đồ trên cho ta thấy nguồn vốn huy động của chi nhánh
NHNo&PTNT Hai Bà Trưng tăng trưởng nhanh qua các năm đáp ứng được nhu
cầu mở rộng cho vay của các thành phần kinh tế.
Năm 2003 nguồn huy động đạt 638.520 triệu đồng tăng so với năm 2002 là
128.354 triệu đồng hay tăng 23,11%
Năm 2004 nguồn huy động đạt 795.750 triệu đồng tăng so với năm 2003 là
112.230 triệu đồng hay tăng 16,42%
Từ một chi nhánh khi mới đi vào hoạt động với nguồn vốn ban đầu mới gần
100 triệu sau hơn 10 năm đi vào hoạt động nguồn vốn huy động lên đến
683.520 triệu đồng điều đó chứng tỏ hoạt động huy động vốn của Ngân Hàng có
sự khởi đầu tốt. Không dừng lại ở đó nguồn vốn huy động của Ngân Hàng liên

tục tăng tuy nhiên tốc độ tăng của nguồn vốn năm 2003 đạt 16,42%. Đạt được
kết quả này là do có sự lỗ lực của toàn thể cán bộ Ngân Hàng, sự đổi mới trong
phong cách phục vụ tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền.
Hiện nay nguồn vốn của Ngân Hàng chủ yếu được huy động từ nguồn : tiền
gửi của các tổ chức kinh tế cá nhân, tiền gửi từ các tổ chức tín dụng, tiền gửi tiết
kiệm của dân cư, phát hành có giá…
Bảng 2 : Các nguồn vốn huy động.
(Đơn vị: triệu đồng)
Chỉ tiêu
2002 2003 2004
Số tiền % Số tiền % Số tiền %
1. Nguồn vốn tiền gửi 387.776 69,84 507.125 74,2 606.577 76,23
-Tiền gửi của các tổ chức
tín dụng
27.790 5,0 30.125 4,4 48.230 6,06
- Tiền gửi của các tổ chức
kinh tế, cá nhân
104.845 18,18 165.181 24,16 175.241 22,16
- Tiền gửi tiết kiệm 255.141 45,95 311.819 45,6 383.106 48,11
2. Phát hành giấy tờ có giá 167.390 30,16 176.395 25,8 189.173 23,77
Tổng cộng 555.166 100 683.520 100 795.750 100
(Bảng cân đối kế toán năm 2002, 2003, 2004 của chi nhánh NHNo&PTNT
Hai Bà Trưng )
Biểu đồ các nguồn vốn huy động
Cơ cấu ngành đã có sự thay đổi trong các năm. Nhìn vào biểu đồ huy động
vốn ta thấy:
- Nguồn vốn huy động của chi nhánh chủ yếu là nguồn tiền gửi, nguồn này
tương đối ổn định và tăng trưởng qua các năm, năm sau cao hơn năm trước:
+ Đối với tiền gửi của các tổ chức tín dụng năm 2003 so với năm 2002 tăng
2.335 triệu đồng. Năm 2004 với năm 2003 tăng 18.105 triệu đồng.

+ Đối với tiền gửi tiết kiệm : năm 2003 so với năm 2002 tăng 56.678 triệu
đồng. Năm 2004 so với năm 2003 tăng 71.287 triệu đồng.
+ Đối với tiền gửi tổ chức kinh tế năm 2203 so với năm 2002 tăng 60.336
triệu đồng. Năm 2004 so với năm 2003 tăng 10.060 triệu đồng.
Nguồn vốn tiền gửi của Ngân Hàng có tăng qua các năm nhưng mức tăng
không đồng đều. Tuy nhiên lượng tiền gửi tiết kiệm này tăng là tăng nhiều nhất.
Điều đó chứng tỏ Ngân Hàng đã tập trung vào huy động nguồn tiền gửi của các
tổ chức dân
cư thông qua các dịch vụ Ngân Hàng như : chuyển tiền và mua bán ngoại tệ qua
các tài khoản này.
Phát hành các giấy tờ có giá : nguồn huy động qua kênh này tăng trưởng đều
qua các năm tuy nhiên nó không được cao bằng nguồn tiền gửi một phần do
chính phủ phát hành theo từng đợt mệnh giá nhiều loại thời gian huy động dài
nên không thu hút được lượng nhân dân quan tâm lớn tuy nhiên lãi suất của loại
giấy tờ này cao nên vẫn thu hút được lượng tiền trong lưu thông.
Để làm rõ nguyên nhân và các nhân tố tác động đến công tác huy động vốn
tại chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng ta đi vào phân tích từng khoản mục
của nguồn vốn huy động.
2.1. Huy động vốn tiền gửi.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM nói
chung và của chi nhánh NHNo&PTNT Hai Bà Trưng nói riêng khi mới đi vào
hoạt động nghiệp vụ đầu tiên của Ngân Hàng là mở tài khoản tiền gửi để giữ và
thanh toán hộ khách hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và
để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các Ngân Hàng đã đưa ra
nhiều hình thức huy động vốn khác khâu như : tiền gửi của các tổ chức kinh tế
dân cư, tiền gửi của các tổ chức tín dụng, tiền gửi tiết kiệm…

Bảng 3 : Các khoản tiền gửi.
(Đơn vị: triệu đồng )
Chỉ tiêu 2002 2003 2004

Số Tiền % Số Tiền % Số Tiền %
- Tiền gửi thanh toán 132.635 34,21 195.306 38,52 223.417 36,84
+ Tiền gửi của các tổ
chức tín dụng
27.790 7,1 30.125 5,9 48.230 7,9
+ Tiền gửi của các tổ
chức kinh tế, cá nhân
145.845 27,03 165.181 32,57 175.240 28,89
- Tiền gửi tiết kiệm 255.131 65,79 311.819 61,48 383.106. 63,16
Tổng cộng 387.766 100 507.125 100 606.577 100
(Bảng cân đối kế toán năm 2002, 2003, 2004 của chi nhánh NHNo&PTNT
Hai Bà Trưng )
Biểu đồ các khoản tiền gửi
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế dân cư : do các tầng lớp dân cư đều có các
khoản thu nhập tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến họ có thể gửi tiết kiệm
nhằm mục đích đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiền của mình. Để
thu hút được lượng tiền này Ngân Hàng cố gắng khuyến khích họ thay đổi thói
quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động vốn
và đưa ra các hình thức huy động mới như : trả lãi trước, gửi bậc thang, dự
thưởng vàng, quay số trúng thưởng hay tăng mức lãi suất…
Trong 3 năm gần đây nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế cá nhân liên tục
tăng và tăng mạnh trong năm 2002 nguồn này là 104.845 triệu đồng tăng
27,03% so với tổng nguồn tiền gửi. Năm 2003 và năm 2004 tốc độ huy động có
tăng song tăng còn chậm hơn năm 2002. Năm 2003 là 165.181 triệu đồng tăng
32,57% và sang năm 2004 nguồn này đạt 175.240 triệu đồng tăng 28,89%.
Năm 2003 so với năm 2002 tăng 60.336 triệu đồng.
Năm 2004 so với năm 2003 tăng 10.060 triệu đồng.
Tiền gửi của các tổ chức tín dụng : là một Ngân Hàng mới đi vào hoạt động
chưa lâu lại nằm trên địa bàn có sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các Ngân Hàng
trên cùng địa bàn vốn huy động từ nguồn này hàng năm vẫn tăng nhưng còn

chậm. Đây là nguồn tiền gửi chỉ phải trả lãi suất thấp, chi phí huy động vốn là
không đáng kể tuy nhiên nguồn này có vai trò quan trọng nên Ngân Hàng cần
có chính sách phù hợp để thu hút nguồn này.

×