Kế hoạch đổi mới PPDH môn Toán – Rèn luyện thói quen trình bày bài làm cho HS
ĐẶT VẤN ĐỀ
Học Toán cũng nhưng học các môn khoa học khác, việc rèn cho học sinh có thói
quen trình bày bài làm một cách logic, khoa học và chặt chẽ là cần thiết. Quan trọng
hơn, qua việc rèn luyện đó, học sinh dần dần thói quen suy nghĩ nghiêm túc, cẩn thận
và tác phong làm việc khoa học.
Qua thực tế giảng dạy môn Toán, tôi nhận thấy một số biện pháp/yêu cầu đơn giản
và hiệu quả cao. Đặc biệt, các biện pháp này tỏ ra rất hiệu quả với đối tượng học
sinh có tư duy tốt nhưng cách trình bày bài làm và kĩ năng tính toán thì ẩu thả. Thú vị
hơn nữa, ngay cả với những học sinh có chữ viết xấu, rất xấu, sau một thời gian rèn
theo các biện pháp này thì chữ viết được cải thiện đáng kể.
Buổi học đầu tiên của khóa học/năm học, bạn hãy dành một lượng thời gian thỏa
đáng để bạn và các học sinh có thể hiểu nhau, bạn hãy "thỏa thuận" với học sinh một
cách rõ ràng và nghiêm túc các yêu cầu dưới đây, hãy yêu cầu các em ghi ngay vào
trang đầu của quyển vở. Trong quá trình giảng dạy của mình, bạn thường xuyên nhắc
nhở và kiểm tra việc học sinh thực hiện các yêu cầu đó như thế nào, đặc biệt là các
buổi học đầu tiên.
Trường THCS Trung Giang – GV Nguyễn Thị Hợp.
1
Kế hoạch đổi mới PPDH môn Toán – Rèn luyện thói quen trình bày bài làm cho HS
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Các yêu cầu
1. Vở nháp phải dày, thước kẻ phải có
2. Ghi chép đầy đủ, chính xác những gì giáo viên yêu cầu ghi chép.
3. Không tẩy, xóa trong bài làm, dù trong vở ghi hay trong bài làm kiểm tra.
Mỗi chỗ tẩy, xóa đều bị trừ điểm.
4. Trình bày hay, được làm mẫu, bài làm có lối trình bày hay được biểu dương
và trình bày trước tập thể.
5. Khuyến khích phong cách riêng, hãy đề cao việc học sinh có lối, phong cách
trình bày riêng của mình.
2. Giải thích các yêu cầu
Yêu cầu (1) là tiền đề bắt buộc để thực hiện các yêu cầu khác. Hãy nhấn mạnh cho
học sinh rằng, KHÔNG được xé vở nháp. Hãy phân tích cho các em hiểu rằng, vở
nháp còn giá trị hơn cả vở ghi, vì vở nháp thể hiện cả quá trình tư duy, tìm tòi lời giải
bài toán còn vở ghi chỉ thể hiện được kết quả của cả quá trình đó. Ví dụ dễ hiểu là,
hãy so sánh 2 bài làm cùng được điểm 10 có cùng cách giải giống nhau của hai học
sinh khác nhau, vậy bạn nào học tốt hơn? Câu trả lời là, chỉ căn cứ vào bài làm thì
không phân biệt được ai hơn ai, nhưng nếu tham khảo thêm vở nháp ta sẽ biết ai giỏi
hơn! Nhưng nếu cả hai đều không ghi nháp thì sao?
Vở nháp phải dày? Hãy nói với học sinh của bạn rằng, nếu mỗi môn học đều cần có
một quyển vở nháp thì vở nháp có dày không?
Trường THCS Trung Giang – GV Nguyễn Thị Hợp.
2
Kế hoạch đổi mới PPDH môn Toán – Rèn luyện thói quen trình bày bài làm cho HS
Yêu cầu (2) là mức độ thấp nhất, mức độ bắt chước chính xác những chuẩn mực về
cách trình bày của giáo viên. Giáo viên nên chuẩn bị sẵn và có thói quen trình bày các
bài giải một cách mẫu mực.
Yêu cầu (3), nghe có vẻ lạ. Một yêu cầu không có trong bất cứ quy chế nào
[2]
, vì thế
chúng ta mới "thỏa thuận" với học sinh về điều này, hãy làm cho các em hiểu giá trị
của nó và chấp nhận nó một cách tự nhiên. Đây là yêu cầu "cốt lõi" trong tất cả các
yêu cầu, học sinh sẽ phải nháp, nháp và nháp trước khi nhấc bút ghi vào bài làm. Nếu
coi quá trình nháp chính là quá trình phân tích, mày mò, tìm tòi lời giải thì việc trình
bày bài làm vào vở là tổng hợp, nhìn lại tư duy. Nó không chỉ giúp bài làm của học
sinh mạch lạc, sạch sẽ mà còn giúp học sinh kiểm tra lại, chính xác hóa lời giải và đôi
khi là phát hiện hướng đi, lời giải khác.
Thêm nữa, với học sinh "ẩu thả", nếu có điều kiện thời gian, bạn hãy thường xuyên
yêu cầu các em trình bày ra nháp và bạn kiểm tra, đến khi nào các em trình bày trong
vở nháp mà cũng không hề có tẩy xóa và hợp lý thì mới cho trình bày vào vở ghi.
Hãy lặp lại yêu cầu này, càng nhiều lần càng tốt ngay từ những buổi học đầu tiên.
Yêu cầu (4), thật hiển nhiên. Hãy dạy cho các em biết trân trọng cái hay cái đẹp và
ghi nhận những nỗ lực, cố gắng tạo ra cái hay, cái đẹp và có thái độ, việc làm tích cực
tạo cái hay, cái đẹp.
Yêu cầu (5), đây là yêu cầu cao nhất là kết quả cần đạt tới của cả quá trình học tập,
yêu cầu thể hiện tính sáng tạo, thể hiện cái tôi. Nếu như các yêu cầu (2), (3), (4) ít
nhiều vẫn mang tính "bắt chước", thì yêu cầu này là "thói quen". Tư duy là tư duy của
cái tôi, mỗi người đều có lối tư duy khác nhau, học sinh cũng vậy. Nhiệm vụ của các
Trường THCS Trung Giang – GV Nguyễn Thị Hợp.
3
Kế hoạch đổi mới PPDH môn Toán – Rèn luyện thói quen trình bày bài làm cho HS
nhà giáo chúng ta là phát hiện ra đặc thù tư duy của các em, giúp các em hoàn thiện
và phát triển nó một cách phù hợp nhất.
Một trong những hoạt động cơ bản của học sinh trong học tập môn toán ở trường phổ
thông là hoạt động giải toán. Đây là hoạt động phức tạp bao gồm nhiều thành tố tham
gia, mà lâu nay đã được các chuyên gia trong lĩnh vực phương pháp dạy học nghiên
cứu và chỉ rõ.
Thực tiễn dạy học lâu nay ở nước ta, theo nội dung, chương trình và SGK đã ban
hành, hoạt động học và giải toán của học sinh đối tượng trung bình cơ bản diễn ra
theo trình tự: quan sát, tiếp thu kiến thức; làm bài có sự hướng dẫn; tự làm theo mẫu;
độc lập làm bài, tuân theo quá trình nhận thức chung là đi từ Algôrit đến Ơritstic.
Để thích ứng với quá trình học tập đó của đa số học sinh, quá trình dạy cũng phải
được tiến hành theo 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Quan sát, tiếp thu
Giáo viên giúp học sinh nắm kiến thức cơ bản, tối thiểu, cần thiết.
• Giáo viên cần kết hợp vừa giảng vừa luyện, phân tích chi tiết, cụ thể, giúp học
sinh hiểu khái niệm không hình thức.
• Đồng thời với cung cấp kiến thức mới là củng cố khắc sâu thông qua ví dụ và
phản ví dụ. Chú ý phân tích các sai lầm thường gặp.
• Tổng kết tri thức và các tri thức phương pháp có trong bài.
Đây là giai đoạn khó khăn nhất, giai đoạn làm quen tiến tới hiểu kiến thức mới, đồng
thời là giai đoạn quan trọng nhất, giai đoạn cung cấp kiến thức chuẩn cho học sinh.
Trường THCS Trung Giang – GV Nguyễn Thị Hợp.
4
Kế hoạch đổi mới PPDH môn Toán – Rèn luyện thói quen trình bày bài làm cho HS
Kinh nghiệm cho thấy khi hoàn thành tốt giai đoạn này học sinh sẽ tiếp thu tốt hơn ở
các giai đoạn sau.
Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn
Giáo viên cho ví dụ tương tự học sinh bước đầu làm theo hướng dẫn, chỉ đạo của giáo
viên.
Học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào giải toán. Giai đoạn này thường
vẫn còn lúng túng và sai lầm, do học sinh chưa thuộc, chưa hiểu sâu sắc. Tuy nhiên
giai đoạn 2 vẫn có tác dụng gợi động cơ cho giai đoạn 3.
Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu
Giáo viên ra một bài tập khác, học sinh tự làm theo mẫu mà giáo viên đã đưa ra ở giai
đoạn 1 và giai đoạn 2.
Giáo viên tạm đứng ngoài cuộc. Ở giai đoạn này học sinh độc lập thao tác. Học sinh
nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn
lúng túng. Giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của
cả lớp và từng cá nhân thông qua giai đoạn này, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho
từng đối tượng. Giai đoạn 3 có tác dụng gợi động cơ trung gian. Giáo viên thường
vận dụng giai đoạn này khi ra bài tập về nhà.
Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập
Giáo viên nên ra cho học sinh:
• Hoặc là một bài tập tương tự khác để học sinh làm ngay tại lớp.
• Hoặc là bài tập ra về nhà tương tự với bài được học, nhằm rèn luyện kĩ năng.
Trường THCS Trung Giang – GV Nguyễn Thị Hợp.
5