TRƯ Ờ N G ĐẠI H Ọ C LUẬT HÀ N Ộ I
Đ Ể T À I N G H IÊ N CỨ U
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
AFTA VÀ VIỆC HOÀN THIỆN
MỘT
CHÊ PHÁP LUẬT
• SỐ ĐỊNH
•
• KINH TÊ
C ơ BẢN CỦA VIỆT NAM
BAN C H Ủ N H IỆ M Đ Ể T À I
Chủ nhiệm đề tài: T iến sỹ Đ ào T h ị H ằn g
T h ạ c sỹ N guyễn T h ị T h u ậ n
Thư ký đề tài:
T h ạ c sỹ V ũ T h ị P hư ơ ng L a n
THƯ VIỆN
TRƯỜNG ĐAÍ HOC LUẢÍ HA N Ộ I !
PHONG ĐO C
.
_
H À N Ộ I - 2004
j
D A N H SÁ C H N H Ũ N G N G Ư Ờ I T H ự C H IỆ N Đ Ể T À I
BAN C H Ủ N H IỆ M
1. TS. Đào Thị Hằng - Phó chủ nhiệm khoa đào tạo sau đại học - Trường
Đại học Luật Hà nội
v iế t chuyên đề 5
2. Ths. N guyễn Thị Thuận - phó phịng quản lý khoa học học - Trường
Đại học Luật Hà nội
Viết chuyên đề 1
3. Thư ký đề tài: Ths Vũ Thị Phương Lan - giảng viên Khoa pháp luật
quốc tế học - Trường Đại học Luật Hà nội
CÁC C Ộ N G T Á C V IÊ N
4. Ths Đ ồng N gọc Ba - giảng viên Khoa pháp luật kinh tế học - Trường
Đại học Luật Hà nội
v iế t chuyên đề 2
5. N guyễn Công K hanh - Chuyên viên Cục nuôi con nuôi Quốc tế - Bộ
Tư pháp
V iết chuyên đề 3
6. Ths N guyễn Văn Tuyến - giảng viên Khoa pháp luật kinh tế học Trường Đại học Luật Hà nội
Viết chuyên đề 4
Mục lục
Trang
BÁO C Á O P H Ú C T R ÌN H .....................................................................
I
A. P H Ầ N T H Ứ N H Ấ T : s ự CẦN T H IẾ T VÀ M Ụ C Đ ÍC H
N G H IÊN CỨU ĐỀ TÀI
1
I. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài:
1
II. M ục đích nghiên cứu đề tài:
3
III. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
4
IV. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
5
B. PH Ầ N T H Ứ H A I: N H Ũ N G K Ế T Q U Ả C H ÍN H CỦA Đ Ể
T À I N G H IÊ N CỨU
I.
Khu vực m ậu dịch tự do ASEAN (AFTA):
1. Sự ra đời và m ục tiêu của AFTA
6
6
6
2. Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) - cơ c h ế chủ yếu để thực hiện AFTA:
3. Chương trình A FTA /CEPT đối với Việt nam
II.
8
12
Thực trạng m ột số định chế pháp luật kinh tế cơ bản trong
điều kiện thực hiện chương trình AFTA/CEPT
13
1. Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc thực hiện hiệp
định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA)
13
2. Pháp luật T hương mại Việt nam
20
3. Pháp luật về T h u ế của Việt nam
22
4. Pháp luật L ao động Việt nam
26
III.
Phương hướng hoàn thiện m ột số định chế pháp luật kinh tế
cơ bản trong điều kiện thực hiện chương trình AFTA/CEPT
29
1.
Hồn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài
30
2.
Hoàn thiện pháp luật về Thương mại
30
3.
Hoàn thiện pháp luật về T huế
31
4.
Hoàn thiện pháp, luật về Lao động
32
K Ế T LUẬN
CHUYÊN ĐỂ 1: K H U
33
vực M ẬU D ỊCH T ự DO ASEAN
(A FTA )
34
Sự ra đời của AFTA
34
1. Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) - cơ ch ế chủ
yếu để thực hiện AFTA
37
2. Quan hệ giữa hiệp định CEPT và một SQ Điều ước quốc tế của
ASEAN có liên quan
43
3. Tiến trình thực hiện AFTA của Việt nam
46
C H U Y Ê N Đ Ể 2: T IẾ P T Ụ C H O À N T H IỆ N P H Á P L U Ậ T VỂ
ĐẦU T Ư TR Ự C T IẾ P N Ư ỚC N G O À I N H A M T H ự C
h iệ n
H IỆ P Đ ỊN H K H U N G V Ể K H U v ự c ĐẦU T Ư A SEA N
53
1. Vài nét về bối cảnh quốc tế trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) và yêu cầu đặt ra đối với V iệt nam
53
2. N hũng nội dung và nguyên tắc cơ bản của H iệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN
56
3. Khái quát thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Việt nam
60
4. M ột số đề xuất tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước
ngoài nhằm thực hiện thoả thuận đối với khu vực ASEAN
68
C H U Y Ê N Đ Ể 3: H O À N T H IỆ N P H Á P L U Ậ T T H Ư Ơ N G M Ạ I
T R Ư Ớ C Y ÊU CẦU H Ộ I N H Ậ P K IN H T Ế K H U
vực VÀ
V IỆ C T H Ự C H IỆ N A F T A /C E P T
Đặt vấn đề
1. Thực trạng pháp luật thương mại Việt nam
2. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật thương mại trước yêu cầu hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới
3. Hoàn thiện pháp luật thương mại với việc thực hiện chương
trinh AFTA/CEPT
C H U Y Ê N Đ Ể 4: P H Á P L U Ậ T V Ể T H U Ế CỦ A V IỆ T NAM
VÀ V IỆ C T H Ự C H IỆ N C H Ư Ơ N G T R ÌN H A F T A / C E P T
1. Vài nét về cơ sở tồn tại của chính sách thuế hiện hành ở Việt
nam
2. Thực trạng pháp luật về thuế hiện hành ở Việt nam và thực tiễn
áp dụng
3. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thuế của Việt nam nhằm
triển khai thực hiện các yêu cầu cơ bản của AFTA/CEPT
C H U Y ÊN Đ Ể 5: H O À N T H IỆ N P H Á P L U Ậ T L A O Đ Ộ N G
V IỆ T NAM T R O N G Đ IỂ U K IỆ N T H A M G IA A F T A /C E P T
I.
Tác động của việc gia nhập AFTA/CEPT đến lĩnh vực lao
động và yêu cầu đặt ra đối với pháp luật lao động Việt nam
1. Tác động của việc gia nhập AFTAva việc thự hiện chương trình
CEPT đến lĩnh vực lao động ở Việt nam
2. Yêu cầu cơ bản đối với pháp luật lao động Việt nam trong điều
kiện thực hiện chương trình AFTA/CEPT
II.
144
Thực trạng pháp luật lao động hiộn hành ở nước ta về những
vấn đề có liên quan
148
1. Về vấn đề học nghề
148
2. Về lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao
151
3. Về việc làm và giải quyết việc làm
152
4. Về chế độ chính sách đối với người lao động có hợp đồng lao
động chấm dứt (chấm dút quan hệ lao động)
III.
153
M ột sô kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao động
trong điều kiện thực hiện chương trình A FTA /C EPT
154
BẤO CÁO PHÚC TRÌNH
KẾT QUẢ NGHIÊN
cứu ĐỂ TÀI
A. PHẦN THỨNHẤT
S ự C Ầ N T H IẾ T VÀ M Ụ C Đ ÍC H N G H IÊ N
cứu Đ Ể T À I
I. SựC Ầ N THIẾT NGHIÊN c ú u ĐỀ TÀI
Xu thế chung trong quan hệ quốc tế hiện nay là sự xích lại gần nhau trong
quan hệ hợp tác kinh tế giữa các quốc gia. Hợp tác nhằm phát triển kinh tế đã và
đang là yêu cầu chiến lược của nhiều quốc gia. Đứng trước những thuận lợi, thách
thức của quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, tnrớc nguy cơ tụt hậu nếu
"đóng cửa", sự lựa chọn đúng đắn nhất đối với mỗi quốc gia là thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia là q
trình mang tính tất yếu. Quá trình này do yêu cầu bên trong của mỗi quốc gia và do
xu hướng phát triển kinh tế thế giới quyết định. Thực tế thời gian qua cho thấy mỗi
đất nước dù có bao nhiêu tác động chủ quan thì cuối cùng bánh xe lịch sử cũng tiến
đến kinh tế thị trường, cũng phải mở cửa nền kinh tế để bổ sung, giải quyết những
nguồn lực còn thiếu (hoặc thừa) của mình.
Xét về phạm vi hay quy mơ, hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện ở phạm
vi khu vực (hội nhập kinh tế khu vực) và phạm vi toàn cầu (hội nhập kinh tế toàn
cầu). Hội nhập kinh tế khu vực là sự thống nhất ý chí của một nhóm quốc gia có
cùng khơng gian lãnh thổ, cùng thống nhất hành động trong hoạt động xuất- nhập
khẩu hàng hoá theo những quy định chung nhằm tạo điều kiện cho các hàng hoá
được tự do di chuyển giữa các quốc gia đó một cách thuận lợi hơn. Những quy định
chung nêu trên trong điều kiện vấn đề biên giới, chủ quyền quốc gia cịn có ý nghĩa
quan trọng thì phải được thực hiện bằng những cam kết, những hiệp định thương
mại. Biểu hiện của hội nhập kinh tế khu vực là việc giảm thiểu các hàng rào thương
mại về mọi mặt cả kinh tế, hành chính, kỹ thuật và áp dụng những hoạt động
khuyến khích hỗ trợ nhằm thúc đẩy tự do bn bán hàng hố trong một khu vực hạn
chế về không gian, lãnh thổ nhất định. Cho đến nay thị trường thế giới bao gôm
nhiều thị trường khu vực. Mỗi thị trường khu vực có những nét riêng, song có thể
phân biệt chúng tuỳ theo mức độ gắn kết giữa các quốc gia thành viên trong buôn
bán với các quốc gia khác trên thị trường thế giới, ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do;
Liên minh thuế quan; Thị trường chung và Liên minh tiền tệ, trong đó Liên minh
tiền tệ thể hiện mức độ gắn kết giữa các thành viên đã ớ mức cao nhất.
Mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế khu vực và hội nhập kinh tế toàn cầu thể
hiện tương quan giữa phạm vi hẹp và phạm vi rộng của q trình hội nhập kinh tế
quốc gia, trong đó "hội nhập kinh tế khu vực là một nấc thang, một phạm vi quốc tế
hoá đời sống kinh tế quốc gia trong tiến trình hội nhập kinh tế tồn cầu. Hội nhập
kinh tế tồn cầu làm hình thành thị trường thế giới thống nhất, khơng có sự phân
biệt đối xử trong buôn bán quốc tế với inọi quốc gia, san lấp sự khác biệt về lợi ích
quốc gia, lợi ích khu vực. Trong khi đó, hội nhập kinh tế khu vực lại chia cắt thị
tnrờng thế giới thành những mảnh, mảng khác nhau, duy trì sự phân biệt đối xử
trong bn bán giữa các thành viên trong và ngoài thị trường khu vực. Khơng phải
hồn tồn đúng cho mọi trường hợp, song hội nhập kinh tế khu vực có ý nghĩa như
là quá trình tập dượt, bước chuẩn bị cho quá trình hội nhộp kinh tế tồn cầu. Ngược
lại, hội nhập kinh tế toàn cầu là định hướng, là triển vọng tương lai của hội nhập
kinh tế khu vực khi năng lực cạnh tranh của quốc gia đã mạnh lên. Tuy nhiên hội
nhập kinh tế khu vực vẫn là bước đi ban đầu cần thiết cho những quốc gia đang phát
triển trước khi bước vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cẩu.
Ý thức được những yêu cầu khách quan nêu trên, ngay từ thời gian đầu tai
Đại hội đảng lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: để phát huy được lợi thê
so sánh của đất nước, nền kinh tế Việt nam cần phát triển theo hướng kinh tế thị
trường, theo cơ cấu "mở"; gắn thị trường dân tộc với thị trường quốc tế, gắn nền
kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Từ đó các Nghị quyết Đại hội Đảng tiếp
theo đều tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: tích cực và chủ động thâm nhập,
mở lộng thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2020
cũng đã xác định rõ quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Chủ
dộng hội nhập kinh tế quốc tế trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hố dân tộc; bình đẳng,
cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế
với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế ... Đổng thời xác định chiến lược phát triển
kinh tế của Việt Nam là hướng mạnh vào xuất khẩu, tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong việc hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế, Chiến lược nhấn mạnh nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến
năm 2020 là phải "thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của nước ta
2
trong các tổ chức quốc tế; gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi
cần thiết và có điều kiện".
Thực hiện chủ trương nêu trên, bắt đầu từ khoảng hơn 10 năm trở lại đây,
Việt nam đã từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy nhanh tốc độ
tãng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu và để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô khác. Một trong những biểu hiện quan trọng của hoạt động hội nhập kinh tế
quốc tế là việc Việt Nam đã chính thức tham gia AFTA, thực hiện Hiệp định ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1996, sau khi đã trở thành thành viên thứ 7
của ASEAN vào tháng 7 năm 1995. Đây là một hình thức hội nhập kinh tế khu vực
của Việt nam mà thơng qua đó việc bn bán hàng hoá giữa các nước thành viên sẽ
được thực hiện một cách tự’do, bởi các công cụ bảo hộ mậu dịch như thuế quan và
các công cụ phi quan thuế dần dần được dỡ bỏ. Đây là bước chuẩn bị, tập dượt để
Việt Nam tiến tới mục tiêu lớn hơn là hội nhập kinh tế tồn cầu thơng qua việc gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sau khi đã nộp đơn vào năm 1995. Tuy
nhiên, để có thể thực hiện đẩy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của mình trong
tổ chức này, Việt Nam phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau. Ngày
27/11/2001 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế
quốc tế. Cùng với việc đánh giá những mặt được và những mặt yếu kém đang còn
tồn tại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nghị quyết đã đề ra 5
quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ cụ thể. Một trong những vấn đề quan trọng
dược đặt ra là việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ q
trình hội nhập kinh tế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống về Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) cũng như xem xét đánh giá thực trạng về một
số định chế pháp luật kinh tế cơ bản của nước ta nhằm rút ra nhũng ưu điểm, bất
cập trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và thực hiện chương trình AFTA/CEPT
là điều cần thiết và có ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn sâu sắc.
II.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN c ú u ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đề tài nêu trên nhằm:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề cơ bản về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) như sự ra đời của AFTA cùng với những mục tiêu của nó; cơ chế chủ yếu
để thực hiện AFTA là Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung (CEPT); đồng thời điểm qua tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, từ đó
rút ra một số kinh nghiệm từ chính q trình đó sau hơn nửa thời gian thực hiện
theo quy định.
Thứ hai, nghiên cứu có nhận xét, đánh giá về một số định chế pháp luật kinh
tế cơ bản của nước ta trong mối liên hệ với việc thực hiện chương trình
3
AFTA/CEPT nói riêng và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, như pháp
luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài; pháp luật về thương mại; pháp luật về thuế và
pháp luật lao động Việt Nam. trên cơ sở đó tìm ra những bất cập, tồn tại trong các
chế định pháp luật này, làm cơ sở cho việc hoàn thiện chúng.
Thứ ba, bước đầu nêu lên một số kiến nghị về việc hoàn thiện một số định
chế pháp luật kinh tế cơ bản nêu trên nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả chương
trình AFTA/CEPT.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu đề tài ở một mức độ nhất định có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy và học tập trước hết của
giáo viên và sinh viên trong nhà trường; ngoài ra có thể là tài liệu tham khảo cho
các trường đại học chuyên ngành luật khác có liên quan đến lĩnh vực đang đề cập.
Những kiến nghị về phương hướng hoàn thiện được đưa ra trong đề tài cũng là
những đóng góp khoa học mang tính thiết thực cho việc sửa đổi, bổ sung các định
chế pháp luật liên quan trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và sâu rộng ở nước ta.
III.
PHẠM VI NGHIÊN c ứ u CỦA ĐỀ TÀI
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với tư cách là một mô hình hợp tác kinh tế
quan trọng nhất của ASEAN với các cơng cụ để thực hiện nó là vấn đề khá phức
tạp. Đổng thời các định chế pháp luật có liên quan đến vấn đề này cũng có phạm vi
khá rộng lớn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một đề tài khoa học cơ sở (cấp trường),
với thời gian và khả năng có hạn, chúng tơi khơng có tham vọng nghiên cứu một
cách toàn diện và sâu sắc tất cả những nội dung liên quan thuộc đẻ tài này, mà chỉ
nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về AFTA và một số định chế pháp luật kinh tế
chủ yếu có liên quan.
Trên tinh thần đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài "AFTA và việc hoàn thiện một số
định chế pháp luật kinh tế cơ bản của Việt nam" tập trung chủ yếu vào một số nội
dung sau:
- Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Phần này chủ yếu đề cập một số
vấn đề về AFTA như sự ra đời của AFTA và ý nghĩa mục đích của nó, Hiệp định ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) như là công cụ chủ yếu để thực hiện
AFTA.
- Một số định chế pháp luật kinh tế cơ bản trong điều kiện thực hiện chương
trình AFTA/CEPT. Phần này giới hạn phân tích một số định chế pháp luật kinh tế
cơ bản nhất, đó là pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài, pháp luật về thương mại,
pháp luật về thuế và pháp luật lao động, ở đây các tác giả cố gắng khái quát thực
trạng pháp luật hiện hành ở từng lĩnh vực, song chỉ ở một số nội dung nhất định có
4
liên quan đồng thời bước đầu có sự đánh giá sơ bộ về ưu, nhược điểm của mỗi định
chế pháp luật đó trong mối liên hệ với việc thực hiện AFTA/CEPT.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các định chế pháp luật nêu trên.
Phần này chủ yếu nêu lên những đề xuất, kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung một số
định chế pháp luật để thực hiện có hiệu quả chương trình AFTA/CEPT, và cũng là
ơóp phần để Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực thành công, tiến tới nấc thang cao
hơn là hội nhập kinh tế toàn cầu.
IV.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ú u ĐỀ TÀI
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của đảng
và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, phát huy mọi tiềm năng phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Đề tài vận dụng các nguyên tắc, phương pháp luận triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, của lý luận
Nhà nước và pháp luật trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Trong đó đề tài đặc biệt
chú ý vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như tổng hợp, hê
thống, phương pháp lịch sử, so sánh, phan tích, đối chiếu...để giải quyết các vấn đề
mà đề tài đặt ra.
5
B. PHẦN THỨ HAI
NHŨNG KẾT QUẢ CHÍNH CỦA ĐỂ TÀI NGHIÊN c ứ u
I.
KHƯ V ự c MẬU DỊCH T ựD O ASEAN (AFTA)
1. Sự ra đòi và mục tiêu của AFTA
Khi Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ra đời, một trong nhũng mục
đích cơ bản trong hoạt động của tổ chức này chính là "thúc đẩy sự tăng trưởng kinh
tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hố trong khu vực thơng qua các nỗ lực chung
trên tinh thán bình đẳng vàliợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đổng các
quốc gia Đông Nam á hồ bình và thịnh vượng". Song trong thời gian đầu, các nước
thành viên ASEAN chủ yếu quan tâm và xúc tiến các hoạt động hợp tác trong các
lĩnh vực chính trị và an ninh khu vực. Nhưng nhu cầu họp tác kinh tế đang ngày
càng trở nên bức thiết hơn. Vì vậy vấn đề hợp tác kinh tế đã thực sự được đề cập tại
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất được tổ chức tại Indonexia năm 1976.
Tại Hội nghị này, ASEAN đã quyết định lập ra uỷ ban về hợp tác kinh tế: tài chínhngân hàng, lương thực nơng- lâm nghiệp, cơng nghiệp, khống sản- năng lượng,
giao thông vận tải, thương mại du lịch và các uỷ ban về khoa học cồng nghệ, phát
triển xã hội, phòng chống ma tuý...Các nước thành viên ASEAN cũng đã ký kết
các hiệp định hợp tác, thực hiện một số dự án và chương trình hợp tác với nhau và
với các nước đối thoại trên nhiều lĩnh vực như: Thoả thuận ưu đãi thương mại
(PTA), các dự án công nghiệp ASEAN (AIC)...
Mặc dù đã có sự chú trọng đến vấn đề hợp tác kinh tế, nhưng hiệu quả của
việc hợp tác kinh tế của ASEAN trong giai đoạn này là không cao. Sự kém hiệu quả
của hoạt động hợp tác-.kinh tế có nhiều ngun nhân. Ví dụ như các nước ASEAN
chưa đạt tới trình độ cơng nghiệp hố cần và đủ để xây dựng sự họp tác theo kiểu
của EC, các giao dịch thương mại giữa các nước thành viên ASEAN còn gặp nhiều
trở ngại do các hàng rào quan thuế; cơ cấu tổ chức của ASEAN chưa chặt chẽ; Ban
thư ký của ASEAN có q ít quyền hạn nên khó có đủ khả năng để thực hiện vai trị
cơ bản trong việc đẩy nhanh và tăng cường hợp tác khu vực.
Sau hơn 20 năm củng cố và tăng cường, hợp tác kinh tế đã trở thành một
trong những nội dung hợp tác chủ yếu của ASEAN trong phạm vi giữa các nước
thành viên cũng như giữa ASEAN với các quốc gia, các tổ chức kinh tế khác. Mặt
khác, vào đầu những năm 90 chiến tranh lạnh kết thúc, sự sụp đổ của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, tác động mạnh của cách mạng khoa học công nghệ cũng như xu thế
khu vực hố, tồn cầu hố đã đặt các nước ASEAN trước những thách thức lớn khó
6
có thể vượt qua nếu khơng có những nỗ lực chung với một sự phối hợp chặt chẽ hơn
nữa của tồn bộ các quốc gia thành viên. Vì vây, các nước thành viên ASEAN đều
thấy I'õ tầm quan trong của việc phải có một cơ chế mang tính thể chế, thống nhất
trong hành động và đồng nhất trong tiêu chí nhàm phát huy được lợi thế so sánh của
mình trong q trình tổ chức và phân cơng lao động, đạt được những hiệu quả tối ưu
trong bối cảnh sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu.
Tất cả những yếu tố nói trên đã dẫn tới quyết định thành lập một khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Sáng kiến này do Thủ tướng Thái Lan đưa ra từ
năm 1991. Hội nghị ngoại trưởng ASEAN tháng 7 năm 1991, hội nghị các bộ
trưởng kinh tế ASEAN tháng 10 năm 1991 cũng ủng hộ và nhất trí thành lập AFTA.
Đến tháng 1 năm 1992 Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV được tổ chức tại
Singapo đã quyết định thành lạp AFTA.
Quyết định thành lộp AFTA đánh dấu một bước quan trọng trong lịch sử hợp
tác kinh tế của ASEAN. AFTA ra đời là kết quả tất yếu của sự phát triển hợp tác
giữa tất cả các quốc gia thành viên ASEAN và để đối phó với những biến đổi của
mơi trường kinh tế quốc tế, góp phần đưa hợp tác kinh tế của ASEAN lên một tầm
cao mới và thể hiện sự thích ứng của ASEAN trong xu thế khu vực hố và tồn cầu
hố.
Việc thành lộp AFTA nhằm những mục tiêu sau:
Thứ nhất, AFTA nhằm tự do hoá thương mại trong nội bộ ASEAN thông qua việc
loại bỏ hàng rào thuế quan và sau dó là các hàng rào phi quan thuế trong nội bộ khu
vực. Mục tiêu này sẽ mở ra cho các quốc gia thành viên ASEAN một thị trường
rộng lớn, hỗ trợ các quốc gia thành viên đẩy mạnh tăng trưởng, thay đổi cơ cấu kinh
tế, bổ sung lẫn nhau theo hướng trở thành một thế lực cạnh tranh có khả năng và ưu
thế so với các thị trường khu vực khác trên thế giới như Liên minh châu Âu (EƯ),
khu vực tự do Bắc Mỹ (NAFTA)...Tự do hố thương mại khơng chỉ làm cho
ASEAN trở thành một thị trường rộng lớn, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế
khu vực mà còn đem lại nhũng lợi ích thiết thực cho người tiêu dùng. Cụ thể, họ sẽ
mua được những hàng hố có mẫu mã đa dạng, chất lượng cao và giá cả phù hợp từ
những nhà sản xuất trong và ngoài ASEAN. Sức mua của người tiêu dùng sẽ tác
động tích cực tới hoạt dộng sản xuất, từ đó thương mại khu vực sẽ tăng trưởng
mạnh. Đây là mục tiêu đầu tiên song không phải là mục tiêu quan trọng nhất của
ASEAN do quy mô của thị trường ASEAN tương đối nhỏ so với một số thị trường
thương mại khu vực khác như EU và NAFTA.
Mục tiêu thứ hai của AFTA là thu hút được đầu tư nước ngoài vào khu vực
và tăng cường đầu tư lẫn nhau trong quan hệ giữa các nước thành viên ASEAN. Đây
7
là một trong những mục tiêu chính của AFTA. AFTA sẽ chúc đẩy q trình hợp lý
hố sản xuất, chun mơn hố trong nội bộ khu vực và khai thác triệt để các thế
mạnh của các nền kinh tế thành viên ASEAN, trên cơ sở phân công lao động quốc
tế trong nội bộ ASEAN nói chung và trong nội bộ mỗi ngành sản xuất nói riêng, thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngồi của các cơng ty đa quốc gia.
Bên cạnh sự tương đồng về một số nhóm ngành, hàng, mỗi nước ASEAN lại
có thế mạnh riêng biệt, đặc biệt là các nước thành viên ban đầu của ASEAN như
Thái Lan, Singapo," Philippin...Vì vậy, việc củng cố và phát huy thế mạnh của một
số nước trong sản xuất và xuất khẩu một số loại hàng hố đã có uy tín trên thương
trường cùng với sự lớn mạnh của toàn bộ thị trường và sự gia tăng của sức mua sẽ
góp phần thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN ngày càng gia tăng.
Mục tiêu thứ ba của AFTA là thực hiện AFTA tạo điều kiện để các nước
ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là sự
thay đổi quan trọng trong định hướng chính sách của ASEAN. Nó đáp ứng kịp thời
những yêu cầu bức xúc trong bối cảnh hiện nay. Đó là:
- Các nền kinh tế của ASEAN trở nên đa dạng hơn trong cơ cấu sản xuất và phụ
thuộc vào nhau, khả nãng thương mại vùng lớn hơn được tăng lên.
- Các nền kinh tế của ASEAN đã và đang tiến hành cải cách chính sách quản lý để
tự do hoá thương mại và bãi bỏ hạn chế đầu tư nước ngồi, tạo cho khu vực cơng
nghiệp được hướng ngoại hơn.
- Chủ nghĩa bảo hộ của một số nước xuất hiện dưới các hình thức thoả thuận vùng
như NAFTA và sự tổn tại của các hàng rào phi quan thuế đã cho thấy sự cần thiết
phải củng cố Sự hợp tác nội bộ ASEAN để đối phó với sự xuất hiện của các khối
thương mại trong việc thu hút đầu tư và chiếm lĩnh thị trường.
2. Hiệp định về chương trình ưu đãi th quan có hiệu lực chung (CEPT)- cơ
chế chủ yếu để thực hiện AFTA.
Nói đến khu vực mậu dịch tự do ASEAN là phải đề cập đến Hiệp định CEPT. Đó
là một Điều ước quốc tế đa phương do các Bộ trưởng kinh tế đại diện cho các quốc
gia thành viên ASEAN ký kết vào ngày 28/01/1992 tại Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 6 được tổ chức tại Singapo. Hiệp định CEPT ghi nhận sự thoả thuận
giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống
còn từ 0 đến 5%, đồng thời loại bỏ toàn bộ các hạn chế định lượng và các hàng rào
phi quan thuế.
Vai trò của Hiệp định CEPT cũng được khẳng định tại điều 2 Hiệp định
khung về tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN:" ...chương trình ưu đãi thuế quan
có hiệu lực chung (CEPT) sẽ là cơ chế chủ yếu để thực hiện AFTA..."
8
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) vào
tháng 5/1995 đã đánh dấu một bước tiến mới trong AFTA. Đó là việc các nước
ASEAN đã ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định CEPT. Nghị định thư sửa đổi đã
pháp điển hoá mục tiêu của Hội nghị như sau:
a.
Vấn đề thuế quan.
Mục tiêu cuối cùng của AFTA là trong thời hạn tối đa 10 năm phải giảm
thuế quan xuống còn 0 đến 5%. Xuất phát từ một thực tế là thành viên của ASEAN
bao gồm các thành viên cũ (6 nước: Thái lan, singapo, Malaixia, Indonexia,
Philippin, Bruney) và các nước thành viên mới (4 nước: Việt Nam, lào, Mianma,
Cãmpuchia); mặt khác các thành viên ASEAN đều tham gia AFTA và là thành viên
của Hiệp định CEPT, vì vậy thời điểm tiến hành giảm thuế quan để hoàn thành
AFTA hoàn toàn phụ thuộc vào thời điểm tham gia Hiệp định CEPT chứ không thể
tiến hành cùng lúc. Hơn nữa, các nước ASEAN còn tỏ ra khá linh hoạt, mềm dẻo
khi chỉ thoả thuận khống chế thời hạn để hoàn thành AFTA tối đa là 10 năm, còn
việc đưa mặt hàng nào vào danh mục cắt giảm thuế, thời hạn đưa các mặt hàng đó
vào cắt giảm thì các quốc gia thành viên được chủ động. Việc cắt giảm thuế quan
đối với các sản phẩm thuộc danh mục cắt giảm được thực hiện theo hai lịch trình:
Lịch trình giảm bình thường và lịch trình giảm nhanh.
Đối với lịch trình giảm bình thường, các sản phẩm có thuế suất trên 20%„sẽ
được giảm xuống 20% vào ngày 1/1/1998 và sau đó tiếp tục giảm xuống 0 đến 5%
vào ngày 1/1/2003. Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ đươc
giảm xuống 0 đến 5% vào ngày 1/1/2000.
Trong tổng số danh mục hàng hoá tham gia CEPT, các danh mục giảm thuế
theo lịch trình bình thường chiếm tỉ lệ lớn nhất (khoảng 59%).
Đối với lịch trình giảm thuế nhanh, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ
được giảm xuống 0 đến 5% vào ngày 1/1/2000, các sản phẩm có thuế suất bằng
hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 đến 5% vào ngày 1/1/1998.
Việc áp dụng lịch trình cắt giảm thuế quan nói trên được các nước ASEAN
thoả thuận thơng qua nhằm đảm bảo trong vòng từ 7 đến 10 năm phải đưa được
khoảng 90% trong hơn 44000 dòng thuế của các nước thành viên (trừ các nước
thành viên mới) xuống mức thuế dưới 5% vào năm 2000 và mức thuế bình quân của
ASEAN vào năm 2003 sẽ xuống dưới 2,63%.
Danh mục sản phẩm liên quan đến lịch trình giảm thuế theo CEPT gồm:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclution list-ỈL)
Phụ thuộc vào các thời điểm thực hiện CEPT của mỗi nước, danh mục này
bao gồm các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế quan sao cho khi hoàn thành CEPT sẽ
có thuế suất là 0 đến 5%. Tuy nhiên, có những mặt hàng dù ở trong danh mục IL
9
nhưng hồn tồn khơng phải cắt giảm thuế vì ngay từ trước khi đưa vào danh mục
IL những hàng hoá này đã có mức thuế suất trong khoảng từ 0 đến 5%.
Tiến trình cắt giảm thuế đối với các sản phẩm trong danh mục IL được thực
hiên như sau: trong 5 năm đầu, các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm
xuốno 20% và tiếp tục giảm xuống còn 0 đến 5% trong 5 năm còn lại. Các sản
phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 đến 5%
trong 7 năm đầu.
Danh mục các sấn phẩm tạm thời chưa giảm thuế (temporary exclusion list-TEL)
Xuất phát từ việc các quốc gia thành viên cịn gặp nhiều khó khăn trong việc
hoạch định và thực hiện chính sách tự do hố thương mại, để tạo điều kiện cho các
nước thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể hoặc có thời
gian chuyển hướng đối với những sản phẩm tương đối trọng yếu trong bước đầu
tham gia CEPT, Hiệp định CEPT cho phép các nước thành viên được đưa một số
mặt hàng tạm thời chưa phải thực hiện tiến trình giảm thuế. Tuy nhiên danh mục
TEL chỉ mang tính chất tạm thời và sau một khoảng thời gian nhất định, cụ thể là
trong vòng 5 năm các sản phẩm thuộc danh mục TEL sẽ phải được chuyển sang
danh mục IL. Thời gian chuyển được tính bắt đầu từ 1/1/1996 ( nghĩa là từ năm thứ
4 khi các nước thành viên bắt đầu thực hiện CEPT) đến 1/1/2000. Trong thời gian
đó, mỗi năm sẽ chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục TEL. Kết quả của quá
trình dịch chuyển này là danh mục TEL sẽ khơng cịn tổn tại sau khi mỗi nước
thành viên ASEAN đã thực hiện CEPT được 8 năm. Thuế suất của những sản phẩm
nào ở mức trên 20% phải được giảm dần xuống 20% vào thời điểm ngày 1/1/1998.
Với các sản phẩm được chuyển sang danh mục IL vào đúng hoặc sau thời điểm
1998 thì thuế suất phải bằng hoặc thấp hơn 20% và tiếp tục được giảm xuống còn 0
đến 5% vào năm 2003.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (General exception list- GEL)
Danh mục này bao gồm những sản phẩm khơng tham gia vào tiến trình cắt
giảm thuế quan. Theo điều 9 của Hiệp định CEPT, các sản phẩm trong danh mục
này phải là các sản phẩm có "ảnh hưởng" đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức
khoẻ con người, động thực vật, bảo tồn các giá trị văn hố nghệ thuật, di tích lịch
sử, khảo cổ. Xuất phát từ các lý do đó, mỗi quốc gia thành viên ASEAN có quyền
đưa ra danh mục loại trừ hồn tồn của mình, việc cắt giảm thuế cũng như xoá bỏ
các biện pháp phi thuế đối với những sản phẩm này sẽ được đặc cách không xem
xét đến theo CEPT.
Danh mục nhạy cảm (Sensitive list - SL)
10
Danh mục này bao gồm các mặt hàng nông sản chưa chế biến có khả năng
gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các nước thành viên nếu áp dụng lịch trình
cắt giảm thuế theo CEPT.
Theo điều 3 của Hiệp định CEPT năm 1992, những sản phẩm nông nghiệp
chưa chế biến không phải đưa vào thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT. Tuy nhiên
khi sửa đổi Hiệp định CEPT các sản phẩm nông sản chưa chế biến thuộc danh mục
IL sẽ áp dụng chương trình cắt giảm thuế bình thường bắt đầu vào ngày 1/1/1996 và
mức thuế sẽ được giảm xuống còn 0 đến 5%vào ngày 1/1/2003. Các sản phẩm nông
sản chưa chế biến thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển dần sang danh mục IL
trong vòng 5 năm bắt đầu từ ngày 1/1/1998 đến ngày 1/1/2003, mỗi năm chuyển
20% mặt hàng.
Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm được chia thành 2 loại phụ
thuộc vào mức độ nhạy cảm, cụ thể:
+ Các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm: Đối với các sản phẩm
này, thời hạn được xác định để tiến hành cắt giảm thuế là ngày 1/1/2001 và kết thúc
vào năm 2010 với mức thuế suất phải đạt được ở mức là 0 đến 5% "thay vì năm
2003 như những sản phẩm khác".
+ Các nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao: Do đây là những mặt hàng rất
quan trọng đối với mỗi nước thành viên nên thường được bảo hộ rất cao. Vì vậy quá
trình thoả thuận để xác định các quy định về vấn đề cắt giảm thuế cần có những
linh hoạt nhất định liên quan đến mức thuế suất khi kết thúc, các biện pháp tự vệ đề
phòng các bất trắc...
b.
Vấn đề loại bỏ các hạn chế về định lượng (QR) và các rào cản phi thuế
quan khác (NTB)
Cùng với các biện pháp giảm thuế quan, Hiệp định CEPT còn quy định vấn
đề loại bỏ các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác. Nhìn chung
các hạn chế về định lượng thường dễ dàng xác định hơn. Các nước thành viên
ASEAN sẽ phải xoá bỏ tất cả các QR đối với các sản phẩm thuộc CEPT trên cơ sở
ưu đãi thuế quan được áp dụng cho các mặt hàng đó.
Các rào cản phi quan thuế khác là những biện pháp mà việc áp dụng nó
nhằm ngăn cản hoặc hạn chế việc xuất nhập khẩu hàng hoá giữa các nước thành
viên như: các tiêu chuẩn kỹ thuật, các giấy phép xuất nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ
sinh phịng dịch, các quy định về ngoại hối...
Việc xố bỏ các hàng rào phi quan thuế trên thực tế sẽ khó khăn hơn nhiều so với
việc xố bỏ các hạn chế về định lượng vì NTB thường được sự che chắn của chiếc
"bình phong" là các chính sách về kiểm dịch, về môi trường, về sức khoẻ cộng
đồng...
11
Các nước ASEAN đều mong muốn thực hiện CEPT một cách có hiệu quả,
giảm tối đa các hàng rào phi thuế quan. Để đạt được mong muốn này, các nước
ASEAN đã thoả thuận về một số vấn đề như: Thống nhất các tiêu chuẩn về chất
lượng hàng hố, cơng nhận tiêu chuẩn hàng hoá của nhau...Hiệp định CEPT cũng
cho phép các nước thành viên được quyền áp dụng hoặc tăng cường các biện pháp
hạn chế về định lượng hay bất kỳ biện pháp nào khác để hạn chế nhập khẩu một số
sản phẩm cụ thể trong các trường hợp khẩn cấp và trong một thời gian nhất định.
Khi áp dung các biện pháp nói trên, quốc gia thành viên phải thơng báo ngay về các
biện pháp đó cho Hội đồng AFTA và có thể có sự tham khảo ý kiến với Hội đổng
về các biện pháp đó.
Vấn đề giải quyết tranh chấp
Nhìn chung các quy định của Hiệp định CEPT về vấn đề giải quyết tranh
chấp còn rất đơn giản, chung chung, thiếu các quy định về giám sát thực hiện các
quyết định hay các biện pháp trìmg phạt trong trường hợp một bên không tuân thủ
các quyết định giải quyết tranh chấp. Theo Điều 8 Hiệp định CEPT thì, bất cứ khiếu
nại nào liên quan đến việc thực hiện Hiệp định CEPT đều phải được các quốc gia
thành viên dành mọi cơ hội cho việc tham khảo ý kiến. Nếu các quốc gia thành viên
cho rằng lợi ích của mình bị suy giảm hoặc mất đi do quốc gia thành viên khác
khơng thực hiện nghĩa vụ của họ thì có thể khiếu nại hoặc đề nghị quốc gia vi phạm
và bên được đề nghị cần xem xét thoả đáng khiếu nại hoặc đề nghị đó. Ngồi ra các
bất đồng trong việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định CEPT sẽ được giải quyết trên
tinh thần hoà giải hĩai nghị "đến mức cao nhất" giữa các bên liên quan.
Để tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hợp tác kinh tế
nói chung và hợp tác trong phạm vi của Hiệp định CEPT nói riêng, ngày
29/11/1996 tại Manila (Philippin), các nước ASEAN đã ký kết một văn bản pháp lý
về vấn đề này, đó là Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp. Việc ký kết
Nghị định thư này là sự cụ thể hoá điều 9 của Hiệp định khung về tăng cường hợp
tác kinh tế của ASEAN năm 1992 nhằm xác lập một cơ chế giải quyết tranh chấp
một cách có hiệu quả giữa các nước thành viên ASEAN.
3. Chương trình AFTA/CEPT đối với Việt Nam
Theo yêu cầu của AFTA/CEPT, các nước thành viên phải giảm thuế nhập
khẩu xuống còn 0 đến 5% trong vòng 10 năm. Nếu đối với các nước thành viên cũ
(Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) thời hạn hoàn
thành AFTA là 1/1/2003, thì đối với Việt Nam thời hạn đó là 1/1/2006 do tham gia
AFTA muộn hơn (năm 1996). Đồng thời, khi một mặt hàng được đưa vào thực hiện
AFTA/CEPT và có thuế suất bằng hoặc dưới 20%, thì cũng phải bỏ ngay các hạn
12
chế về số lượng, trong vòng 5 năm tiếp theo phải bỏ tất cả các hàng rào phi quan
thuế khác liên quan đến mặt hàng đó.
Để thực hiện Hiệp định CEPT, hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành
Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện cho năm đó. Tháng
12/2000 Chính phủ Việt nam đã thơng qua lộ trình tổng thể sửa đổi để thực hiện
CEPT giai đoạn 2001-2006. Căn cứ vào lịch trình tổng thể đó, hàng năm Chính phủ
ban hành một danh mục thực hiện chương trình CEPT phù hợp.
Từ ngày 1/7/2003 Việt Nam chuyển đổi danh mục CEPT/AFTA từ Biểu thuế
hiện hành sang Danh mục Hài hoà thuế quan ASEAN (AHTN), làm cho số dòng
thuế các loại tăng lên đáng kể. Sau 7 năm thực hiện AFTA/CEPT, Việt Nam đã cắt
giảm thuế cho 10.143 mặt hàng (theo NĐ số 78/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003 của
Chính phủ), chiếm 95% tổng số dịng thuế, trong đó 74% số dịng thuế đã đạt mức
thuế suất 0 đến 5%. Như vậy về cơ bản, Việt Nam đã hồn thành những cam kết
của mình theo đúng tiến độ.
II.
THỰC TRẠNG MỘT s ố ĐỊNH CHẾ PHÁP LUẬT KINH TẾ c ơ BẢN
TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH AFTA/CEPT
1.
Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc thực hiện Hiệp định
khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA).
Như đã đề cập, một trong những mục tiêu chủ yếu của AFTA là thu hút đầu tư
nước ngoài vào khu vực và tăng cường đầu tư lẫn nhau trong quan hệ giữa các nước
thành viên ASEAN. Việc các nước ASEAN ký kết Hiệp định khung về khu vực đầu
tư ASEAN (AIA) vào ngày 7/10/1998 cũng chính là nhằm đạt được mục đích đó,
đặc biệt trong bối cảnh đầu tư vào các nước ASEAN giảm đáng kể từ đầu những
năm 90, do các nước như Trung Quốc, Nga, Đông Âu trở thành các thị trường đầu
tư hấp dẫn hơn. Hiệp định này đã được Việt Nam phê chuẩn vào ngày 12/5/1999.
Nội dưng và nguyên tắc cơ bản của Hiệp định khung về khu vực đầu tư
ASEAN(AIA)
Phạm vi điều chỉnh của AIA là tất cả các hoạt động đầu tư trực tiếp. AIA
không điều chỉnh các hoạt động đầu tư gián tiếp và những vấn đề liên quan đến đầu
tư đã được các hiệp định khác của ASEAN điều chỉnh (Điều 2 AIA).
Mục tiêu của AIA là: (a) Xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN có mơi trường
đầu tư thơng thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên, nhằm: (i) đẩy
mạnh đầu tư vào ASEAN từ tất cả các nguồn trong và ngoài ASEAN; (ii) cùng thúc
đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất; (iii) củng cố và tăng cường tính
cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của ASEAN; (iv) giảm dần và tiến tới loại bỏ
những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dịng đầu tư và sự hoạt động
13
của các dự án đầu tư trong ASEAN; (b) Góp phần thực hiện mục tiêu hướngtới tự
do lưu chuyển đầu tư vào năm 2020 (Đ.3 AIA).
Để thực hiện các mục tiêu trên, các quốc gia thành viên AIA cùng cam kết thực
hiện các chương trình hợp tác sau: (i) Chương trình hợp tác đầu tư khu vực ASEAN
nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngối ASEAN; (ii)
Chương trình xúc tiến và tăng cường hiểu biết; (iii) Chương trình tự do hố.
Các nội dung của Hiệp định được xây dựng trên các nouyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc đối 'xử quốc gia:
Nguyên tấc này yêu cầu sự đối xử thống nhất và bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài trong tất cả
các lĩnh vực, ngành nghề. Theo tinh thần của Hiệp định, ngoài các biện pháp hoặc
lĩnh vực liệt kê trong các Danh mục loại trừ tạm thời và Danh mục nhạy cảm của
nước mình, các nước thành viên ASEAN sẽ dành chế độ đối xử không kém thuận
lợi hơn so với các nhà đầu tư nước mình và mở cửa tất cả các ngành nghề cho các
nhà đầu tư ASEAN ngay sau khi hiệp định này có hiệu lực.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc: Nguyên tắc này yêu cầu một quốc gia thành
viên AIA phải có sự đối xử thống nhất và bình đẳng đối với các nhà đầu tư và đầu
tư nước ngoài của các nước ASEAN. Nếu có sự thay đổi về chính sách theo hướng
áp dụng một ưu đãi cho nhà đầu tư của một quốc gia thành viên nhất địnhthìcác
nhà đầu tư của các quốc gia thành viên khác cũng phải được hưởng.
- Nguyên tắc đảm bảo tính rỗ ràng, minh bạch
Đ. 11 Hiệp định quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải cung cấp
thơng tin đảm bảo tính rõ ràng, trong sáng của pháp luật và chính sách đầu tư của
nước mình, ngọại trừ các thơng tin làm ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật, trái
với lợi ích cơng cộng hoặc làm thiệt hại quyền lợi thương mại hợp pháp của các
doanh nghiệp. Mỗi nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lẫn
thơng báo cho Hội đồng AIA các thay đổi về luật pháp và chính sách ảnh hưởng
đến đầu tư hoặc các cam kết theo Hiệp định này.
Trong các nội dung của AIA, dưới góc độ pháp lý, cần đặc biệt quan tâm đến
chương trình tự do hố. Chương trình này nhằm thúc đẩy sự lưu chuyển thuận lợi và
có hiệu quả giữa các quốc gia ASEAN về vốn, lao động, cơng nghệ...Theo chương
trình này, các quốc gia thành viên sẽ phải: (i) Đơn phương giảm bớt, loại bỏ những
biện pháp hạn chế đầu tư và thường xuyên xem xét lại chế độ đầu tư theo hướng tự
do hơn, ví dụ quy định các chính sách đầu tư hợp lý, đơn giản hố thủ tục cấp phép
đầu tư...(ii) Thực hiện các kế hoạch hành động của từng nước, cụ thể: Mở cửa tất cả
các ngành nghề cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả
các nhà đầu tư vào năm 2020 (riêng Việt nam mở cửa các ngành nghề đối với các
14
nhà đầu tư ASEAN vào năm 2013); thực hiên chế độ đối xử quốc gia đối với các
nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực đẩu tư ASEAN. (iii) Thúc đẩy dòng lưu chuyển
tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, công nghệ giữa các quốc gia
thành viên ASEAN.
Trong bối cảnh này, pháp luật đầu tư nói chung và pháp luật về đầu tư nước
ngồi nói riêng của Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải hoàn thiện
theo hướng tự do hấp dẫn hơn...
1.2. Khái quát thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm nhiều văn bản pháp luật,
nhưng trong đó Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam là văn bản mang tính chất
xương sống. Ngày 29/12/1^87 Luật này đã được Quốc hội thông qua. Qua hơn 15
năm áp dụng, hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngồi nói chung, Luật đầu
tư nước ngồi tại Việt nam nói riêng đã được hồn thiện dần từng bước. Qua các lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 1990, 1992 và được ban hành mới vào năm 1996 và
sau đó tiếp tục được sửa đổi vào năm 2000, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
cùng với các văn bản hướng dẫn đã được đánh giá là khá thơng thống, cởi mở và
có tính hấp dẫn so với pháp luật của nhiều nước khác trong khu vực như Thái lan,
Malaysia, Philippin và cả Trung Quốc.
Tuy nhiên, trước yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, mà
trực tiếp nhất là các thoả thuận trong Hiệp định AIA, pháp luật về đầu tư trực tiếp
nước ngồi tại việt Nam vãn cịn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Theo một số
chuyên gia, nếu so sánh, liên hê với một trong những nội dung rất quan trọng của
Hiệp định AIA là chương trình tự do hố, có thể thấy ngay những hạn chế của pháp
luật Việt nam, đó là khả năng của pháp luật trong viộc đáp úng các yêu cầu: giảm
bớt, loại bỏ những biện pháp hạn chế đầu tư và thường xuyên xem xét lại chế độ
đầu tư theo hướng tự do hoá hơn.1 ở mức độ khái quát, có thể đánh giá những ưu
điểm và hạn chế của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta theo một
số nội dung chủ yếu sau:
- Vê lĩnh vực và địa bàn đầu tư:
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài được đầu
tư vào tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, trừ những lĩnh vực cấm đầu tư.
Nhằm định hướng các hoạt động đầu tư nước ngồi theo hướng có lợi nhất cho nền
kinh tế, pháp luật chia các lĩnh vực đầu tư thành: lĩnh vực cho phép đầu tư, lĩnh vực
khuyến khích đầu tư, lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư và lĩnh vực khơng cấp
phép đầu tư. Ví dụ khơng cấp phép đầu tư nước ngồi vào các lĩnh vực, địa bàn gây
TS. N guyễn K hắc Đ ịn h , H o àn th iệ n ph áp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu hướng nhất thể hoá pháp luật
ề đầu tư ờ V iệt N am .
15
thiêt hai đến quốc phòng và an ninh quốc gia, di tích lịch sử, văn hố, thuần phong
mỹ tục và môi trường sinh thái. Danh mục các dự án không cấp giấy phép đầu tư
bao gồm: các dự án gây nguy hại đến an ninh quốc gia, quốc phòng và lợi ích cơng
cộng; các dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hố, thuần phong mỹ tục
của Việt Nam; các dự án gây tổn hại đến môi trường sinh thái; các dự án xử lý phế
thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hoá chất độc hoặc sử
dạng tác nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế. Bên cạnh đó, Đ. 3 Luật đầu tư
nước ngồi tại Việt Nam quy định các lĩnh vực và các điạ bàn được Nhà nước
khuyến khích đầu tư nước ngồi. Ngồi ra Nhà nước quy định một số lĩnh vực chỉ
mở cửa cho đầu tư nước ngoài với những điều kiện nhất định, bao gồm: điều kiện về
hình thức đầu tư, điều kiện'về thị trường tiêu thụ sản phẩm và về phát triển nguồn
nguyên liệu...
Như vậy có thể thấy rằng, các quy định về lĩnh vực đầu tư dành cho nhà đầu
tư nước ngoài của Việt Nam về cơ bản là hợp lý và phù hợp với thông lệ quốc tế
cũng như tinh thần của AIA. Tuy nhiên, danh mục các dự án cấm đầu tư còn dừng
lại ở mức độ chung chung. Nếu khơng có hướng dẫn cụ thể hơn thì việc lựa chọn
lĩnh vực đầu tư của các nhà đầu tư trong nhiều trường hợp sẽ gặp khó khăn; việc xác
định một dự án cụ thể có thuộc lĩnh vực cấm đầu tư hay không sẽ phụ thuộc rất
nhiều vào ý kiến chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cấp giấy
phép đầu tư. Ngoài ra về các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mặc dù đã có những điều
chỉnh đáng kể bởi Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003, song vẫn đang còn
một số vấn đẻ chưa hợp lý cần phải xem xét để tiếp tục điều chỉnh. Việc quy định
lĩnh vực đầu tư có điều kiện là đòi hỏi của bất cứ quốc gia nào, nhưng cần đưa ra
những điều kiện hợp lý để vừa bảo vệ được quyền lợi của nước nhận đầu tư, vừa
không gãy trở ngại cho sự tự do đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo quy
định hiện nay, việc khơng cho phép sở hữu 100% vốn nước ngồi trong một số lĩnh
vực (quy định tại mục 1, phần IV phụ lục 1, NĐ số 27/2003/NĐ-CP) là chưa hợp lý.
Quy định này ít nhiều tạo thế cạnh tranh khơng bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong
nước và các nhà đầu tư nước ngồi, khơng đảm bảo sự cạnh tranh thực sự trong các
lĩnh vực này.
- Về hình thức đầu tư
Các hình thức đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài
tại việt nam là các hình thức đầu tư trực tiếp. Trong thời gian qua, hình thức đầu tư
trực tiếp nước ngồi được pháp luật Việt nam quy định khá nhất quán. Các hình
thức cụ thể là: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng;doanh nghiệp liên doanh;
doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (Đ. 2, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam). Ngoài ra, nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển cơ sở hạ tầng và
16
một sô' lĩnh vực quan trọng khác, Luật đầu tư quy định những chế độ ưu đãi đầu tư
cho các dự án đầu tư theo phương thức Xây dựng- Kinh doanh-Chuyển giao (BOT)
và các biến thể của phương thức này (BTO: Hợp đồng Xây dựng- Chuyển giaoKinh doanh; BT: Hợp đổng Xãy dựng- Chuyển giao); quy định chế độ thuế quan
đặc biệt cho các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
và khu công nghệ cao. Nhìn chung các nhà đầu tư nước ngồi có khả năng lựa chọn
khá nhiều hình thức đầu tư. Tuy nhiên so với một số nước khác trong khu vực, các
hình thức hiện hành cịn có phần hạn hẹp, một số hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngồi tại Việt Nam hiện nay không được điều chỉnh bởi Luật đầu tư (ví dụ doanh
nghiệp nước ngồi thành lập chi nhánh, văn phịng đại diện tại Việt Nam, nhà đầu
tư nước ngồi góp vốn vào 'các cơng ty có vốn đầu tư trong nước của Việt Nam...)
Có thể thấy rằng, cơ hội lựa chọn đầu tư tại Việt Nam của các nhà đầu tư nước
ngoài bị hạn chế hơn các nhà đầu tư trong nước của Việt Nam.
- Thủ tục cấp giấy phép đầu tư
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi được cấp giấy phép đầu tư theo một
trình tự khá phức tạp và khác biệt với thủ tục cấp giấy phép đầu tư (giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh) cho các dự án trong nước. Nhìn chung, thủ tục cấp giấy phép
đầu tư được quy định rất chặt chẽ, với thủ tục phức tạp áp dụng cho hầu hết các dự
án đầu tư. Thẩm quyền cấp giấy phép được quy định theo cách phân cấp hoặc uỷ
quyển cho các cơ quan khác nhau (Bộ Kế hoạch đầu tư, một số ƯBND cấp
tỉnh,...)tuỳ thuộc vào tính chất ngành nghề, lĩnh vực và quy mô dự án. Thời hạn
thẩm định hổ sơ và cấp giấy phép đầu tư là 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp
lệ. Một dự án thoả mãn những điều kiện nhất định sẽ được cấp giấy phép đầu tư
theo quy trình đăng ký cấp giấy phép đầu tư, theo đó thủ tục cấp giấy phép đầu tư
được đơn giản hoá rất nhiều so với các dự ản khác. Thời hạn cấp giấy phép đầu tư
trong trường hợp này là 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Việc áp dụng
thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư thể hiện sự đổi mới rất tiến bộ của Luật Đầu tư
trong lần sửa đổi năm 2000, là bước tiến quan trọng trên lộ trình giảm bớt các rào
cản hành chính đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Nhà nước ta
còn tỏ ra quá thận trọng trong việc cải cách thủ tục cấp giấy phép đầu tư. Những dự
án được hưởng quy trình đăng ký cấp giấy phép đầu tư phải đáp ứng rất nhiều điều
khác nhau (Xem Đ. 105 NĐ 24/2000/ND-CP ngày 31/7/2000). Trên thực tế sẽ chỉ
có số ít các dự án được áp dụng quy trình cấp giấy phép đầu tư đơn giản này.
- Các biện pháp đảm bảo và khuyên khích đầu tư
Các biện pháp này chủ yếu là: (i) Quyền sở him của nhà đầu tư nước ngồi
được tơn trọng và bảo đảm. Nhà nước Việt nam đảm bảo khơng quốc hữu hố vốn
và tài sản hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngồi; (ii) Nhà đầu tư nước ngồi có
17
quyền chuyển vốn, tài sản và thu nhập hợp pháp ra nước ngoài sau khi đã thực hiện
các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước Việt nam; (iii) Cơng nhận quyền tự do kinh
doanh và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác khi tiến hành hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam; (iv) Các tranh chấp phát sinh giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
các đối tác Việt nam trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hồ
giải. Trường hợp các bên khơng tự giải quyết được thì vụ tranh chấp được đưa ra
các cơ quan tài phán (toà án hoặc trọng tài) do các bên thoả thuận; (v) Trường hợp
do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của các
bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi đã được cấp giấy phép, thì Nhà nước Việt nam có biện pháp giải quyết thoả
đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư.
Các biện pháp nêu trên nhằm mục đích trực tiếp là tăng tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư, đảm bảo giành ưu thế trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Ngoài những ưu đãi chung cho đầu tư nước ngoài (so với đầu tư trong nước),
Luật đầu tư còn quy định những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào những địa
bàn, lĩnh vực nhất định phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước (ví dụ
ưu đãi đặc biệt cho những dự án đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó
khăn, đầu tư vào các ngành mũi nhọn, sử dụng nhiều lao động, xây dựng cơ sở hạ
tầng...)Nhóm biện pháp ưu đãi chủ yếu và hiệu quả nhất được sử dụng là ưu đãi về
tài chính. So với nhiều nước, chính sách thuế đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam tỏ ra ưu đãi hơn. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi thậm chí còn thấp hơn so
với mức thuế suất đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước.
Như vậy, có thể thấy các bảo đảm và ưu đãi dành cho các nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt là các ưu đãi về tài chính, ở nhiều khía cạnh đã theo kịp các nước
trong khu vực. Tuy nhiên trước tình hình cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài ngày
càng quyết liệt, cùng với những yêu cầu của việc tham gia AIA, các biện pháp bảo
đảm và ưu đãi đầu tư nước ngồi của Việt Nam cịn bộc lộ những bất cập nhất định.
Chẳng hạn như các quy định ưu đãi hơn về thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài dành cho người việt Nam định cư ở nước ngồi đầu
tư về nước là khơng phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia của AIA. Theo Luật
Đầu tư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của
Luật này được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại,
trừ trường hợp áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%. Ngoài ra,
vấn đề giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Nhà nước Việt Nam
cũng chưa được quy định một cách rõ ràng và thoả đáng, mặc dù trong các Hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam với các nước khác có đề cập tới
18