BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
PGS. TS NGUYỄN VĂN HUYÊN
HÀ NỘI 2011
1
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
HTND:
Hội thẩm nhân dân
TA:
Tịa án
TAND:
Tịa án nhân dân
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự
5
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
5
1.1.2. Đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
8
1.1.3. Ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
12
1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
15
1.2.1. Các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
15
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
18
Kết luận chƣơng 1
32
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003
VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ
34
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS 2003 về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
34
2.1.1. Những kết quả đạt được trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 34
2.1.2. Những vướng mắc, tồn tại trong áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
37
2.1.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong áp dụng các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
57
2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
60
2.2.1. Giải pháp hồn thiện pháp luật
60
2.2.2. Các giải pháp khác
Kết luận chương 2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
64
66
68
70
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử là một hoạt động Nhà nước đặc biệt do Toà án thực hiện nhằm giải quyết
các vụ án trong đó có các vụ án hình sự. Quá trình giải quyết một vụ án hình sự cụ thể
phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó xét xử sơ thẩm là giai đoạn quan trọng
bởi lẽ “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 72 Hiến pháp năm 1992). Bất cứ một cơng việc
gì để có sự thành cơng đều cần phải được chuẩn bị, công việc xét xử cũng không ngoại
lệ. Để có một phiên tồ hình sự sơ thẩm với một bản án đúng đắn, có sức thuyết phục
Tồ án phải tiến hành những công việc chuẩn bị xét xử từ nghiên cứu hồ sơ, ra các
quyết định, lên kế hoạch xét xử, dự thảo bản án, tiến hành triệu tập, làm các thủ tục tố
tụng cần thiết, chuẩn bị điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho phiên xử….Một phiên
tồ có thành cơng hay khơng phụ thuộc nhiều ở công việc chuẩn bị nhưng công việc
chuẩn bị xét xử vụ án hình sự sơ thẩm khơng giống với chuẩn bị những cơng việc khác
mà địi hỏi phải tuân theo trình tự mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Vì nhiều lý do
mà có khơng ít vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Toà án đã phát hiện là chưa đủ
các điều kiện để đưa ra xét xử nên Toà án đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ
sung hoặc tạm đình chỉ vụ án, cũng có nhiều trường hợp khơng cần thiết phải đưa ra
xét xử nên vụ án đã bị đình chỉ. Trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm
những năm gần đây Tồ án nhân dân các cấp đã nhận thức rõ tầm quan trọng của giai
đoạn chuẩn bị xét xử nên đã đảm bảo các điều kiện cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Tuy nhiên một thực tiễn không thể phủ nhận là tình trạng oan, sai vẫn cịn, việc Tồ án
trả hồ sơ điều tra bổ sung thiếu căn cứ, trả nhiều lần, vi phạm thời hạn xét xử còn tồn
tại, đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án cịn nhiều bất cập. Những tồn tại này cũng đã được
đề cập trong báo cáo của ngành Toà án qua nhiều năm và cũng là vấn đề mà các nhà
lập pháp và nghiên cứu quan tâm.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định các vấn đề về thời hạn xét xử, áp
dụng thay đổi huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, các quyết định của Thẩm phán trong thời
hạn chuẩn bị xét xử, các công việc khác phục vụ cho việc mở phiên tồ. Tuy nhiên
những quy định đó cịn có chỗ chưa đầy đủ, rõ ràng; Thẩm phán còn xem nhẹ khâu
2
chuẩn bị xét xử nên nghiên cứu hồ sơ qua loa, chuẩn bị đại khái. Để nâng cao nhận
thức của những người làm công tác xét xử đối với chuẩn bị xét xử, đồng thời có những
kiến nghị để hồn thiện pháp luật tố tụng về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
việc nghiên cứu để làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự” là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có nhiều cơng trình nghiên cứu về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự nói
chung và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng ở phạm vi và mức độ nghiên
cứu khác nhau. Cơng trình nghiên cứu mang tính đại cương có “Giáo trình kỹ năng
giải quyết các vụ án hình sự”(Học viện tư pháp);“Giáo trình tố tụng hình sự” (Trường
Đại học luật Hà Nội); “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
(Đinh Văn Quế, NXB Chính trị Quốc Gia ấn hành năm 2001); cơng trình nghiên cứu
chun sâu đi vào một nội dung có: “Trả Hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình
sự Việt Nam” (Luận văn thạc sỹ luật học Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2010 của
Nguyễn Đức Hạnh). Ngồi ra cịn có nhiều bài báo được đăng tải trên các tạp chí
chuyên ngành như bài của tác giả Đinh Văn Quế:“Toà án cấp sơ thẩm áp dụng, thay
đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử” (Tạp chí Tồ án
số 6 năm 1999), “Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, những vấn đề lý luận và thực
tiễn” (Tạp chí Tồ án số 14 năm 2006), “Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ, đình
chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” (Tạp chí Tồ án số 17 năm 2006); tác giả Vũ
Gia Lâm có bài “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự” (Tạp chí Tồ án số 13 năm 2009 ). Trên Tạp chí Luật học số 7 năm 2009 tác
giả Hoàng Thị Minh Sơn có bài “Một số quy định của BLTTHS về quyết định của Toà
án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng”… Mặc dù có khá nhiều cơng
trình nghiên cứu, sách và các bài viết đề cập đến chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có giá trị về lý luận cũng như thực tiễn nhưng các tác giả chỉ nghiên cứu từng vấn đề
trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, có cơng trình tập trung nghiên cứu các
vấn đề về lý luận, có cơng trình lại đi vào các vấn đề về thực tiễn mà chưa nghiên cứu
một cách toàn diện, đầy đủ về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chính vì vậy việc
nghiên cứu tồn diện vấn đề này vẫn là cần thiết.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, các quy định của BLTTHS năm 2003 về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc áp dụng các quy định này tại các Toà án
cấp sơ thẩm ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm
2003 về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở quy định của pháp luật, tác
giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự tại Tồ án cấp sơ thẩm trong 6 năm từ năm 2005 đến năm 2010, tìm ra những bất
cập, nguyên nhân của những bất cập đó và đề ra giải pháp khắc phục.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là:
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự cũng như thực tiễn áp dụng những quy định này tác giả đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong thực tiễn.
Để thực hiện được mục đích đặt ra, luận văn cần hồn thành những nhiệm vụ
sau:
- Xác định khái niệm, đặc điểm của chuẩn bị xét xử vụ án hình sự.
- Làm rõ những quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, phát hiện những điểm hạn chế, bất hợp lý trong thực tiễn áp
dụng và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự và kiến nghị các giải pháp nâng cao hoạt động chuẩn bị xét xử
vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Để thực hiện đề tài, trong quá
trình nghiên cứu tác giả đã dùng phương pháp phân tích, tổng hợp để xây dựng khái
4
niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành; phương pháp lô gic đã được dùng để làm rõ các đặc điểm, ý nghĩa của
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngồi ra phương pháp thống kê, so sánh cũng
được dùng trong nghiên cứu để làm rõ thực trạng áp dụng các quy định về chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự từ đó rút ra được những bất cập, tìm ra ngun nhân và
hướng khắc phục.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu chun sâu về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong đó tác giả đã xây dựng khái niệm khoa học pháp lý về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Luận văn phân tích, đánh giá một cách khoa học các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Luận văn
đưa ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật
về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự và nguyên nhân của những bất cập, đặc biệt là nguyên
nhân xuất phát từ những điểm bất hợp lý cần được hoàn thiện của BLTTHS 2003 về
vấn đề này.
Luận văn đề xuất một số giải pháp để khắc phục các bất cập trong trong quy
định của pháp luật và vướng mắc trong thực tiễn thi hành nhằm nâng cao hiệu quả của
khâu chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu thực tế và định hướng cải
cách tư pháp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn
được chia thành hai chương.
5
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một quá trình trong đó Tồ án tiến hành
các cơng việc chuẩn bị giải quyết vụ án, ra các quyết định tố tụng theo quy định của
pháp luật. Ngay sau khi nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát, người nhận hồ sơ ở Toà án
phải thực hiện việc đối chiếu bản kê tài liệu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và
kiểm tra việc giao bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã được thực hiện chưa. Nếu các tài
liệu có trong hồ sơ đầy đủ so với bản kê tài liệu và VKS cũng đã thực hiện việc giao
cáo trạng cho bị can thì Tồ án nhận hồ sơ và tiến hành thụ lý vụ án. Trên cơ sở nghiên
cứu hồ sơ vụ án Toà án áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đồng thời
tiến hành giải quyết vụ án bằng việc Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ đưa
vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm. Trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử
thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án. Nếu vụ án được đưa ra xét xử thì cơng việc chuẩn bị cho
phiên tồ được tiến hành bao gồm: lập lịch xét xử, ban hành và giao quyết định đưa vụ
án ra xét xử, giao giấy triệu tập cho những người tham gia tố tụng, mời người bào chữa,
chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác. Tồn bộ những cơng việc nêu trên được thực
hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Vậy thế nào là chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự ?
Tham khảo Bộ luật tố tụng hình sự của Hàn Quốc thì chuẩn bị xét xử được quy
định tại Chương III, Mục I, theo đó thì chuẩn bị xét xử vụ án hình sự bao gồm việc gửi
bản cáo trạng, ấn định ngày xét xử, gửi giấy triệu tập, thay đổi ngày xét xử theo yêu
cầu của công tố viên, của bị can, người bào chữa, điều tra chứng cứ trước ngày xét xử
công khai. Theo Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản tại Chương III, phần I, đã quy
định về chuẩn bị xét xử từ Điều 271 đến Điều 281 với các công việc cụ thể như gửi
quyết định truy tố kèm theo bản sao bản cáo trạng, thông báo cho bị cáo về quyền lựa
chọn luật sư bào chữa và quyền đề nghị Toà án chỉ định luật sư bào chữa cho mình nếu
họ khơng thể lựa chọn luật sư bào chữa. Chuẩn bị xét xử vụ án hình sự cịn bao gồm
6
việc Thẩm phán chủ toạ phiên toà ấn định ngày xét xử, triệu tập bị cáo đến phiên toà,
thay đổi ngày xét xử, áp dụng các biện pháp liên quan đến giam giữ, ngồi ra Tồ án
cịn có thể thẩm vấn người làm chứng vào những ngày khác với ngày đã ấn định để xét
xử nếu thấy cần thiết. Khác với luật tố tụng của Hàn Quốc và Nhật Bản, Bộ luật tố tụng
hình sự của Trung Quốc lại phân biệt hai thủ tục xét xử sơ thẩm áp dụng cho hai loại
vụ án hình sự khác nhau là vụ án cơng tố (do VKS áp dụng trình tự cơng tố để truy tố)
và vụ án tư tố (do người bị hại sử dụng trình tự tư tố để đưa tội phạm ra trước Tồ). Đối
với các vụ án cơng tố trước khi mở phiên toà Thẩm phán được chỉ định tiến hành thủ
tục thẩm tra, đây là thủ tục nhằm đảm bảo cho việc mở phiên xét xử có đầy đủ căn cứ
pháp lý. Căn cứ vào kết quả thẩm tra Toà án ra một trong các quyết định: quyết định
thụ lý vụ án, quyết định không thụ lý vụ án, quyết định trả lại vụ án cho VKS, yêu cầu
VKS bổ sung tài liệu trong vòng ba ngày trong một số trường hợp nhất định. Đối với
vụ án tư tố thì sau khi nhận được tố cáo Tồ án phải tiến hành thẩm tra, trong thời hạn
15 ngày kể từ sau ngày nhận đơn Toà án phải ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
và thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện. Toà án thụ lý vụ án tư tố nếu có đủ các
điều kiện về chủ thể, hình thức khởi kiện, thuộc loại án xét xử theo trình tự tư tố, thuộc
thẩm quyền xét xử của Tồ án đó, có bị cáo rõ ràng, yêu cầu tố tụng cụ thể và chứng cứ
có thể chứng minh sự phạm tội của bị cáo. Trường hợp qua thẩm tra phát hiện có một
trong những tình tiết không phù hợp với các điều kiện thụ lý, tội phạm đã hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự hay bị cáo đã chết, không rõ người bị hại là ai, người khởi
kiện đã rút đơn kiện sau đó lại kiện lại hay vụ việc đã được hoà giải, thì Tồ án thuyết
phục người tố cáo rút lại việc kiện, nếu người tố cáo khơng chấp nhận Tồ án ra quyết
định bác bỏ việc khởi tố. Ngoài ra Toà án cịn tiến hành thủ tục hồ giải, nếu việc hồ
giải khơng đạt kết quả thì Tồ án phải tiến hành xét xử. Mỗi nước có những quy định
riêng về chuẩn bị xét xử vụ án hình sự và đều khơng có khái niệm về vấn đề này.
Ở Việt Nam chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại Chương 17
từ Điều 176 đến Điều 183 nhưng cũng khơng có điều nào quy định thế nào là chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Xét về phương diện ngơn ngữ học thì “chuẩn bị là làm
cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì” [43,tr175],“xét xử” là “xem xét và xử các vụ
án” [43,tr1108], sơ thẩm là “xét xử một vụ án lần thứ nhất” [43,tr 868]. Dưới góc độ
7
pháp lý thì “xét xử sơ thẩm” là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử ở một Toà án có thẩm
quyền. Bản án, quyết định của Tồ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm. Nếu không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định
thì có hiệu lực thi hành [6,tr 870]. Việc xét xử sơ thẩm hiện nay được tiến hành tại Toà
án cấp huyện, cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Toà án quân sự cấp quân khu và tương
đương. Trong tương lai có thể được xét xử tại Toà án cấp khu vực. Khi xét xử sơ thẩm
Toà án xem xét và giải quyết mọi vấn đề của vụ án bằng việc ra bản án hoặc quyết
định. Hội đồng xét xử sơ thẩm có Hội thẩm nhân dân tham gia.
Về khái niệm vụ án hình sự: trước đây pháp luật chỉ quy định việc hình và việc
hộ để phân biệt giữa vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hình sự và trong lĩnh vực dân sự.
Tại Sắc lệnh số 13 –SL ngày 24/01/1946 về Tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán
đã quy định việc tiểu hình (Điều thứ 17 tại Mục B) và việc đại hình (tại Điều 28 Mục
C). Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong phần quy
định về Cơ quan tư pháp tại Chương VI Điều 65 thuật ngữ “việc hình” vẫn được sử
dụng. Trong các sắc lệnh ban hành sau đó điển hình như Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950
về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng bên cạnh thuật ngữ việc hình các nhà làm
luật đã sử dụng thuật ngữ “việc phạm pháp” trong hình sự (Điều 16). Thuật ngữ “Vụ
án” được pháp điển hoá vào năm 1959 khi bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà được ban hành ngày 31/12/1959. Trên cơ sở Điều 97 Hiến pháp
1959, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 tại Điều 1 thuộc Chương 1 quy định
“…Toà án nhân dân xét xử những vụ án hình sự và dân sự để trừng trị những kẻ phạm
tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân”. Ngày 09/7/1988
BLTTHS đầu tiên của Việt Nam được ban hành quy định trình tự, thủ tục tiến hành các
hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng và của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công
dân, nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội (Điều 1 BLTTHS 1988).
Như vậy khái niệm vụ án hình sự lần đầu tiên được pháp điển hoá thể hiện trong Hiến
pháp năm 1959, được sử dụng thống nhất cho đến nay trải qua hai lần ban hành hiến
8
pháp (Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992), hai lần ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
(năm 1988 và năm 2003) thuật ngữ vụ án hình sự được sử dụng rộng rãi, thơng dụng và
khơng có sự tranh cãi. Mặc dù chưa có định nghĩa thế nào là vụ án hình sự nhưng cũng
có thể hiểu “Vụ án hình sự” là “vụ việc phạm pháp có dấu hiệu tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự đã được Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố về hình sự để tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục được Bộ luật tố tụng hình sự quy
định” [43].
Dưới góc độ pháp lý thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc những
người tiến hành tố tụng: Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký, tiến hành các công việc cần thiết theo thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự
quy định để đưa vụ án hình sự ra xét xử ở cấp xét xử thứ nhất. Trong cuốn “Thủ tục
xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” tác giả Đinh Văn Quế cho rằng
“Chuẩn bị xét xử là việc tạo những điều kiện cần thiết để Toà án đưa vụ án ra xét xử
theo quy định của pháp luật”. Khái niệm này chỉ đề cập đến mục đích của chuẩn bị xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự mà không đề cập đến chủ thể, thời hạn và phạm vi chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự như sau: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động do những
người tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện từ khi Tồ án thụ lý vụ án cho đến
khi mở phiên toà, nhằm bảo đảm các điều kiện cần thiết để xét xử những bị cáo đã
bị Viện kiểm sát truy tố”.
1.1.2. Đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật là nguyên tắc hiến định và được quy định tại Điều 9
BLTTHS năm 2003. Điều này thể hiện tầm quan trọng của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự, cấp xét xử đầu tiên trong hai cấp xét xử ở Toà án các cấp. Để cho hoạt động
xét xử được đúng đắn không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo các
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, cơng việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là hết sức quan trọng có tính chất đặc thù khơng giống với sự chuẩn bị các công việc
thông thường khác với những đặc điểm cơ bản như sau:
9
* Là hoạt động tố tụng do những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực
hiện trong thời gian luật định..
Hoạt động tố tụng hình sự là những cơng việc được thực hiện theo những trình tự
được quy định bởi luật tố tụng hình sự. Người thực hiện hoạt động tố tụng được quy
định là người tiến hành tố tụng bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án,
Phó chánh án Tồ án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án. Chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là một khâu trong tố tụng bao gồm các hoạt động chủ yếu diễn
ra tại Toà án do vậy những người thực hiện công việc chuẩn bị xét xử là Chánh án, Phó
chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tồ án. Cơng việc đầu tiên đánh dấu
mốc thời hạn của chuẩn bị xét xử là từ khi Tồ án nhận hồ sơ vụ án hình sự do Viện
kiểm sát chuyển đến và vào sổ thụ lý hồ sơ đến thời điểm mở phiên toà (thời hạn chuẩn
bị xét xử được quy định khác nhau đối với mỗi loại tội). Khi tiến hành tiếp nhận hồ sơ,
người nhận phải đối chiếu với bản kê tài liệu, kiểm tra việc giao cáo trạng cho bị can đã
được thực hiện hay chưa, nếu trong vụ án có vật chứng kèm theo hồ sơ cần kiểm tra
xem có đúng và đủ như Biên bản bàn giao tang vật và Biên bản thu giữ tang vật hay
không, trường hợp tang vật, vật chứng khơng kèm hồ sơ thì cần kiểm tra xem đã có
biên bản giao nhận giữa Cơ quan điều tra và Cục hay Chi cục thi hành án hoặc đã có
các loại giấy tờ chứng minh có liên quan đến vật chứng ấy không. Trường hợp chưa
đầy đủ các điều kiện trên thì hồ sơ được trả lại cho Viện kiểm sát hồn thiện tiếp,
trường hợp đã đủ thì tiến hành thụ lý. Hồ sơ sau khi được thụ lý được chuyển cho
Chánh án hoặc Phó chánh án phụ trách hình sự phân cơng Thẩm phán làm chủ toạ
phiên tồ, Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử (nếu Hội đồng có năm người), Hội
thẩm nhân dân và Thư ký tiến hành tố tụng đối với vụ án. Trong các trường hợp cần
thiết Chánh án, Phó chánh án có thể phân công Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư
ký dự khuyết. Các thành viên của Hội đồng xét xử nghiên cứu hồ sơ vụ án, trên cơ sở
nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên tồ có thể áp dụng, thay
thế, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử luật
định Thẩm phán phải ra một trong các quyết định như: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Trong giai đoạn này Thẩm phán được
10
phân cơng làm chủ toạ phiên tồ cịn có nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, yêu
cầu của người tham gia tố tụng. Cũng trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên toà đề nghị Chánh án Toà án ra quyết định huỷ bỏ, áp
dụng, thay đổi biện pháp tạm giam, gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử, thay đổi người
tiến hành tố tụng, chuyển vụ án. Trong trường hợp Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra
xét xử thì căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng vụ án cụ thể, Thẩm phán đề xuất với
Chánh án cử HTND tham gia xét xử phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực và
kinh nghiệm xét xử của Hội thẩm đồng thời đảm bảo tính hợp pháp của Hội đồng xét
xử (Hội đồng năm người, Hội đồng có hội thẩm là giáo viên, người làm cơng tác đồn
tham gia). Hội thẩm nhân dân tiến hành nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc xét xử,
được cung cấp những văn bản, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Thẩm
phán cùng HTND cùng xây dựng và trao đổi về kế hoạch xét hỏi tại phiên toà để có sự
phối hợp thống nhất trong q trình xét hỏi tại phiên tồ. Thư ký được phân cơng giải
quyết án hình sự là người giúp việc cho Thẩm phán, thực hiện các yêu cầu của Thẩm
phán trong quá trình giải quyết vụ án, quản lý hồ sơ vụ án, soạn thảo các quyết định tố
tụng, giao nhận các giấy tờ theo thủ tục tố tụng, chuẩn bị các công việc cần thiết khác
để đưa vụ án ra xét xử nếu Thẩm phán được phân công chủ toạ ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Trong quá trình tiến hành tố tụng những người tiến hành tố tụng phải nghiêm
chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành
vi, quyết định của mình, nếu làm trái pháp luật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự để kiểm tra các điều kiện cần thiết cho
việc xét xử vụ án.
Trong vụ án hình sự trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng do vậy cần phải xác định sự thật khách quan của vụ án để làm rõ chứng cứ
buộc tội và gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét xử là giai
đoạn trung tâm quyết định quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi khởi tố, truy tố để
đưa ra xét xử. Một người bị coi là có tội hay khơng phụ thuộc hồn tồn vào giai đoạn
xét xử mà xét xử sơ thẩm là cấp đầu tiên, do vậy chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có tính chất đặc thù kiểm tra các điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử, xem xét
11
đánh giá chứng cứ, các yếu tố cấu thành tội phạm từ đó có thể đưa đến quyết định
khơng xét xử (đình chỉ vụ án) nếu khơng đủ các điều kiện cần thiết, chưa xét xử (tạm
đình chỉ vụ án), trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu chưa đủ các điều kiện cần thiết. Trên
cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết án xác định được
vụ án có thuộc thẩm quyền của Tồ án cấp mình hay khơng, vụ án có cần tách, nhập
không; Các thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố đã đúng, đủ theo quy định của pháp
luật chưa, dựa trên nhân thân của bị cáo, tính chất hành vi có cần áp dụng, thay đổi hay
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn hay không; Hành vi của bị can có đủ dấu hiệu cấu thành
tội phạm khơng, nếu đủ thì cấu thành tội gì, tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát
đã truy tố có phù hợp không... Dựa vào kết quả nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử Thẩm phán có căn cứ để đưa ra các quyết định phù hợp.
* Chuẩn bị xét xử sơ thẩm làm rõ vụ án có thuộc giới hạn xét xử của Toà án cấp
sơ thẩm hay khơng.
“Phạm vi xét xử của Tồ án cấp sơ thẩm bị giới hạn trong phạm vi truy tố”
[10,tr111] do vậy chuẩn bị xét xử sơ thẩm cũng phải làm rõ phạm vi truy tố đã đúng và
đủ chưa, có thể xét xử được khơng. Trong q trình chuẩn bị xét xử Toà án tiến hành
các hoạt động tố tụng phục vụ cho việc đưa vụ án ra xét xử người và theo tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố. Nếu trong q trình này có căn cứ cho rằng bị can phạm một
tội khác (nặng hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố) hoặc có đồng phạm khác thì Tồ án sẽ
khơng đưa vụ án ra xét xử mà trả hồ sơ để điều tra bổ sung. “Trường hợp Viện kiểm sát
không thay đổi cáo trạng theo tội danh nặng hơn, Toà án phải xét xử theo tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố” [40]. Như vậy Tồ án khơng được xét xử những người và
những hành vi chưa bị Viện kiểm sát truy tố và không được xét xử bị cáo theo tội danh
nặng hơn tội danh mà VKS truy tố nhưng Tồ án có thể xét xử bị cáo về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, xét xử theo khoản khác nặng hơn
hoặc nhẹ hơn khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật. Trong giới hạn xét xử
của Tồ án cơng việc chuẩn bị xét xử hướng đến việc đưa bị cáo ra xét xử theo đúng tội
danh, khoản mà VKS truy tố, theo đúng tội danh nhưng khác khoản VKS truy tố, hoặc
theo tội khác nhưng bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố.
12
* Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt
động tố tụng khác.
Quá trình tố tụng của một vụ án hình sự là sự tiếp nối từ khởi tố, điều tra đến truy
tố rồi xét xử. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong xét xử là “Thực hiện chế độ hai
cấp xét xử”, khoản 1 Điều 20 BLTTHS quy định “Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét
xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tồ án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm… ”. Như
vậy có thể thấy rằng giai đoạn xét xử sơ thẩm là sự tiếp nối của giai đoạn điều tra, truy
tố và nó có liên hệ mật thiết với các giai đoạn sau đó. Trong xét xử sơ thẩm hoạt động
chuẩn bị xét xử sơ thẩm là những hoạt động tố tụng đầu tiên của cấp xét xử thứ nhất:
thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ để đi đến một trong các quyết định quan trọng Quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Các công việc được thực hiện sau khi có Quyết định đưa vụ
án ra xét xử như giao quyết định cho những người tham gia tố tụng và triệu tập họ đến
phiên toà, chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất… đều phục vụ cho hoạt động tố tụng
trọng tâm đó là phiên tồ hình sự sơ thẩm. Phiên toà sơ thẩm là kết thúc của quá trình
chuẩn bị xét xử, việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tốt sẽ đảm bảo cho phiên
tồ sơ thẩm thành cơng, ngược lại sự chuẩn bị không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng phiên tồ thậm chí phải hỗn phiên tồ do nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa đầy
đủ, triệu tập thiếu người tham gia tố tụng, do không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về
cơ sở vật chất như âm thanh, ánh sáng, địa điểm chật hẹp….
1.1.3. Ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Ý nghĩa chính trị: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần đáp ứng
những u cầu của Nhà nước pháp quyền đó là vấn đề dân chủ và tổ chức quyền lực
nhà nước. Cụ thể là phải tạo dựng được ý thức tuân thủ pháp luật của công dân, xác
định đúng đắn trách nhiệm của Nhà nước với công dân và công dân với nhà nước, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, đảm bảo tính hợp hiến của tồn bộ hệ
thống pháp luật. Một trong những hình thức thực hiện quyền lực nhà nước quan trọng
là đảm bảo quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tồ án trong
13
hoạt động của mình đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân vì hơn bất kỳ
một dạng hoạt động nào của Nhà nước, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc
bản chất của Nhà nước, sai lầm của Toà án trong việc giải quyết vụ án chính là sai lầm
của Nhà nước. Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Thẩm phán được
phân cơng chủ toạ phiên tồ phải xem xét, giải quyết các yêu cầu, khiếu nại của những
người tham gia tố tụng về việc điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, điều tra
không đầy đủ, đề nghị cho bị can tại ngoại, đề nghị giám định lại hoặc giám định bổ
sung, xem xét áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn kịp thời, đề nghị thay
đổi những người tiến hành tố tụng … đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực
hiện các quyền mà pháp luật quy định cho họ được hưởng theo nguyên tắc “Tôn trọng
và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”, “Đảm bảo quyền bình đẳng của mọi cơng
dân trước pháp luật”, “Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo”.
Về tính hợp pháp, hợp hiến: Trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tồ án
kiểm tra các điều kiện đảm bảo cho vụ án được xét xử đúng quy định của pháp luật,
nếu phát hiện vụ án chưa đủ các điều kiện xét xử, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, ảnh hưởng tới
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, Tồ án có quyền trả hồ sơ cho
VKS yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật đó hoặc tự mình khắc phục, sửa chữa sai
lầm đó trong quyền hạn luật định. Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo đúng quy định của BLTTHS.
Người tiến hành tố tụng phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình.
Trường hợp làm trái quy định của pháp luật thì phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Ý nghĩa pháp lý: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nhằm đảm bảo các điều
kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử. Qua khâu chuẩn bị xét xử các Cơ quan tiến hành
tố tụng xem xét lại các quyết định của mình trên cơ sở các quyết định của Cơ quan tiến
hành tố tụng khác. Khi Toà án ra các quyết định trong thời gian chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự có liên quan đến các Cơ quan tiến hành tố tụng khác thì Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra phải kiểm tra lại tính có căn cứ của các quyết định mà cơ quan
mình đã ban hành trước đó. Nếu trong giai đoạn này Toà án phát hiện vụ án chưa đủ
14
các chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên toà được nên trả hồ sơ điều tra
bổ sung thì VKS và Cơ quan điều tra phải xem xét để bổ sung theo yêu cầu của Toà án,
nhằm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Toà án cũng được trả hồ sơ
để điều tra bổ sung nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, quy định
này đã tạo cơ sở pháp lý để cơ quan điều tra, VKS sửa chữa vi phạm, khắc phục hậu
quả do những vi phạm gây ra.
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự giúp Thẩm phán xác định chính xác thẩm
quyền xét xử tránh được tình trạng xét xử sai thẩm quyền và tranh chấp về thẩm quyền
xét xử. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền thì bắt buộc Tồ án đã thụ lý vụ án phải
chuyển cho Tồ án có thẩm quyền giải quyết, chỉ được chuyển vụ án cho Toà án khác
khi vụ án chưa được xét xử. Trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án quân sự
hoặc Toà án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tồ án có
thẩm quyền. Chuẩn bị xét xử còn giúp Thẩm phán hiểu và nắm vững bản chất, diễn
biến của vụ án từ đó xác định được sự thật của vụ án để đánh giá việc truy tố của VKS
là có căn cứ hay khơng. Trong q trình chuẩn bị xét xử Thẩm phán xem xét hồn
cảnh, nhân thân, tính chất, mức độ của hành vi mà bị can thực hiện để áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ, biện pháp ngăn chặn; xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết
định tội, tình tiết định khung để xác định VKS truy tố có phù hợp với tính chất, mức độ
hành vi phạm tội của bị can hay không, tội danh đã phù hợp chưa….Trên cơ sở đó ra
những quyết định phù hợp. Các quyết định của Toà án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là căn cứ pháp lý để dừng, tạm dừng việc giải quyết vụ án hay đưa vụ án
ra xét xử. Khi đã quyết định đưa vụ án ra xét xử việc chuẩn bị xét xử giúp cho Thẩm
phán chủ động trong xét xử tại phiên toà do đã dự kiến được các vấn đề cần phải làm
sáng tỏ, dự liệu được các tình huống có thể xảy ra và hướng giải quyết các vấn đề khó
khăn đó. Ngồi ra chuẩn bị xét xử cũng giúp cho Thẩm phán có định hướng trong vấn
đề giải quyết vật chứng, xử lý vấn đề bồi thường. Bằng cách đó chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự góp phần thực hiện các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự:
nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự; ngun tắc tơn trọng và bảo đảm
các quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc xác định sự thật của vụ án…
15
Ý nghĩa xã hội: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần đảm bảo cơng
bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tồ án, góp phần
đảm bảo uy tín của Cơ quan tư pháp nói chung và Tồ án nói riêng. Việc pháp luật quy
định Thẩm phán trong thời hạn chuẩn bị xét xử có nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại và
yêu cầu của những người tham gia tố tụng đồng nghĩa với việc những người tham gia
tố tụng trong thời gian chuẩn bị xét xử có quyền đưa ra các yêu cầu, khiếu nại về thủ
tục tố tụng, đưa ra các đề nghị liên quan đến quyền lợi của bản thân hoặc của người
thân thích và nhận được kết quả giải quyết. Đây cũng là thời gian để những người tham
gia tố tụng chuẩn bị tâm lý tham gia phiên tồ, sắp xếp thời gian, cơng việc để có mặt
tại phiên tồ theo giấy triệu tập, mời luật sư để bào chữa hay bảo vệ quyền lợi ích của
mình hoặc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tự bào chữa, tự bảo vệ quyền lợi của bản
thân. Thời gian chuẩn bị xét xử giúp người tham gia tố tụng không bị bất ngờ khi vụ
án được đưa ra xét xử và nhất là kết quả của việc xét xử là việc Toà án ra một bản án
trong đó các phán quyết ít nhiều đều có liên quan đến họ. Giải quyết những yêu cầu, đề
nghị của những người tham gia tố tụng là đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân, tạo lòng tin cho nhân dân vào hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
nói chung, Tồ án nói riêng, là yếu tố góp phần giúp các quy định của pháp luật được
thực hiện một cách nghiêm túc đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cơng
dân.
1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Từ năm 1945 đến năm 1988, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật
tố tụng hình nói riêng trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam vào ngày 2/9/1945, ngày 13/9/1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 33C “Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự” theo
đó “sẽ lập một tồ án qn sự ở Bắc Bộ: tại Hà Nội, Hải Phịng, Thái Ngun, Ninh
Bình; ở Trung bộ: tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ: tại Sài Gòn, Mỹ Tho” là cơ
quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 09 tháng 11 năm 1946 Quốc
16
hội khố 1 đã thơng qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
đây là bản Hiến pháp đánh dấu bước phát triển trong lịch sử lập pháp nước nhà. Sau khi
Hiến pháp 1946 được thông qua, nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản mới
trong đó có văn bản quy định về tổ chức Toà án như Sắc lệnh 19 ngày 16/02/1947, Sắc
lệnh 45 ngày 25/4/1947, Sắc lệnh 170 ngày 14/4/1948, Thông tư 314 ngày 19 tháng 7
năm 1957 của Thủ tướng chính phủ về kiện tồn cơ quan tư pháp, Sắc lệnh 85 ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và tố tụng quy định các vấn đề về tổ chức Toà
án, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp….Tuy nhiên vấn đề chuẩn bị xét xử vụ án
hình sự nói chung và hình sự sơ thẩm nói riêng hầu như khơng có văn bản nào quy
định.
Từ năm 1959 đến năm 1988: Hiến pháp 1959 được ban hành, trên cơ sở đó năm
1960 Luật tổ chức tồ án nhân dân cũng ra đời đánh dấu bước chuyển mới của lịch sử
lập pháp nước nhà, nhưng giai đoạn này các vấn đề tố tụng liên quan đến chuẩn bị xét
xử cũng chưa được coi trọng. Năm 1988 BLTTHS đầu tiên được thơng qua thì chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mới được quy định chi tiết.
Tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chuẩn bị xét xử vụ án hình sự sơ thẩm được
quy định thành một chương riêng, chương XVI cụ thể như sau:
Về thời hạn chuẩn bị xét xử: theo khoản 2 Điều 151 BLTTHS 1988 thời hạn xét
xử đối với tội ít nghiêm trọng là bốn lăm ngày, đối với tội nghiêm trọng là ba tháng kể
từ ngày nhận hồ sơ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp Chánh án Toà án có thể quyết
định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá ba mươi ngày. Sau khi đã có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, phải mở phiên toà trong thời hạn mười lăm ngày; trong
trường hợp có lý do chính đáng thì có thể mở phiên toà trong thời hạn là ba mươi ngày.
Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi
nhận lại hồ sơ, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử….Quy định của
BLTTHS năm 1988 chỉ phù hợp với khái niệm tội phạm tại Điều 8 BLHS năm 1985,
theo Điều luật này thì tội phạm được chia thành hai loại: tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm ít nghiêm trọng. Đến năm 1999 BLHS mới ra đời trong đó tội phạm được chia
làm bốn loại là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử như tại
17
Điều 151 BLTTHS năm 1988 đã khơng cịn phù hợp, gây khó khăn trong tính thời hạn
xét xử đối với các loại tội theo quy định của BLHS 1999 và đối với vấn đề áp dụng
biện pháp ngăn chặn là tạm giam vì “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được
quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điều 151 của Bộ luật này” (Điều 152
BLTTHS 1988). Do vậy đến ngày 9/6/2000 Điều 151 đã được sửa đổi theo hướng quy
định thời hạn xét xử đối với bốn loại tội cho phù hợp với BLHS năm 1999 và quy định
này về thời hạn không thay đổi khi BLTTHS năm 2003 được ban hành.
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán phải ra một trong các quyết định: đưa
vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ vụ án. Căn
cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định tương đối cụ thể, đầy đủ tại Điều 154
của Bộ luật và không thay đổi khi ban hành BLTTHS năm 2003. Căn cứ đình chỉ, tạm
đình chỉ vụ án được quy định tại Điều 155 của BLTTHS năm 1988 với nội
dung:“Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại điều
135; ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại các điểm
3,4,5,6,7 điều 89 Bộ luật này”. Các căn cứ đình chỉ như quy định trên cịn chưa đầy đủ,
không thống nhất trong mối quan hệ với Điều 88 và Điều 156 trong Bộ luật này nên đã
gây ra tranh cãi, và có sự áp dụng khơng thống nhất khi giải quyết các vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng trước khi mở phiên toà người bị hại rút yêu cầu
khởi tố (Điều 88) hay trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở
phiên toà (Điều 156) .
Việc giao các quyết định, văn bản tố tụng của Toà án trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử được quy định tại Điều 157 của BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên điều luật chỉ
quy định việc giao các quyết định, việc gửi giấy báo của Toà án cho những người tham
gia tố tụng như bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, người bào chữa những
người tham gia tố tụng khác mà khơng quy định Tồ án phải gửi những quyết định đó
cho VKS cùng cấp, cho trại giam nếu bị cáo đang bị tạm giam do vậy ảnh hưởng đến
việc thực hiện chức năng kiểm sát sự tuân theo pháp luật của VKS và công tác phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
18
Điều 158 BLTTHS 1988 quy định việc triệu tập những người cần xét hỏi đến
phiên tồ. Theo đó Thẩm phán căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử để triệu tập
họ đến xét hỏi tại phiên toà. Quy định này được giữ nguyên trong BLTTHS 2003.
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.2.2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại Điều 176
BLTTHS. “Đây là khoảng thời gian theo quy định của pháp luật để Toà án thực hiện
các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại
phiên toà sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao”. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn
chuẩn bị xét xử là từ khi thụ lý vụ án, trường hợp tạm đình chỉ vụ án thì khi lý do tạm
đình chỉ khơng cịn nữa thời hạn xét xử được tính lại kể từ ngày Tồ án tiếp tục giải
quyết vụ án. Thời điểm kết thúc thời hạn xét xử trong trường hợp đặc biệt như: Thẩm
phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ
án bị tạm đình chỉ, đình chỉ thì ngày ra quyết định là ngày kết thúc thời hạn chuẩn bị
xét xử [40]. Trong thời hạn này Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên tồ có nhiệm
vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố
tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên toà. Thời hạn chuẩn bị
xét xử bao gồm thời hạn để Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ ra các quyết
định cần thiết và thời hạn để mở phiên toà theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử:
- Thời hạn để Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ ra các quyết định
cần thiết phụ thuộc vào tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị can: Trong thời
hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội
phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ phải ra một
trong những quyết định sau: đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp thời hạn có thể được Chánh án
Tồ án quyết định gia hạn. Vụ án phức tạp là vụ án thuộc một trong các trường hợp: có
nhiều bị can, phạm tội có tổ chức hoặc phạm nhiều tội; liên quan đến nhiều lĩnh vực
hoặc nhiều địa phương; có nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm
19
thời gian để nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc để tham khảo ý
kiến của cơ quan chuyên môn [40]. Khi thời hạn chuẩn bị xét xử còn lại từ năm ngày
trở xuống mà Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ chưa ra được một trong các
quyết định như đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ vụ án do vụ án phức tạp thì Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên toà báo
cáo với Chánh án để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Việc gia hạn được
thông báo ngay cho VKS cùng cấp. Thời gian gia hạn đối với tội phạm ít nghiêm trọng
và nghiêm trọng tối đa là mười lăm ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng tối đa là ba mươi ngày. Trường hợp ngoại lệ là các vụ án được trả lại để
VKS điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ vụ án,
Thẩm phán được phân cơng chủ toạ phiên tồ phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử,
thời hạn này áp dụng chung cho cả bốn loại tội mà khơng có sự phân biệt, nghĩa là
khơng được tính lại từ đầu.
- Thời hạn mở phiên tồ kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét xử là mười
lăm ngày, trong trường hợp có lý do chính đáng thời hạn này là ba mươi ngày.
Như vậy thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa đối với tội ít nghiêm trọng là hai tháng
mười lăm ngày (30+15+30), đối với tội phạm nghiêm trọng là ba tháng (45+15+30),
tội rất nghiêm trọng là bốn tháng (60+30+30), tội đặc biệt nghiêm trọng là năm tháng
(90+30+30).
1.2.2.2. Những việc tiến hành sau khi thụ lý sơ thẩm vụ án hình sự
Sau khi thụ lý, hồ sơ vụ án được Chánh án hoặc Phó Chánh án Tồ án phân
cơng Thẩm phán giải quyết vụ án và phân công Thư ký toà án tiến hành tố tụng đối với
vụ án đó. BLTTHS khơng quy định việc phân cơng người tiến hành tố tụng tại giai
đoạn xét xử thực hiện bằng hình thức nào, do vậy có nhiều hình thức phân công như
bằng quyết định phân công, bằng miệng, bằng lịch xét xử, ghi tên người tiến hành tố
tụng vào bìa hồ sơ…Thẩm phán được phân công sau khi nhận hồ sơ phải tiến hành việc
nghiên cứu ngay để làm rõ cả về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án, xem xét, giải quyết
các khiếu nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần
thiết cho việc mở phiên toà. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán được phân công
chủ toạ phiên toà phải nghiên cứu đầy đủ toàn diện các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
20
một cách có hệ thống, trước hết nghiên cứu từng tài liệu riêng lẻ sau đó so sánh, tổng
hợp các tài liệu, chứng cứ khác để tìm ra mối liên hệ, sự phù hợp hoặc mâu thuẫn giữa
chúng. Khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ, Thẩm phán phải làm sáng tỏ các vấn đề sau: Vụ
án có thuộc thẩm quyền của Tồ án cấp mình hay khơng; có cần chuyển vụ án, tách
nhập vụ án không; cần thiết áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn nào đối
với bị cáo; hành vi của bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm không, tội danh và
điều khoản BLHS mà VKS truy tố có phù hợp khơng; có cần xử lý vật chứng hoặc áp
dụng biện pháp bảo đảm việc bồi thường trước khi xét xử không; có căn cứ để đưa vụ
án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án khơng…Khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán phải lưu ý các vấn đề sau: Trong số các bị can bị
truy tố có bị can nào bị truy tố về tội theo khung hình phạt cáo nhất là tử hình khơng ?
có thuộc trường hợp có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hay khơng ? Nếu thuộc một
trong các trường hợp này thì khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội đồng xét xử
phải gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân và cần bảo đảm quyền bào chữa cho
bị cáo bị truy tố về tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Trường hợp trong vụ án
có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội thì Hội đồng xét xử phải có người là giáo
viên hoặc làm cơng tác Đồn thanh niên và phải có người bào chữa; nếu bị can là người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì cần bảo đảm quyền bào chữa cho họ.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải ghi chép tóm tắt những
chứng cứ xác định có tội và khơng có tội; tổng hợp các chứng cứ về vụ án. Việc ghi
chép này giúp cho Thẩm phán nắm vững các tình tiết của vụ án, xác định đúng thành
phần cần triệu tập tham gia phiên toà, lập kế hoạch xét hỏi, dự thảo phần đầu bản án,
đồng thời dự liệu được các tình huống để chủ động trong q trình xét xử vụ án tại
phiên tồ. Thẩm phán phải xác định và đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ một cách
tồn diện, khách quan với tinh thần trách nhiệm cao.
1.2.2.3. Các quyết định của Toà án trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Trong thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải ra một trong các quyết
định, trong đó có quyết định nhằm bảo đảm cho việc xét xử đạt kết quả tốt như: Quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, Quyết định đưa vụ án ra xét
21
xử; có quyết định bảo đảm chứng cứ cho việc xét xử như: trả hồ sơ điều tra bổ sung; có
quyết định để tạm dừng giải quyết vụ án hoặc dừng hẳn việc giải quyết vụ án như: tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Khi ra các quyết định này phải tuân theo những quy định
của BLTTHS và quyết định được thể hiện dưới hình thức là một văn bản theo mẫu quy
định [17,tr 136].
*Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn những
hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp
luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
[12,tr201]. Do đó Điều 177 BLTTHS quy định sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán
được phân công chủ toạ phiên tồ có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ
bỏ biện pháp ngăn chặn, trừ việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam do
Chánh án hoặc Phó Chánh án Tồ án quyết định. Các biện pháp ngăn chặn được quy
định tại Điều 79 BLTTHS bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong các biện pháp ngăn chặn kể trên,
ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tồ án chỉ có thể áp dụng, thay đổi,
huỷ bỏ các biện pháp bắt, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm. Toà án áp dụng biện pháp ngăn chặn trong trường hợp bị can
chưa bị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát áp dụng bất kỳ một biện pháp ngăn chặn nào
hoặc đã bị áp dụng nhưng đến thời điểm Toà án thụ lý thì biện pháp đó đã bị huỷ bỏ.
Toà án thay đổi biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng là việc buộc bị can phải chịu
một trong các biện pháp ngăn chặn khác được quy định tại Điều 79 BLTTHS thay cho
biện pháp mà Cơ quan điều tra hay VKS đã áp dụng. Toà án huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn là trường hợp khi thụ lý hồ sơ vụ án bị can đang bị áp dụng một trong các biện
pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS nhưng thấy không cần thiết phải áp
dụng biện pháp ngăn chặn nữa. Toà án ra quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đang
áp dụng không buộc bị can phải chịu bất kỳ một biện pháp ngăn chặn nào.
Về biện pháp tạm giam: thẩm quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ thuộc về
Chánh án hoặc Phó chánh án tồ án vì vậy Thẩm phán sau khi nhận hồ sơ vụ án nếu
thấy có căn cứ tạm giam quy định tại Điều 88 BLTTHS phải báo cáo Chánh án hoặc
22
Phó chánh án để quyết định. Biện pháp này chỉ được áp dụng trong những trường hợp
như: bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc trường hợp
bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định
hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với các trường hợp bị can, bị
cáo là phụ nữ có thai hoặc đang ni con dưới ba sáu tháng tuổi, người già yếu, người
bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì chỉ áp dụng biện pháp tạm giam khi bị can, bị
cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố,
xét xử; bị can bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Biện pháp
tạm giam được áp dụng trong trường hợp bị can, bị cáo chưa bị tạm giam hoặc đang bị
tạm giam mà thời hạn tạm giam đã hết. Biện pháp tạm giam được thay đổi trong trường
hợp bị can bị cáo đang bị tạm giam, nhưng xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giam
bị can, bị cáo mà có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Biện pháp tạm giam được huỷ bỏ
trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam, nhưng xét thấy không cần thiết tiếp
tục tạm giam và cũng không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hay trong
trường hợp vụ án bị đình chỉ.
Đối với thời hạn tạm giam: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không được quá
thời hạn chuẩn bị xét xử như quy định tại Điều 176 BLTTHS và hướng dẫn tại Nghị
quyết số 04/2004/NQ – HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao. Thời hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng là ba mươi ngày, tội phạm
nghiêm trọng là bốn mươi lăm ngày, tội phạm rất nghiêm trọng là hai tháng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng là ba tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Trường hợp trong một vụ án
có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can
không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội nặng nhất mà bị can đó bị truy tố,
đối với trường hợp một bị can phạm nhiều tội phạm khác nhau thì thời hạn tạm giam
được tính theo thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy