Tải bản đầy đủ (.pdf) (228 trang)

Giáo trình tội phạm học lê thị sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 228 trang )


41-2017/CXBIPH/118-01/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

TỘI PHẠM HỌC
(Tái bản lần thứ 5, có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2017
3


Chủ biên
GS.TS. LÊ THỊ SƠN

Tập thể tác giả
GS.TS. LÊ THỊ SƠN

Chƣơng I, Chƣơng III

PGS.TS. DƢƠNG TUYẾT MIÊN

Chƣơng II, Chƣơng V

GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ



Chƣơng IV, Chƣơng VIII

TS. LÝ VĂN QUYỀN

Chƣơng VI

PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

Chƣơng VII

4


LỜI GIỚI THIỆU
Tội phạm học là ngành khoa học thực nghiệm nghiên cứu về
tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm và kiểm sốt tội
phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Với ý nghĩa quan
trọng như vậy tội phạm học đã được xác định là một môn học
trong chương trình đào tạo cử nhân luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội.
Là học liệu quan trọng, giáo trình tội phạm học đã được
Trường Đại học luật Hà Nội tổ chức biên soạn lần đầu năm 1998
và được sửa đổi, bổ sung năm 2004. Trên cơ sở đánh giá những
điểm chưa thống nhất, những điểm còn hạn chế của giáo trình
này trong sự so sánh với các tài liệu về tội phạm học của Việt
Nam cũng như một số giáo trình của các cơ sở đào tạo nước
ngồi hiện nay, Trường Đại học Luật Hà Nội chủ trương biên
soạn mới giáo trình tội phạm học theo hướng chuẩn hố một số
khái niệm và tập trung vào nội dung thuộc phần đại cương của

tội phạm học với mục đích trang bị cho người học kiến thức về
phương pháp nghiên cứu của tội phạm học và khả năng vận dụng
phương pháp này vào nghiên cứu thực nghiệm cụ thể.
Trong lần biên soạn này, tập thể tác giả là những nhà giáo có
tâm huyết và kinh nghiệm đã tham khảo các giáo trình, tài liệu
hiện có của Trường về tội phạm học, tham khảo các quan điểm
5


khác nhau của nhiều nhà khoa học, nhà giáo trong nước và nước
ngồi được thể hiện trong các giáo trình, các sách tham khảo về
tội phạm học cũng như đánh giá thực trạng vận dụng kiến thức
tội phạm học khi thực hiện các đề tài nghiên cứu thực nghiệm về
tội phạm học của người học và lấy đó làm cơ sở cho việc biên
soạn mới giáo trình tội phạm học này. Giáo trình đã được các
nhà khoa học có uy tín thẩm định về nội dung, được hội đồng
đánh giá nghiệm thu thông qua và Hiệu trưởng Trường Đại học
Luật Hà Nội quyết định cho xuất bản, lưu hành.
Trường Đại học Luật Hà Nội xin trân trọng giới thiệu giáo
trình tội phạm học và rất mong nhận được sự góp ý phê bình của
bạn đọc để giáo trình này ngày càng hoàn thiện hơn.
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


CHƢƠNG I
KHÁI NIỆM VÀ NHIỆM VỤ CỦA TỘI PHẠM HỌC
I. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM HỌC
Trong các sách viết về tội phạm học của nƣớc ngoài cũng nhƣ

trong nƣớc tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về tội phạm học.
Các định nghĩa đƣợc đƣa ra đã phản ánh ở mức độ nhất định sự
hình thành và quá trình phát triển của tội phạm học, phản ánh quan
niệm cá nhân hoặc quan niệm của một trƣờng phái về tội phạm học.
Theo một số tác giả nghiên cứu về tội phạm học ngày nay thì
thuật ngữ tội phạm học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX. Những
ngƣời đầu tiên sử dụng thuật ngữ này đƣợc kể đến là Paul
Topinard - thầy thuốc đồng thời là nhà nhân chủng học ngƣời Pháp
và Rafaele Garofalo - luật gia ngƣời Ý. Paul Topinard lần đầu tiên
dùng thuật ngữ này để phân biệt việc nghiên cứu các dạng cơ thể
ngƣời phạm tội trong lĩnh vực nhân chủng học với các công việc
khác về trắc nghiệm sinh học.(1) Rafaele Garofalo đã làm cho thuật
(1). Xem: Frank Schmalleger (PH.D. Professor Emeritus, The University of North Carolina
at Pembroke), Criminology Today, Prentice Hall 2002, tr. 14; Bernd-Dieter Meier
(Professor an der Universitaet Hannover), Kriminologie, Verlag C.H. Beck Muenchen
2005, tr. 4; Ulrich Eisenberg (Professor an der Freier Universitaet Berlin), Kriminologie,
Verlag C.H. Beck Muenchen 2005, tr. 1. Tuy trong các tài liệu này, các tác giả đều
khẳng định Paul Topinard là ngƣời đầu tiên sử dụng thuật ngữ tội phạm học nhƣng về
thời gian lại xác định khác nhau. Theo Frank Schmalleger thời gian đƣợc xác định vào
năm 1889 và theo Bernd-Dieter Meier thời gian đƣợc xác định vào năm 1879.

7


ngữ “Criminologia”(1) (tội phạm học) đƣợc phổ biến rộng rãi thơng
qua việc dùng nó đặt tên cho tác phẩm của mình xuất bản năm
1885. Thuật ngữ tội phạm học bắt nguồn từ sự kết hợp của chữ La
tinh: crimen là tội phạm và chữ Hy Lạp: logos là học thuyết. Tội
phạm học có nghĩa là học thuyết về tội phạm hoặc sự nghiên cứu
về tội phạm.(2) Đây có thể đƣợc xem nhƣ là định nghĩa ban đầu và

trực tiếp (từ nghĩa của từ) về tội phạm học.
Sau này, cùng với sự phát triển của tội phạm học, khái niệm tội
phạm học cũng đƣợc phát triển và đƣợc phản ánh trong nhiều định
nghĩa khác nhau bởi các nhà tội phạm học qua các thời kì. Trong
các sách viết về tội phạm học có thể tìm thấy bốn loại định nghĩa
khác nhau về tội phạm học. Các định nghĩa này khác nhau chủ yếu
về quan điểm thể hiện trong định nghĩa: coi tội phạm học chỉ là ngành
hay lĩnh vực kiến thức, khoa học bình thƣờng hay khoa học liên
ngành hoặc về đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của tội phạm học.
Một trong những nhà tội phạm học sớm nhất của Mỹ trong
thế kỉ XX là Edwin H. Sutherland đã đƣa ra định nghĩa tội phạm
học (trong cuốn giáo trình tội phạm học của mình đƣợc xuất bản
lần đầu tiên vào năm 1924) nhƣ sau: “Tội phạm học là lĩnh vực
kiến thức về vấn đề xã hội của tội phạm”.(3) Theo đó, tội phạm
học chỉ đƣợc xem là ngành hoặc lĩnh vực nghiên cứu vấn đề xã
hội của tội phạm, tức là nghiên cứu tội phạm và hành vi phạm tội
nhƣ là hiện tƣợng xã hội.
(1). Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sđd., tr. 4.
(2). Trong tiếng Anh là: “The study of crime”; Trong tiếng Đức là: “Lehre von der
Kriminalitaet”; Xem: Karl-Ludwig Kunz (Professor an der Universitaet
Bern/Schweiz), Kriminologie, Haupt Verlag Bern-Stuttgart-Wien 2004, tr. 1.
(3). Xem: Ewin H. Sutherland, Crimonology (Philadelphia: J.B. Lippincott, 1924), tr.
11; Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sđd., tr. 14.

8


Định nghĩa khác về tội phạm học đƣợc đƣa ra thể hiện quan
điểm nhấn mạnh đối tƣợng nghiên cứu là nguyên nhân của tội
phạm và vai trò của tội phạm học trong việc tìm ra ngun nhân

của tội phạm. Đó là định nghĩa: “Tội phạm học là sự nghiên cứu
về nguyên nhân của tội phạm”.(1)
Cũng trong thế kỉ XX xuất hiện hàng loại định nghĩa khác về
tội phạm học mà trong đó thể hiện quan điểm nhấn mạnh tính
khoa học của tội phạm học nhƣ là đặc điểm riêng biệt. Tiêu biểu
cho loại này là định nghĩa: “Tội phạm học là khoa học nghiên cứu
về tội phạm”.(2)
Loại định nghĩa thứ tƣ là định nghĩa về tội phạm học hiện đại.
Sang thế kỉ XXI, trong các sách viết về tội phạm học có thể tìm
thấy nhiều cách định nghĩa khác nhau về tội phạm học nhƣng tất
cả đều có nhiều điểm chung, thể hiện không dừng lại ở việc xác
định chung chung rằng tội phạm học là khoa học nghiên cứu về
tội phạm mà đã thể hiện quan niệm toàn diện và sâu sắc hơn về
đối tƣợng và đặc tính khoa học của tội phạm học hiện đại. Trong
đó, quan niệm phổ biến cho rằng tội phạm học là khoa học thực
nghiệm mang tính liên ngành nghiên cứu về tội phạm, nguyên
nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm. Dƣới đây là một số
quan niệm tiêu biểu về tội phạm học hiện đại:
Theo nhà tội phạm học ngƣời Mỹ - Frank Schmalleger: “Tội
phạm học là khoa học mà bao quanh là chuyên môn liên ngành
nghiên cứu về tội phạm và hành vi phạm tội, bao gồm cả những
(1). Gennaro F. Vito and Rolald M. Holmes, Criminology: Theory, Research, and Policy
(Belmont, CA: Wadsworth, 1994), tr. 3; Xem: Frank Schmalleger, Criminology
Today, Sđd., tr. 14.
(2). Clement Bartolla and Simon Dinitz, Introduction to Criminology: Order and
Dísorder (New York: Harper and Row, 1989), tr. 548.

9



biểu hiện của nó, ngun nhân, các khía cạnh pháp lí và sự kiểm
sốt”.(1) Trong định nghĩa này, tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh hai
vấn đề đƣợc đề cập, đó là phạm vi đối tƣợng nghiên cứu và đặc
tính liên ngành của tội phạm học. Ông cho rằng định nghĩa trên
đã giữ đúng quan điểm thể hiện trong tác phẩm của Jack P. Gibbs
- nhà tội phạm học xuất sắc trong thế kỉ XX: Mục đích của tội
phạm học là cung cấp những trả lời khách quan trên cơ sở nghiên
cứu cho 4 câu hỏi cơ bản sau: (1) Tại sao tỉ lệ tội phạm lại khác
nhau?; (2) Tại sao các cá nhân phạm tội khác nhau?; (3) Tại sao
lại có sự khác nhau trong phản ứng đối với tội phạm?; (4) Cái gì
là những biện pháp hợp lí của kiểm sốt sự phạm tội?(2) Cũng
theo ơng, tội phạm học là khoa học mang tính liên ngành vì nó
phải nhờ đến các ngành khoa học khác mà có đƣợc sự tiếp cận
tổng hợp để hiểu đƣợc vấn đề của tội phạm trong xã hội đƣơng
thời và để đƣa ra đƣợc các giải pháp đối với các vấn đề do tội
phạm gây ra. Đó là các ngành khoa học nhƣ nhân chủng học, sinh
học, xã hội học, tâm lí học, tâm thần học...(3)
Theo Bernd-Dieter Meier - Giáo sƣ ngƣời Đức thì tội phạm
học là khoa học nghiên cứu tội phạm nhƣ hiện tƣợng xã hội, các
nguyên nhân của hành vi phạm tội, các hậu quả của nó đối với nạn
nhân và xã hội cũng nhƣ các biện pháp và cách thức mà các cơ
quan nhà nƣớc phản ứng trƣớc sự xảy ra của các hành vi phạm tội;
Tội phạm học là khoa học thực nghiệm nghiên cứu một cách hệ
thống các sự việc có thực đã xảy ra; Tội phạm học thực hiện việc
nghiên cứu mang tính liên ngành bằng cách tiếp thu và tiếp tục
(1). Frank Schmalleger, Criminology Today, Sđd., tr. 15.
(2). Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sđd., tr. 15.
(3). Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sđd., tr. 15.

10



phát triển các phƣơng pháp, quan điểm và lí luận của các ngành
khoa học xã hội và nhân văn, điển hình là tâm lí học và xã hội học.(1)
Cũng có quan niệm tƣơng tự, Hans-Dieter Schwind - giáo sƣ
ngƣời Đức khác cho rằng tội phạm học đƣợc hiểu là lĩnh vực nghiên
cứu liên ngành, dựa trên tất cả các khoa học thực nghiệm mà
những khoa học này có mục đích là xác định phạm vi của tội phạm
và tập hợp những kinh nghiệm về các hình thức thể hiện và nguyên
nhân của tội phạm, về ngƣời phạm tội và nạn nhân của tội phạm
cũng nhƣ về sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gồm cả các
khả năng xử lí đối với ngƣời phạm tội và tác dụng của hình phạt.(2)
Ngồi ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại cũng có thể
đƣợc tìm thấy trong tác phẩm xuất bản gần đây nhất (năm 2008)
của giáo sƣ nổi tiếng khác ngƣời Đức, Hans Gưppinger. Theo
ơng, tội phạm học là ngành khoa học thực nghiệm độc lập nghiên
cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con ngƣời và xã hội mà
chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm tội, hậu
quả của tội phạm và việc ngăn chặn tội phạm cũng nhƣ việc xử lí
những ngƣời phạm tội.(3)
Ở Việt Nam, trong các giáo trình hoặc sách về tội phạm học,
định nghĩa về tội phạm học đƣợc đƣa ra tƣơng đối thống nhất,
trong đó nhấn mạnh đối tƣợng nghiên cứu của tội phạm học là tội
phạm và ngƣời phạm tội; nguyên nhân của tội phạm và biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
(1). Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sđd., tr. 2.
(2). Xem: Hans-Dieter Schwind (Professor an der Universitaet Osnabrueck und RuhrUniversitaet Bochum), Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrung mit
Beispielen, Kriminalistik Verlag Heidelberg, 2007, tr. 8.
(3). Xem: Hans Göppinger (Professor an der Universitaet Tuebingen), Kriminologie,
Verlag C.H. Beck Muenchen, 2008, tr. 1 và tr.2


11


Trong giáo trình xuất bản từ năm 1995, GS.TS. Đỗ Ngọc
Quang cho rằng: “Tội phạm học là ngành khoa học nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến tình trạng phạm tội và tội phạm...;
nghiên cứu về nhân thân người phạm tội, nguyên nhân, điều kiện
phạm tội và những biện pháp phòng ngừa tội phạm nhằm từng
bước ngăn chặn, hạn chế tội phạm trong cuộc sống xã hội”.(1)
Cùng với cách định nghĩa tƣơng tự, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm
cho rằng: “Tội phạm học là ngành khoa học nghiên cứu tội phạm,
tình hình tội phạm, các nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội
phạm, nghiên cứu cá nhân kẻ phạm tội và những biện pháp phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm nhằm ngăn chặn, tiến tới loại trừ
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội”.(2)
Nhƣ vậy, trong tất cả các định nghĩa khác nhau về tội phạm
học, từ định nghĩa ban đầu đến định nghĩa trong thời gian gần đây
đều khẳng định tội phạm là đối tƣợng nghiên cứu của tội phạm
học. Tội phạm ở đây có nghĩa là những hành vi bị coi là tội phạm
đã đƣợc thực hiện trên thực tế, vì vậy cũng có thể gọi là tội phạm
hiện thực.(3) Tội phạm hiện thực đƣợc nghiên cứu từ góc độ xã
hội học nhƣ một hiện tƣợng xã hội số lớn và đƣợc xem nhƣ một
bộ phận của thực tại xã hội. Nghiên cứu “mặt xã hội” của tội
phạm hiện thực là để có thể đánh giá đƣợc trạng thái của bộ phận
thực tại xã hội này mà tìm cách thay đổi theo hƣớng tích cực.
(1). GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình tội phạm học, Khoa Luật Trƣờng đại học Tổng
hợp Hà Nội, 1995, tr. 8.
(2). GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2001, tr.12

(3). Theo Từ điển tiếng Việt, “hiện thực” là cái tồn tại trong thực tế, vì vậy, tội phạm
hiện thực là tội phạm tồn tại trong thực tế. Xem: Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng
Việt, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, Hà Nội, 2004, tr. 438; Xem: Nguyễn
Xuân Yêm, Hồ Trọng Ngũ, Tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản hiện đại (dịch từ
tiếng Nga), Nxb. CAND, Hà Nội, 1994, tr. 27.

12


Nguyên nhân của tội phạm cũng đã đƣợc khẳng định là đối
tƣợng nghiên cứu của tội phạm học trong hầu hết các định nghĩa
về tội phạm học nêu trên. Lịch sử phát triển của tội phạm học cho
thấy, nguyên nhân của tội phạm đƣợc nghiên cứu từ phía xã hội
và từ phía ngƣời phạm tội và từ mỗi phía lại đƣợc nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau, nhƣ từ phía ngƣời phạm tội đƣợc nghiên
cứu từ góc độ sinh lí và tâm lí... Các kết quả nghiên cứu về nguyên
nhân đều đƣợc nghiệm chứng trong thực tiễn và tạo cơ sở cho
việc hình thành những hệ thống tri thức, quan điểm khác nhau về
nguyên nhân của tội phạm hay còn đƣợc gọi là các học thuyết
trong tội phạm học. Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học
trên thế giới cũng có thể đƣợc coi là lịch sử hình thành và phát
triển các học thuyết về nguyên nhân của tội phạm.
Kiểm soát tội phạm cũng đƣợc coi là đối tƣợng nghiên cứu
của tội phạm học. Điều này đƣợc khẳng định rất sớm trong lịch
sử phát triển tội phạm học(1) cũng nhƣ thể hiện trong hầu hết các
định nghĩa về tội phạm học đã đƣợc đƣa ra.
Khái niệm kiểm soát tội phạm bắt nguồn từ khái niệm kiểm
soát xã hội(2) - khái niệm của xã hội học và kiểm soát tội phạm
(1). Ngay ở đầu thế kỉ XX, nhà tội phạm học ngƣời Mỹ - Ewin H. Sutherland đã khẳng
định kiểm soát tội phạm là một trong 3 lĩnh vực cơ bản của tội phạm học, bao gồm:

Xã hội học pháp luật; phân tích khoa học các nguyên nhân của tội phạm; kiểm soát
tội phạm. Học thuyết về kiểm sốt xã hội cũng đã đƣợc hình thành. Xem:
Sutherland, Principles of Criminology, tr. 1.
(2). Để hiểu rõ hơn về kiểm sốt xã hội có thể tham khảo đoạn giải thích sau: “Kiểm
sốt xã hội là sự bố trí các chuẩn mực, các giá trị cùng những chế tài để ép buộc
việc thực hiện chúng. Sự kiểm sốt sẽ khn các hành vi cá nhân, các nhóm vào
khn mẫu đã đƣợc xã hội thừa nhận là đúng, cần phải làm theo. Kiểm soát xã hội
sẽ dùng các chế tài tiêu cực đẩy các hành vi lệch lạc vào khuôn phép hay vào một
trật tự” (GS. Phạm Tất Dong - TS. Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học, Nxb.
Giáo dục, 2007, tr. 194).

13


đƣợc coi là bộ phận của kiểm soát xã hội. Kiểm sốt tội phạm(1) có
thể đƣợc hiểu chung nhất là sự phản ứng xã hội đối với tội phạm
nên còn đƣợc gọi là kiểm soát xã hội theo pháp luật hình sự.(2) Xét
về cấu trúc có hai yếu tố hợp thành kiểm sốt tội phạm, đó là pháp
luật (chứa đựng các chuẩn pháp luật và các quy định thể hiện sự
phản ứng xã hội đối với tội phạm - một loại lệch chuẩn pháp luật
trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự...) và phản ứng
tiêu cực bằng các chế tài tiêu cực đối với việc thực hiện tội phạm
(ví dụ ở Việt Nam là phản ứng của Nhà nƣớc thông qua các hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án hình sự). Vì
vậy, cũng có thể coi kiểm sốt tội phạm là quá trình lựa chọn và
thực hiện các phản ứng khác nhau đối với việc thực hiện tội phạm.3
(1). Để làm rõ hơn quan điểm khẳng định kiểm soát tội phạm là đối tƣợng nghiên cứu
của tội phạm học và tại sao khơng phải là phịng ngừa tội phạm, cần thiết phải phân
biệt rõ hơn về hai khái niệm này: Nội dung của khái niệm kiểm soát tội phạm và nội
dung của khái niệm phịng ngừa tội phạm có thời gian đƣợc hiểu nhƣ nhau. Khái

niệm ban đầu của phòng ngừa tội phạm là dựa trên cơ sở của luật hình sự và bảo vệ
pháp luật hình sự. Do đó, phịng ngừa tội phạm đƣợc coi đơn thuần là nhiệm vụ của
các cơ quan kiểm soát tội phạm (nhƣ cảnh sát, kiểm sát, tồ án và cơ quan thi hành
án hình sự). Kiểm sốt tội phạm cũng góp phần và hƣớng tới phòng ngừa tội phạm.
Mãi tới những năm 90 ở một số nƣớc, ví dụ nhƣ ở CHLB Đức, khái niệm phòng
ngừa tội phạm mới đƣợc quan tâm, thảo luận rộng rãi và phát triển. Lúc đó mới có
sự phân biệt rõ ràng hai khái niệm này. Hai khái niệm này có nhiều điểm chung
nhƣng có một số điểm khác biệt. Khái niệm phòng ngừa tội phạm rộng hơn khái
niệm kiểm soát tội phạm. Kiểm soát tội phạm chỉ là một phần của những hoạt động
nhằm phòng ngừa tội phạm. Nếu nhƣ khái niệm kiểm soát tội phạm đƣợc đặc trƣng
bởi các hình thức phản ứng hậu tội phạm (sau khi đƣợc thực hiện) đến ngƣời phạm
tội thì khái niệm phòng ngừa tội phạm đƣợc đặc trƣng bởi các biện pháp tích cực
(tiền tội phạm) hƣớng vào sự ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm. Kiểm soát tội
phạm thuộc vấn đề cơ bản của tội phạm học, còn phòng ngừa tội phạm lại đặt quan
tâm hàng đầu vào sự vận dụng những kiến thức cơ bản của tội phạm học. Xem:
Bernd-Dieter Meier (Professor an der Universitaet Hannover), Kriminologie, Verlag
C.H. Beck Muenchen 2005, tr. 271.
(2).Xem: Gueter Keiser, Kriminologie: Ein Lehrbuch, C.F Verlag, 1996, tr. 207.
(3).Xem thêm: Lê Thị Sơn, “Về khái niệm kiểm soát xã hội và kiểm soát tội phạm”,
Tạp chí luật học, số 8/2012, tr. 51.

14


Trong các định nghĩa đã nêu về tội phạm học, các tác giả đã
có những cách thể hiện khác nhau đề cập một đối tƣợng nghiên của
tội phạm học là kiểm soát tội phạm. Các nội dung đƣợc đề cập sau
đây đều thuộc nội dung của kiểm soát tội phạm: “... các khía cạnh
pháp lí và sự kiểm sốt ...”; “... các biện pháp và cách thức mà các
cơ quan nhà nước phản ứng trước sự xảy ra của các hành vi phạm

tội...”; “... sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gồm cả các
khả năng xử lí đối với người phạm tội và tác dụng của hình phạt...”;
“... việc ngăn chặn hành vi phạm tội cũng như việc xử lí những
người phạm tội...”. “Biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm”
đƣợc đề cập nhiều trong các tài liệu ở Việt Nam nhƣ là đối tƣợng
nghiên cứu của tội phạm học cũng có nội dung rất gần với kiểm
sốt tội phạm vì chúng cũng bao gồm những biện pháp phản ứng
của Nhà nƣớc đối với tội phạm hiện thực. Đó là những biện pháp
đấu tranh chống tội phạm mang tính phịng ngừa, nhƣ biện pháp
đấu tranh chống, phịng ngừa tội phạm bằng pháp luật hình sự và
thơng qua các hoạt động phát hiện và xử lí tội phạm của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự và cơ quan thi hành án (gọi chung là
các cơ quan kiểm sốt tội phạm).
Những phân tích trên cho thấy đã có đủ cơ sở thực tiễn khoa
học để khẳng định tội phạm học có đối tƣợng nghiên cứu độc lập,
đó là tội phạm hiện thực với ý nghĩa là hiện tƣợng xã hội số lớn
và các hiện tƣợng, quá trình liên quan trực tiếp đến tội phạm hiện
thực thuộc về nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát
tội phạm thể hiện, thực hiện sự phản ứng xã hội đối với tội phạm
hiện thực. Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện
thực và kiểm soát tội phạm hiện thực cũng có thể đƣợc coi nhƣ
đối tƣợng nghiên cứu cụ thể hay bộ phận của tổng thể đối tƣợng

15


nghiên cứu của tội phạm học mà trƣớc tiên thuộc về nó là hiện
thực xã hội bao quanh các hiện tƣợng xã hội là tội phạm. Giữa
chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một số định nghĩa về tội phạm học đã nêu đã đề cập đến

tính mục đích của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu tội
phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm sốt
tội phạm hiện thực là nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Lịch
sử hình thành và phát triển tội phạm học đã cho thấy, các kết quả
nghiên cứu thực nghiệm về các đối tƣợng nghiên cứu của tội phạm
học ln hƣớng tới và phục vụ cho mục đích phịng ngừa tội phạm.
Những viện dẫn và phân tích nêu trên cũng đã làm rõ những
đặc điểm khoa học của tội phạm học. Tội phạm học không phải là
khoa học đơn ngành mà là khoa học liên ngành và là khoa học
thực nghiệm.(1) Những tri thức khoa học hợp thành tội phạm học
đƣợc đúc kết từ các kết quả nghiên cứu - là những kinh nghiệm từ
quan sát, tìm hiểu về tội phạm trong thực tế nhƣ là hiện tƣợng xã
hội, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm - không thể
không dựa vào các ngành khoa học thực nghiệm liên quan đến
con ngƣời và xã hội, đặc biệt là tâm lí học và xã hội học. Đúng
nhƣ một học giả đã khẳng định: Tội phạm học không thể xuất
hiện mà khơng có các khoa học liên quan.(2)
Trên cơ sở kế thừa đƣợc quan niệm truyền thống mà vẫn phù
(1). Đƣợc coi là những khoa học thực nghiệm hay khoa học kinh nghiệm là những
ngành khoa học mà trong đó những đối tƣợng và những sự việc của thế giới, ví dụ
nhƣ các hành tinh, động vật, các phƣơng thức hành vi của con ngƣời đƣợc nghiên
cứu qua thực nghiệm (thí nghiệm), quan sát lĩnh vực hay thăm dò ý kiến. Xem:
Phân biệt giữa các khoa học thực nghiệm và các khoa học không thực nghiệm,
/>(2). Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrung mit
Beispielen, Sđd., tr. 9.

16


hợp với sự phát triển của tội phạm học hiện đại và đảm bảo sự

thống nhất tƣơng đối với các quan niệm khác nhau hiện nay về tội
phạm học, có thể đƣa ra định nghĩa về tội phạm học nhƣ sau:
Tội phạm học là khoa học liên ngành, thực nghiệm nghiên
cứu về tội phạm (hiện thực), nguyên nhân của tội phạm và kiểm
sốt tội phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm.
Tóm lại, định nghĩa nêu trên đã bao quát các đặc điểm cơ bản
của tội phạm học. Thứ nhất là đặc điểm về đối tƣợng nghiên cứu
độc lập của tội phạm học, bao gồm tội phạm hiện thực, nguyên
nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực;
Thứ hai là đặc điểm về khoa học liên ngành của tội phạm học;
Thứ ba là đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng có thể gọi
là đặc điểm về phƣơng pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội
phạm học.(1) Thứ tư là đặc điểm về mục đích phịng ngừa tội
phạm của tội phạm học. Đây là những đặc điểm để phân biệt tội
phạm học với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các khoa học
có liên quan đến tội phạm.
II. NỘI DUNG CỦA TỘI PHẠM HỌC
Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và
kiểm soát tội phạm hiện thực đồng thời là những nội dung khái
quát của tội phạm học. Mỗi nội dung này lại bao gồm các nội
dung cụ thể liên quan. Khi nghiên cứu về tội phạm hiện thực đòi
hỏi phải nghiên cứu cả về ngƣời phạm tội với ý nghĩa là chủ thể
gây ra tội phạm, về nạn nhân của tội phạm và hậu quả gây ra cho
nạn nhân của tội phạm, nghiên cứu tội phạm hiện thực ở các
phạm vi khác nhau, nghiên cứu tội phạm hiện thực nói chung hay
(1). Đặc điểm này sẽ đƣợc trình bày rõ hơn trong Chƣơng III của Giáo trình.

17



nghiên cứu nhóm hoặc loại tội phạm hiện thực cụ thể... Hoặc khi
nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm hiện thực cũng đòi hỏi
nghiên cứu cả ngƣời phạm tội và nạn nhân của tội phạm để tìm
hiểu về nguyên nhân từ phía ngƣời phạm tội và những yếu tố có
ảnh hƣởng đến ngun nhân của tội phạm từ phía nạn nhân của
tội phạm... Nghiên cứu về kiểm soát tội phạm hiện thực bao gồm
cả nghiên cứu về hiệu quả của pháp luật hình sự, hiệu quả của
hình phạt, hiệu quả của hoạt động đấu tranh chống tội phạm của
các cơ quan tiến hành tố tụng... từ góc độ phịng ngừa tội phạm và
nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Trên cơ sở các kết quả
nghiên cứu thực nghiệm về tội phạm hiện thực, nguyên nhân của
tội phạm hiện thực, kiểm soát tội phạm hiện thực và các vấn đề
xung quanh, liên quan đến các đối tƣợng nghiên cứu nhƣ đã nêu,
hệ thống lí luận và những kết luận chung về các vấn đề này đƣợc
hình thành và pháp triển, trở thành các nội dung cơ bản của tội
phạm học. Điều này lí giải tại sao trong các sách hoặc tài liệu viết
về tội phạm học, bên cạnh những nội dung trực tiếp thuộc đối
tƣợng nghiên cứu của tội phạm học cịn có nhiều nội dung cụ thể
khác đƣợc nêu thuộc về nội dung của tội phạm học nhƣ nhân thân
ngƣời phạm tội, nạn nhân của tội phạm, hình phạt học, phòng
ngừa tội phạm... Nhƣ vậy, các đối tƣợng nghiên cứu của tội phạm
học đã quy định những nội dung của tội phạm học, hay cũng có
thể diễn đạt cách khác là những nội dung khoa học của tội phạm
học đƣợc hình thành trên cơ sở nghiên cứu các đối tƣợng nghiên
cứu của tội phạm học.
Các nội dung của tội phạm học cũng đƣợc phát triển cùng với
sự phát triển của tội phạm học. Từ những năm 90 của thế kỉ XX
phòng ngừa tội phạm ngày càng đƣợc các nƣớc trên thế giới quan
tâm, đƣợc thể hiện từ trong chính sách hình sự đến trong hệ thống


18


kiểm soát tội phạm đến trong nghiên cứu tội phạm học, do đó lí
luận về phịng ngừa tội phạm ngày càng đƣợc phát triển và trở
thành bộ phận quan trọng của tội phạm học. Cùng với phòng ngừa
tội phạm là vấn đề lí luận về nạn nhân của tội phạm và về tác
dụng, hiệu quả của hình phạt cũng đƣợc phát triển thành những
bộ phận (chuyên sâu) quan trọng của tội phạm học và trong một
số tài liệu còn đƣợc gọi là nạn nhân học và hình phạt học.(1)
Những nội dung của tội phạm học đƣợc phản ánh ngay trong
các sách viết về tội phạm học. Có thể viện dẫn ra đây nội dung
của tội phạm học đƣợc giới thiệu trong cuốn “Giáo trình mới về
tội phạm học” của các tác giả ngƣời Nhật Bản - Miiaddzrava và
Phuddzimoto. Cuốn Giáo trình này có các nội dung sau:(2)
I. Nhập mơn về tội phạm học
1. Tội phạm và tội phạm ẩn
2. Thực hiện cơng tác tƣ pháp hình sự trên cơ sở khoa học và
quyền con ngƣời
3. Phi hình sự hố và phi hình phạt hố
4. Các tội phạm khơng có nạn nhân và chƣa thể hiện rõ tính
tội phạm
5. Chính sách hình sự về nạn nhân của tội phạm
II. Các giả thuyết và học thuyết tội phạm học
1. Học thuyết tội phạm học truyền thống
(1). Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrung mit
Beispielen, Sđd., tr. 7.
(2). Xem: Nguyễn Xuân Yêm, Hồ Trọng Ngũ, Tội phạm và tội phạm học ở Nhật Bản
hiện đại, Sđd., tr. 33, 34 và Xem: GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện
đại và phòng ngừa tội phạm, Sđd., tr. 19.


19


2. Học thuyết “Sự buộc tội”
3. Học thuyết trung lập hoá
4. Học thuyết về “Tội phạm học mới”
5. Học thuyết về sử dụng các phƣơng pháp sinh học mới
III. Phân loại ngƣời phạm tội
1. Ngƣời phạm tội là phụ nữ
2. Sự tổn hại thần kinh và tội phạm
3. Những ngƣời phạm tội truyền thống
4. Những ngƣời phạm tội của nhóm tội phạm giới tính
5. Những ngƣời phạm tội vị thành niên
IV. Tiếp cận phân loại tội phạm
1. Thành phố và tội phạm
2. Tham nhũng của các cán bộ chức vụ
3. Tội phạm lạm dụng ma túy
4. Các nhóm tội phạm và tội phạm
5. Sự suy đồi văn hoá và tội phạm
V. Cơ chế kiểm soát tội phạm
1. Kiểm soát xã hội và tội phạm
2. Xã hội hiện đại và cảnh sát
3. Các chức năng của viện kiểm sát và toà án
4. Giáo dục cải tạo phạm nhân
5. Giáo dục ngƣời phạm tội không bị tách khỏi xã hội
VI. Các khuynh hƣớng quốc tế trong phát triển tội phạm học
Hoặc trong cuốn sách “Tội phạm học ngày nay” của tác giả

20



ngƣời Mỹ - Frank Schmalleger xuất bản năm 2002, các nội dung
sau đã đƣợc đề cập:(1)
Phần I. Bức tranh tội phạm
Chƣơng 1. Tội phạm học là gì?
Chƣơng 2. Các dạng của tội phạm
Chƣơng 3. Phƣơng pháp nghiên cứu và sự phát triển lí luận
Phần II. Nguyên nhân tội phạm
Chƣơng 4. Trƣờng phái cổ điển và cổ điển mới
Chƣơng 5. Những nguồn gốc thuộc về sinh học của hành vi
phạm tội
Chƣơng 6. Những cơ sở về tâm lí và thần kinh của hành vi
phạm tội
Chƣơng 7. Những học thuyết xã hội 1: Cơ cấu xã hội
Chƣơng 8. Những học thuyết xã hội 2: Quá trình xã hội và sự
sự phát triển có tính chất xã hội
Chƣơng 9. Những học thuyết xã hội 3: Xung đột xã hội
Phần III. Tội phạm trong thế giới hiện đại
Chƣơng 10. Các tội xâm phạm con ngƣời
Chƣơng 11. Các tội xâm phạm sở hữu
Chƣơng 12. Tội phạm cổ cồn trắng và tội phạm có tổ chức
Chƣơng 13. Lạm dụng chất ma túy và tội phạm
Chƣơng 14. Cơng nghệ và tội phạm
Phần IV. Phản ứng (kiểm sốt) đối với hành vi phạm tội
(1). Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sđd., cuốn sách này đƣợc dùng phổ
biến trong các trƣờng có đào luật ở Mỹ.

21



Chƣơng 15. Tội phạm học và chính sách xã hội
Chƣơng 16. Những phƣơng hƣớng trong tƣơng lai
Tiếp theo có thể viện dẫn những nội dung của tội phạm học
đƣợc thể hiện trong cuốn sách về tội phạm học đƣợc dùng phổ
biến trong các cơ sở đào tạo luật ở CHLB Đức. Đó là cuốn sách
“Tội phạm học” của tác giả Bernd-Dieter Meier.(1) Những nội dung
sau đã đƣợc đề cập:
1. Đối tƣợng và sự quan tâm nhận thức của tội phạm học
2. Sự phát triển và trạng thái hiện tại của tội phạm học
3. Các học thuyết tội phạm học
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu tội phạm học
5. Mức độ, cơ cấu và diễn biến của tội phạm đã đƣợc thống kê
6. Nhân thân ngƣời phạm tội và nguyên nhân về tiểu sử xã hội
7. Những vấn đề của dự báo về tội phạm trong tƣơng lai
8. Nạn nhân của tội phạm và nạn nhân hố
9. Kiểm sốt tội phạm
10. Phịng ngừa tội phạm
11. Tội phạm về kinh tế
12. Tội phạm và truy cứu hình phạt ở châu Âu
Ở Việt Nam, một số giáo trình hoặc sách về tội phạm học(2)
đã đề cập thống nhất đến các nội dung sau của tội phạm học:
1. Khái niệm và nhiệm vụ của tội phạm học
2. Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học

(1). Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sđd.
(2). Xem: GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình tội phạm học, Sđd.; GS.TS. Nguyễn
Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Sđd.

22



3. Phƣơng pháp nghiên cứu tội phạm học
4. Tình hình tội phạm
5. Nguyên nhân của tội phạm
6. Nhân thân ngƣời phạm tội
7. Dự báo tội phạm
8. Phòng ngừa tội phạm
9. Phịng ngừa một số loại hoặc nhóm tội phạm cụ thể.
Nội dung của tội phạm học đƣợc đề cập trong các sách hoặc
giáo trình về tội phạm học nêu trên tuy có khác nhau ở khía cạnh
nhất định song đã phản ánh quan điểm tƣơng đối thống nhất của
các học giả khác nhau trên thế giới về nội dung cơ bản của tội
phạm học. Từ đây có thể rút ra kết luận chung rằng tội phạm học
có nội dung bao gồm hai loại vấn đề: Thứ nhất là các vấn đề lí
luận chung về tội phạm học và tội phạm hiện thực; Thứ hai là các
vấn đề cụ thể về các tội phạm hoặc các nhóm tội phạm.
Phần các vấn đề về lí luận chung hay cịn đƣợc gọi là phần tội
phạm học đại cƣơng bao gồm:
- Khái niệm và nhiệm vụ của tội phạm học;
- Lịch sử hình thành và phát triển của tội phạm học;
- Phƣơng pháp nghiên cứu tội phạm học;
- Tình hình tội phạm;
- Nguyên nhân của tội phạm;
- Dự báo tội phạm;
- Nạn nhân của tội phạm;
- Kiểm sốt tội phạm;
- Phịng ngừa tội phạm.

23



Phần các vấn đề cụ thể hay còn đƣợc gọi là phần tội phạm
học cụ thể hay tội phạm học của các tội phạm hoặc nhóm tội
phạm cụ thể, bao gồm các nội dung về tình hình hoặc phịng ngừa
tội phạm các tội phạm hoặc các nhóm tội phạm cụ thể.
Nội dung của tội phạm học với tƣ cách là một khoa học
đƣơng nhiên sẽ quy định nội dung của mơn học - tội phạm học.
Theo đó nội dung của môn học tội phạm học cũng bao gồm hai
phần: Tội phạm học đại cƣơng và tội phạm học cụ thể.
Trong giáo trình “Tội phạm học” này hầu hết các vấn đề chung
của tội phạm học đại cƣơng sẽ đƣợc đề cập, riêng vấn đề dự báo tội
phạm sẽ đƣợc bổ sung sau.
III. NHIỆM VỤ CỦA TỘI PHẠM HỌC
Tội phạm học có hai nhiệm vụ cơ bản, đó là nhiệm vụ nghiên
cứu thực nghiệm và nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng. Nhiệm vụ
nghiên cứu thực nghiệm là nhiệm vụ đầu tiên quan trọng của tội
phạm học với nghĩa là khoa học liên ngành, thực nghiệm. Các
nhà tội phạm học theo đuổi nhiệm vụ này không chỉ dừng lại ở
việc sƣu tầm, hệ thống, kiểm chứng các dữ liệu, kết quả nghiên
cứu thực nghiệm từ góc độ các ngành khoa học khác nhau về hiện
thực xã hội của tội phạm, nguyên nhân của tội phạm và thực tiễn
kiểm sốt tội phạm (ví dụ các kết quả nghiên cứu nguyên nhân
của tội phạm từ góc độ tâm lí học, tâm thần học, xã hội học) mà
cịn phải phân tích và lí giải về nguyên nhân, các mối liên hệ và
cơ cấu của các đối tƣợng nghiên cứu trên cơ sở gắn kết liên ngành
các kết quả nghiên cứu thực nghiệm. Qua đó, những tri thức thực
nghiệm đƣợc tích lũy và củng cố, tạo thành hệ thống tri thức, học
thuyết khác nhau tồn tại trong lịch sử phát triển tội phạm học.


24


Kho tàng tri thức thực nghiệm có đƣợc do thực hiện nhiệm vụ
này ngày một phát triển và trở thành những kiến thức cơ bản hay
nền tảng của tội phạm học. Do đó, nhiệm vụ này cũng có thể
đƣợc gọi là nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản của tội phạm học.
Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng là nhiệm vụ thứ hai của tội
phạm học nhƣng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Nghiên cứu ứng
dụng hƣớng tới việc đƣa ra những định hƣớng, giải pháp vận dụng
những tri thức khoa học cơ bản của tội phạm học vào hoạt động
thực tiễn nhằm phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ này đƣợc thực
hiện trong các lĩnh vực mà tri thức thực nghiệm của tội phạm học
cần đƣợc mở rộng, phát triển và vận dụng để đƣa ra những giải
pháp hoặc kết luận có giá trị thực tiễn. Nhiệm vụ nghiên cứu ứng
dụng đƣợc thực hiện trƣớc tiên phục vụ cho công tác phịng ngừa
tội phạm; dự báo tội phạm; hoặc thơng qua nghiên cứu về tác dụng
và hiệu quả phòng ngừa của hình phạt; nghiên cứu về việc trở
thành nạn nhân của tội phạm và bảo vệ nạn nhân của tội phạm...
Những phạm vi hoặc lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng quan trọng của
tội phạm học thƣờng là những phạm vi hoặc lĩnh vực mà các cơ
quan tƣ pháp hình sự có nhu cầu lớn nhất về những thông tin đƣợc
khai thác từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm để có thể ban
hành đƣợc các quyết định hợp lí và hiệu quả nhằm phòng ngừa tội
phạm.(1) Những kết quả đem lại do thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu ứng dụng của các nhà tội phạm học ngày càng đƣợc phát
triển, mang lại lợi ích thiết thực cho cơng tác phịng ngừa tội
phạm và nhờ đó tội phạm học ngày càng khẳng định đƣợc vị thế
của mình trong xã hội.
(1). Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sđd., tr. 12.


25


×