Tải bản đầy đủ (.pdf) (419 trang)

Giáo trình pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nguyễn bá bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 419 trang )

GIÁO TRÌNH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
QUỐC TẾ

1


Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường

Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 1010/QĐĐHLHN ngày 28 tháng 3 năm 2017 của Hiệu trưởng Trường Đại
học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2017 và
được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản
theo Quyết định số 2738/QĐ-ĐHLHN ngày 14 tháng 9 năm 2017.

MÃ SỐ: TPG/K - 17 - 17

3198-2017/CXBIPH/02-254/TP

2


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
QUỐC TẾ


NHÀ XUẤT BẢN TƢ PHÁP
HÀ NỘI - 2017

3


Chủ biên
TS. NGUYỄN BÁ BÌNH

Tập thể tác giả
1. TS. NGUYỄN BÁ BÌNH

Chƣơng 1,
Chƣơng 6,
Chƣơng 8 (mục 8.2)

2. TS. NGUYỄN HÙNG CƢỜNG

Chƣơng 8 (mục 8.1)

3. TS. NGUYỄN MINH HẰNG

Chƣơng 7

4. TS. NGUYỄN THỊ THU HIỀN

Chƣơng 3

5. TS. NGUYỄN THANH TÂM


Chƣơng 9

6. TS. NGUYỄN ĐĂNG THẮNG

Chƣơng 4

7. TS. ĐỒNG THỊ KIM THOA

Chƣơng 6

8. ThS. NGUYỄN THỊ ANH THƠ

Chƣơng 2

9. ThS. NGUYỄN QUỲNH TRANG

Chƣơng 10

10. TS. NGUYỄN THANH TÚ

Chƣơng 5

4


LỜI GIỚI THIỆU
Mở cửa đất nước để hội nhập quốc tế, khu vực hố, tồn cầu
hố đã và đang hiện hữu như xu thế khách quan, nhu cầu thiết
yếu của bất kì quốc gia nào trên thế giới. Bối cảnh ấy mang lại
nhiều thuận lợi cho các quốc gia, thương nhân trong hoạt động

thương mại quốc tế nhưng đồng thời cũng đưa đến nhiều thách
thức khi phải đối mặt với các tranh chấp thương mại quốc tế ẩn
chứa sự phức tạp về nhiều khía cạnh, bao gồm cả kinh tế và pháp
lí. Vì thế, việc nghiên cứu và thực hành pháp luật về giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế ngày càng trở nên bức thiết và có
ý nghĩa quan trọng đối với mỗi quốc gia và thương nhân.
Giáo trình “Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế” của Trường Đại học Luật Hà Nội là giáo trình đầu tiên
ở Việt Nam chuyên biệt về lĩnh vực này, giải quyết các vấn đề
pháp lí quốc tế liên quan tới cả tranh chấp thương mại quốc tế
công và tranh chấp thương mại quốc tế tư. Giáo trình đề cập các
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế của WTO, EU,
ASEAN và NAFTA, cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư
nước ngồi và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, cơ chế giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng toà án quốc gia,
trọng tài, thương lượng và hồ giải. Giáo trình cũng làm rõ việc
giải quyết tranh chấp bằng các phương thức đặc thù trong các
lĩnh vực cụ thể, phổ biến như bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu và tự
vệ thương mại. Kết lại Giáo trình là phần giới thiệu về các chế tài
được áp dụng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
công và tranh chấp thương mại quốc tế tư. Giáo trình được biên
soạn bởi các giảng viên và các nhà thực hành pháp luật, không
5


chỉ cung cấp kiến thức hàn lâm mà còn các tình huống thực tiễn
nhằm giúp người đọc có được cái nhìn bao qt từ góc độ lí
thuyết lẫn vận dụng trong thực tế.
Mặc dù chủ biên và nhóm tác giả tham gia biên soạn Giáo
trình đã thực sự cố gắng trong q trình biên soạn nhưng do tính

chất phức tạp của lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế nên Giáo trình khơng tránh khỏi những thiếu sót. Trường Đại
học Luật Hà Nội mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn
đọc để Giáo trình “Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế” được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản.
Hà Nội, tháng 12 năm 2017
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
AD
ADR
ASEAN
BIT
Công ƣớc
ICSID
Công ƣớc New
York 1958
CJEU
CIT
CISG
CPTPP
CVD
DOC
DSB
DSM
DSU
EC

EU
EVFTA

Chống bán phá giá
Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Hiệp định song phƣơng về khuyến khích và bảo
hộ đầu tƣ
Cơng ƣớc về giải quyết tranh chấp đầu tƣ giữa
quốc gia và công dân của quốc gia khác
Công ƣớc của Liên hợp quốc năm 1958 về công
nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nƣớc ngồi
Tịa án Cơng lí Liên minh châu Âu
Tồ án thƣơng mại quốc tế Hoa Kỳ
Công ƣớc Vienna của Liên hợp quốc năm 1980
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hiệp định đối tác tồn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dƣơng
Chống trợ cấp hay các biện pháp đối kháng
Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ
Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp
Thoả thuạn về các quy tắc và thủ tục điều ch nh
viẹc giải quyết tranh chấp
Ủy ban châu Âu
Liên minh châu Âu
Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam - Liên
minh châu Âu

7



FTA

Hiệp định thƣơng mại tự do

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại

Hiệp định
TRIPs

Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí
tuệ có liên quan tới thƣơng mại

HĐTTTP

Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp

ICC

Phịng thƣơng mại và cơng nghiệp quốc tế

ICJ

Tịa án Cơng lí quốc tế của Liên hợp quốc

INCOTERMS


Các điều kiện thƣơng mại quốc tế

ITC

Ủy ban thƣơng mại quốc tế Hoa Kỳ

L/C

Phƣơng thức tín dụng chứng từ

NAFTA

Khu vực thƣơng mại tự do Bắc Mỹ

PICC

Các nguyên tắc về hợp đồng thƣơng mại quốc tế

Nxb

Nhà xuất bản

RTA

Hiệp định thƣơng mại khu vực

SEOM

Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao


SG

Tự vệ thƣơng mại

UCP

Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ

UNCITRAL

Ủy ban về luật thƣơng mại quốc tế của Liên hợp quốc

UNIDROIT

Viện quốc tế về nhất thể hóa luật tƣ

USD

Đơ la Mỹ

USTR

Văn phịng Đại diện thƣơng mại Hoa Kỳ

VIAC

Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam

WTO


Tổ chức thƣơng mại thế giới

8


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.1. Thƣơng mại quốc tế
Khởi nguồn của hoạt động thƣơng mại là các hoạt động trao
đổi hàng hóa và dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận. Ngày nay,
phạm vi hoạt động thƣơng mại khơng ch bó hẹp trong hai lĩnh
vực truyền thống ấy. Hoạt động thƣơng mại trong khuôn khổ của
Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) đƣợc hiểu rất rộng, bao gồm
các hoạt động thuộc bốn lĩnh vực là thƣơng mại hàng hóa, thƣơng
mại dịch vụ, các biện pháp đầu tƣ liên quan đến thƣơng mại và
quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thƣơng mại.1 Theo Luật mẫu về
Trọng tài thƣơng mại quốc tế của Ủy ban về luật thƣơng mại quốc
tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) thì “thuật ngữ “thương mại”
cần được giải thích theo nghĩa rộng để bao trùm tất cả các vấn
đề phát sinh từ các quan hệ có bản chất thương mại, dù là quan
hệ hợp đồng hay không phải quan hệ hợp đồng. Các quan hệ có
bản chất thương mại bao gồm, nhưng khơng giới hạn bởi các
giao dịch sau: mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện hoặc đại lí thương mại; bao thanh tốn; th
mua; xây dựng cơng trình; tư vấn; kĩ thuật; li-xăng; đầu tư; tài
chính; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc nhượng
1


Điều 2 Hiệp định thành lập WTO.

9


quyền khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác cơng nghiệp
hoặc kinh doanh khác; vận tải hàng hố hoặc hành khách bằng
đường hàng không; đường biển, đường sắt hoặc đường bộ”. 1
Việc xác định nội hàm khái niệm hoạt động thƣơng mại ở mỗi
nƣớc phụ thuộc vào pháp luật của quốc gia đó. Theo quy định của
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005 thì hoạt động thƣơng mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm việc mua bán hàng
hóa, đầu tƣ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động khác nhằm mục
đích sinh lợi.2
Thƣơng mại quốc tế thƣờng đƣợc hiểu là hoạt động thƣơng
mại liên quan tới hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Dựa vào chủ
thể và tính chất của quan hệ thƣơng mại thì thƣơng mại quốc tế
đƣợc chia thành hai nhóm chính: thƣơng mại quốc tế công
(international trade) và thƣơng mại quốc tế tƣ (international
commerce). Thƣơng mại quốc tế công là các hoạt động thƣơng
mại diễn ra giữa các thực thể công (quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ
chức quốc tế liên chính phủ). Bản chất của hoạt động thƣơng mại
quốc tế công là việc các thực thể cơng tự mình ban hành hoặc
cùng nhau cam kết các chính sách thƣơng mại quốc tế (kí kết,
tham gia các điều ƣớc quốc tế hay các liên kết kinh tế quốc tế) và
thực hiện các chính sách đó.
Hộp 1: Chính sách thƣơng mại chung của Liên minh châu Âu (EU)
Chính sách thƣơng mại chung (CCP) là một trong những trụ cột
chính trong quan hệ của Liên minh châu Âu với các nƣớc trên thế giới.
Đây là một lĩnh vực không thể thiếu trong thẩm quyền của Liên minh

(Điều 3 của Hiệp ƣớc về chức năng của Liên minh châu Âu (TFEU)),
nghĩa là ch EU, chứ không phải bất cứ quốc gia thành viên đơn lẻ nào,
có thể ban hành luật về những vấn đề thƣơng mại và kí kết các hiệp
định thƣơng mại quốc tế. CCP ám ch việc thực hiện đồng bộ quan hệ
1

2

Chú giải 2, Luật mẫu về Trọng tài thƣơng mại quốc tế của UNCITRAL năm
1985, sửa đổi năm 2006.
Khoản 1 Điều 3 Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005.

10


thƣơng mại với các nƣớc thứ ba, nhất là thông qua các phƣơng tiện thuế
quan chung và quy chế xuất nhập khẩu chung. Cơ sở của chính sách này
là liên minh hải quan với một Biểu thuế chung áp dụng với bên ngồi
và phạm vi của chính sách này đƣợc xác định tại Điều 207 của Hiệp
ƣớc TFEU, bao gồm:
• Thay đổi về thuế suất;
• Kí kết các hiệp định về thuế quan và thƣơng mại liên quan đến
thƣơng mại hàng hóa và dịch vụ, cũng nhƣ các khía cạnh thƣơng mại
của sở hữu trí tuệ, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, đạt đƣợc sự đồng bộ
trong các biện pháp tự do hóa, chính sách xuất khẩu và các biện pháp
bảo hộ thƣơng mại nhƣ những biện pháp áp dụng trong trƣờng hợp bán
phá giá hoặc trợ cấp;
• Chính sách thƣơng mại chung phải đƣợc thực thi theo những
nguyên tắc và mục tiêu của chính sách đối ngoại của Liên minh.
Trong quan hệ quốc tế của mình, EU ủng hộ “thương mại tự do

công bằng” (Điều 3.5 của Hiệp định TEU [Hiệp định về Liên minh
châu Âu]).
(Nguồn: EU-MUTRAP, Sổ tay Tổng quan Chính sách Thương mại
của Liên minh châu Âu, Nxb. Công thương, Hà Nội, 2015, tr. 16)

Thƣơng mại quốc tế tƣ là hoạt động thƣơng mại quốc tế diễn
ra giữa các thƣơng nhân (cá nhân, tổ chức kinh tế và có thể là
quốc gia khi quốc gia tham gia với tƣ cách nhƣ một thƣơng nhân).
Tính “quốc tế” hay sự liên quan tới hai hay nhiều quốc gia khác
nhau của hoạt động thƣơng mại quốc tế tƣ phụ thuộc vào quan
niệm của mỗi học giả cũng nhƣ từng hệ thống pháp luật, điều ƣớc
quốc tế. Nhƣng nhìn chung, cho đến nay, các tiêu chí thƣờng
đƣợc dùng để xác định tính “quốc tế” của hoạt động thƣơng mại
quốc tế tƣ, quan hệ thƣơng mại quốc tế tƣ gồm:
- Một bên hoặc các bên là ngƣời nƣớc ngoài, pháp nhân nƣớc
ngoài; hoặc
- Căn cứ để xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan
hệ thƣơng mại phát sinh ở nƣớc ngoài; hoặc
- Tài sản là đối tƣợng của quan hệ thƣơng mại đang ở nƣớc ngoài.
11


Hộp 2: Khoản 1 Điều 1 Công ƣớc Vienna 1980
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
“1. Cơng ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa
giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau:
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước; hoặc
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật
của nước thành viên Công ước này.”


Hộp 3: Điều 27 - Mua bán hàng hóa quốc tế,
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005
“1. Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất
khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
2. Mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương.”

Hộp 4: Khoản 2 Điều 663 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015
“2. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi là quan hệ dân sự thuộc
một trong các trường hợp sau đây:
a. Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân
nước ngồi;
b. Các bên tham gia đều là cơng dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam
nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra
tại nước ngoài;
c. Các bên tham gia quan hệ đều là công dân Việt Nam, pháp nhân
Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngồi.”

Quan hệ thƣơng mại quốc tế giữa thƣơng nhân và quốc gia
(quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ, quan hệ giữa nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài với nƣớc tiếp nhận đầu tƣ...) có thể đƣợc coi là một
dạng quan hệ thƣơng mại quốc tế tƣ đặc biệt. Dù quan hệ này có
sự tham gia của quốc gia - chủ thể có quyền miễn trừ tƣ pháp,
ngày nay quốc gia thƣờng từ bỏ quyền miễn trừ này khi tham gia
quan hệ thƣơng mại quốc tế với thƣơng nhân, theo đó biến vị thế
12


của quốc gia trở nên tƣơng tự nhƣ thƣơng nhân trong quan hệ
thƣơng mại giữa hai bên.1

1.1.2. Tranh chấp thƣơng mại quốc tế
Tranh chấp là điều khó tránh khỏi trong các hoạt động thƣơng
mại nói chung, hoạt động thƣơng mại quốc tế nói riêng. Hiện có
nhiều quan niệm khác nhau, quy định khác nhau về tranh chấp.
Theo định nghĩa của Tồ án Thƣờng trực Cơng lí quốc tế (The
Permanent Court of International Justice)2 trong phán quyết năm
1924 về vụ tranh chấp Mavrommatis: “tranh chấp (dispute) là sự
bất đồng về mặt pháp lí hay thực tế, sự xung đột về quan điểm
pháp lí hoặc lợi ích giữa hai người trở lên”.3 Theo Từ điển Luật
học Black (Black’s Law Dictionary) thì “tranh chấp được hiểu
là mâu thuẫn hay bất đồng về các yêu cầu hay quyền lợi giữa
các bên; sự đòi hỏi về yêu cầu hay quyền lợi của một bên bị đáp
lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia”.4 Nhìn
chung, dƣới góc độ pháp lí, tranh chấp đƣợc hiểu là các mâu
thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong một quan
hệ xã hội nhất định. Theo đó, tranh chấp thƣơng mại quốc tế là
các mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
quan hệ thƣơng mại quốc tế. Dựa vào chủ thể và đối tƣợng của
tranh chấp, tranh chấp thƣơng mại quốc tế đƣợc chia làm hai loại
cơ bản: tranh chấp thƣơng mại quốc tế công và tranh chấp thƣơng
mại quốc tế tƣ.
1.1.2.1. Tranh chấp thương mại quốc tế công
Tranh chấp thƣơng mại quốc tế công là tranh chấp thƣơng mại
quốc tế giữa các thực thể công về việc xây dựng và thực thi các
1
2
3

4


Xem thêm ở phần sau của Chƣơng này.
Tiền thân của Tịa án Cơng lí quốc tế (The International Court of Justice).
John Collier và Vaughan, Giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế, Nxb. Đại
học Oxford, 1999, tr. 10.
Từ điển Luật học Black (Black’s Law Dictionary), năm 1991, tr. 327.

13


chính sách thƣơng mại nhƣ thuế xuất nhập khẩu, chống bán phá
giá, trợ cấp, tự vệ... Tranh chấp thƣơng mại quốc tế công phát sinh
khi một hoặc nhiều thực thể cơng cho rằng một thực thể cơng
nào đó ban hành hoặc thực hiện chính sách thƣơng mại khơng phù
hợp hoặc không thực thi các nghĩa vụ đã cam kết với thực thể
công/các thực thể công kia. Tranh chấp thƣơng mại quốc tế cơng
có thể phát sinh trên cơ sở: khiếu kiện vi phạm, khiếu kiện khơng
vi phạm, khiếu kiện tình huống hay khiếu kiện khơng thực thi.
Trong đó, khiếu kiện vi phạm là khiếu kiện mang tính phổ biến
trong các cam kết quốc tế, khiếu kiện khơng thực thi ít đƣợc quy
định hơn. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đề cập tới 3 loại
khiếu kiện: khiếu kiện vi phạm, khiếu kiện khơng vi phạm và
khiếu kiện tình huống. Hầu hết các Hiệp định thƣơng mại tự do
(FTA) của châu Á nhƣ FTA Nhật Bản - Ấn Độ; FTA Việt Nam Nhật Bản (Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
(VJEPA), Nghị định thƣ 2004 của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) về tăng cƣờng cơ chế giải quyết tranh chấp của
ASEAN) giới hạn việc giải quyết đối với các tranh chấp liên
quan tới việc giải thích và áp dụng các FTA, nghĩa là ch tập trung
giải quyết các khiếu kiện vi phạm. Một số FTA mở rộng phạm vi
giải quyết tranh chấp đối với các khiếu kiện không thực thi nhƣ
FTA Hàn Quốc - Hoa Kỳ (KORUS), Hiệp định đối tác toàn diện

và tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng (CPTPP).
Hộp 5: Vụ giải quyết tranh chấp đầu tiên của Việt Nam
tại WTO - Tôm nƣớc ấm đông lạnh
Ngày 01/02/2010, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Hoa Kỳ liên
quan đến một số biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tơm
nƣớc ấm đơng lạnh của Việt Nam. Ngồi những rà sốt hành chính và rà
sốt đối với các nhà nhập khẩu mới, tham vấn còn đề cập đến một số
điều luật, quy định, thực tiễn và thủ tục hành chính của Hoa Kỳ bao gồm
cả phƣơng pháp “quy về 0”.
Việt Nam cho rằng các biện pháp này không phù hợp với nghĩa vụ
của Hoa Kỳ theo:

14


- Điều I, II, VI:1 và VI:2 của Hiệp định chung về thuế quan và
thƣơng mại (GATT 1994);
- Một số điều khoản của Hiệp định về Chống bán phá giá;
- Điều XVI:4 của Hiệp định WTO; và
- Nghị định thƣ gia nhập của Việt Nam.
Ngày 12/02/2010, Liên minh châu Âu và Nhật Bản đã yêu cầu đƣợc
tham gia tham vấn. Ngày 15/02/2010, Thái Lan cũng yêu cầu đƣợc tham
gia tham vấn.
Ngày 07/4/2010, phía Việt Nam yêu cầu thành lập Ban hội thẩm.
(Nguồn: />
1.1.2.2. Tranh chấp thương mại quốc tế tư
Tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ là tranh chấp thƣơng mại
quốc tế giữa các thƣơng nhân (bao hàm cả tranh chấp thƣơng mại
quốc tế giữa thƣơng nhân và quốc gia). Ngồi ngun nhân tự
thân của các bên tranh chấp, thì bản thân những sự khác biệt về

ngơn ngữ, văn hóa, pháp luật, sự xa cách về mặt địa lí vốn có giữa
các bên chủ thể trong các giao dịch thƣơng mại quốc tế luôn tiềm
ẩn khả năng hiểu không đúng, không đầy đủ, thực hiện không
đúng và đầy đủ nghĩa vụ của các bên dẫn tới tranh chấp thƣơng
mại quốc tế tƣ.
Các tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ xảy ra ở nhiều lĩnh vực
khác nhau nhƣ: mua bán hàng hóa quốc tế, thanh tốn quốc tế,
bảo hiểm quốc tế, đầu tƣ quốc tế... Tuy nhiên, hầu hết các tranh
chấp thƣơng mại quốc tế tƣ liên quan tới hợp đồng thƣơng mại
quốc tế.
Hộp 6: Tranh chấp trong hợp đồng mua bán hóa chất
Ngày 14/4/2009, Cơng ti A (thành lập tại Việt Nam) kí hợp đồng với
Cơng ti B (thành lập tại Trung Quốc) thơng qua hình thức thƣ điện tử.
Theo đó, Cơng ti B bán cho Cơng ti A 50 tấn Caustic Soda Flakes 99%,
hàm lƣợng NaOH > 99%, giá CIF Hải Phòng, Việt Nam theo điều kiện

15


Incoterms 2000. Lô hàng đƣợc chuyển bằng đƣờng biển, cập cảng Hải
Phịng ngày 27/5/2009.
Ngày 28/5/2009, Cơng ti A làm thủ tục thơng quan tại Hải quan Hải
Phịng và chuyển hàng về kho của Công ti A. Cùng ngày, Công ti A đã
mời Công ti X tiến hành giám định chất lƣợng lô hàng và lấy mẫu
chuyển đến Chi cục Tiêu chuẩn Đo lƣờng Chất lƣợng Hải Phòng để thử
nghiệm. Phiếu kết quả thử nghiệm của Chi cục Tiêu chuẩn Đo Lƣờng
Chất lƣợng Hải Phòng cho kết quả hàm lƣợng NaOH của 2 mẫu thử đạt
37,69% và 39,31%. Chứng thƣ giám định của Công ti X cho kết quả
hàm lƣợng NaOH của lô hàng là 34,98%.
Do kết quả thử nghiệm không phù hợp với hợp đồng, Công ti A kiện

Công ti B ra Trọng tài để yêu cầu Trọng tài công nhận việc Công ti A
đƣợc quyền từ chối nhận hàng, Cơng ti B phải hồn trả cho Cơng ti A
tồn bộ số tiền theo hợp đồng, bồi thƣờng cho Công ti A tồn bộ tổn thất
và chi phí phát sinh do việc giao hàng không phù hợp với hợp đồng.
(Nguồn: Các phán quyết Trọng tài Quốc tế chọn lọc, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2010)

1.2. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.2.1. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại
quốc tế công
Phƣơng thức giải quyết tranh chấp (Dispute Resolution) là
cách thức, phƣơng pháp để giải quyết tranh chấp. Phƣơng thức
giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế công đƣợc xác định tùy
thuộc vào các thỏa thuận giữa các thực thể công ở các cấp độ song
phƣơng, khu vực hay toàn cầu. Các phƣơng thức giải quyết tranh
chấp thƣơng mại quốc tế công thƣờng đƣợc đề cập bao gồm: tham
vấn, mơi giới, trung gian, hịa giải, trọng tài, giải quyết tranh chấp
theo một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng biệt (nhƣ cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO), cơ chế giải quyết tranh chấp liên
quan tới quyền sở hữu trí tuệ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

16


(WIPO), cơ chế giải quyết tranh chấp của EU, cơ chế giải quyết
tranh chấp của ASEAN...). Việc sử dụng một hay nhiều phƣơng
thức giải quyết tranh chấp với cách thức kết hợp khác nhau phụ
thuộc vào từng cam kết giữa các quốc gia (hiệp định song
phƣơng, hiệp định khu vực hay tồn cầu).

1.2.1.1. Tham vấn (Consultations)
Tham vấn có thể là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp
thƣơng mại quốc tế độc lập hoặc là một giai đoạn/bƣớc trong một
cơ chế giải quyết tranh chấp nào đó (ví dụ cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO, cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN...). Bản
chất của tham vấn là việc các bên tự thƣơng lƣợng với nhau bằng
cách đƣa ra yêu cầu tham vấn và trả lời tham vấn để cùng tìm ra
và thống nhất giải pháp giải quyết tranh chấp phát sinh. Dù là một
phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập hay là một giai
đoạn/bƣớc trong một cơ chế giải quyết tranh chấp nhất định thì
tham vấn ln đƣợc coi là sự lựa chọn đầu tiên để giải quyết tranh
chấp giữa các thực thể công.
Trong các hiệp định thƣơng mại trƣớc đây, tham vấn thƣờng
đƣợc lựa chọn nhƣ một phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập
và trong một số hiệp định, đây là phƣơng thức giải quyết tranh
chấp duy nhất (ví dụ Hiệp định Thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
năm 2000). Ở các FTA thế hệ mới, tham vấn thƣờng đƣợc xác
định vừa là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập vừa là
một giai đoạn/bƣớc trong cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp
định (ví dụ Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA)). Trong cơ chế giải quyết tranh chấp khu vực (nhƣ Khu
vực thƣơng mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), ASEAN) hay cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO thì tham vấn cũng đƣợc xác định
vừa là phƣơng thức giải quyết tranh chấp độc lập, vừa là một giai
đoạn/bƣớc bắt buộc của các cơ chế này.

17


Hộp 7: Điều 5 (Tham vấn), Chƣơng VII Hiệp định thƣơng mại

Việt Nam - Hoa Kỳ
1. Các Bên đồng ý tiến hành tham vấn định kì để rà sốt việc thực
hiện Hiệp định này.
2. Các Bên đồng ý tiến hành tham vấn nhanh chóng thơng qua các
kênh thích hợp theo yêu cầu của một trong hai Bên để thảo luận bất cứ
vấn đề gì liên quan đến việc giải thích hoặc thực hiện Hiệp định này và
các khía cạnh liên quan khác trong quan hệ giữa các Bên.
3. Các Bên thỏa thuận thành lập Ủy ban Hỗn hợp về Phát triển Quan
hệ Kinh tế và Thƣơng mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (gọi tắt là “Ủy
ban”). Ủy ban có các nhiệm vụ sau:
A. Theo dõi và đảm bảo việc thực hiện Hiệp định này và đƣa ra các
khuyến nghị để đạt đƣợc các mục tiêu của Hiệp định này;
B. Đảm bảo một sự cân bằng thỏa đáng về các thỏa nhƣợng trong
thời hạn hiệu lực của Hiệp định;
C. Là kênh thích hợp để các Bên tiến hành tham vấn theo yêu cầu
của một Bên để thảo luận và giải quyết các vấn đề phát sinh từ việc giải
thích hay thực hiện Hiệp định này; và
D. Tìm kiếm và đề xuất khả năng nâng cao và đa dạng hóa các quan
hệ kinh tế và thƣơng mại giữa hai nƣớc.
4. Ủy ban sẽ có các đồng chủ tịch là đại diện của các Bên ở cấp Bộ
trƣởng và các thành viên sẽ là đại diện của các cơ quan hữu quan có liên
quan đến việc thực hiện Hiệp định này. Ủy ban sẽ họp định kì hàng năm
hoặc theo yêu cầu của một trong hai Bên. Địa điểm họp sẽ luân phiên
giữa Hà Nội và Washington D.C, trừ khi các Bên có thỏa thuận khác. Cơ
cấu tổ chức và quy chế hoạt động của Ủy ban sẽ do Ủy ban thông qua tại
phiên họp đầu tiên của mình.

1.2.1.2. Mơi giới (Good Offices), Trung gian (Mediation),
Hịa giải (Conciliation)
Mơi giới là phƣơng thức giải quyết tranh chấp trong đó bên

thứ ba (bên mơi giới) trợ giúp các bên tranh chấp trao đổi, đối
thoại, khởi tạo các cuộc đàm phán để thống nhất giải pháp giải
quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp thông qua phƣơng
thức môi giới là tự nguyện giữa các bên và bên mơi giới phải
thích hợp đối với các bên tranh chấp - thƣờng là quốc gia, cá nhân
18


có uy tín đối với các bên (nhƣ Tổng thƣ kí Liên hợp quốc, Tổng
giám đốc WTO, Chủ tịch Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB)
của WTO...). Khi các cuộc thƣơng lƣợng giữa các bên tranh chấp
bắt đầu, vai trò của bên môi giới coi nhƣ chấm dứt.
Cụm từ trung gian hay hòa giải nhiều khi đƣợc dùng thay thế
cho nhau, bởi lẽ sự khác biệt giữa hai phƣơng thức này không thực
sự lớn, nhất là xét trên thực tế. Ở phƣơng thức trung gian/hòa giải,
các bên tranh chấp sẽ nhất trí lựa chọn bên thứ ba (bên trung
gian/hịa giải viên) hỗ trợ, tƣ vấn các bên tranh chấp trong việc
xử lí các vấn đề cịn khác biệt, tìm kiếm giải pháp giải quyết
tranh chấp. Đối với các tranh chấp thƣơng mại quốc tế công,
cũng giống nhƣ bên môi giới, bên trung gian/hòa giải viên
thƣờng phải là quốc gia, cá nhân có uy tín (nhƣ Tổng giám đốc
WTO, Chủ tịch DSB...).
Các phƣơng thức mơi giới, trung gian/hịa giải đƣợc đề cập
trong nhiều FTA thế hệ mới, cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO cũng nhƣ các cơ chế giải quyết tranh chấp khu vực (ví dụ
ASEAN). Trong đó, mơi giới, trung gian, hòa giải đƣợc xác định
là phƣơng thức tự nguyện, có sự chấp thuận của các bên tranh
chấp, có thể bắt đầu và kết thúc vào bất kì thời điểm nào của quá
trình giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Hộp 8: Điều 118 (Mơi giới, Trung gian, Hịa giải),

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
1. Một Bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến hành mơi giới, trung
gian, hịa giải ở bất kì thời điểm nào. Các Bên tranh chấp có thể bắt đầu
và kết thúc trung gian, hịa giải vào bất kì lúc nào theo yêu cầu của bất kì
Bên nào.
2. Nếu các Bên đồng ý, mơi giới, trung gian, hịa giải có thể vẫn tiếp
tục cùng với thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài theo
quy định của Chƣơng này.

19


1.2.1.3. Trọng tài (Arbitration)
Tranh chấp thƣơng mại quốc tế giữa các thực thể cơng có thể
đƣợc giải quyết bằng trọng tài, theo đó, một hội đồng trọng tài
gồm 01 hay nhiều trọng tài viên sẽ xem xét, phân tích vụ việc và
đƣa ra phán quyết có hiệu lực và bắt buộc các bên tranh chấp phải
tuân thủ và thực hiện. Đây là phƣơng thức thƣờng đƣợc quy định
trong các FTA thế hệ mới, cơ chế giải quyết tranh chấp khu vực
và kể cả trong quy định của WTO. Trọng tài đƣợc coi là phƣơng
thức giải quyết hiệu lực, hiệu quả và cuối cùng trong các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế công đã và đang
đƣợc quy định trong các FTA.
Các tranh chấp thƣơng mại quốc tế công có thể đƣợc giải
quyết thơng qua một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng biệt nhƣ
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, cơ chế giải quyết tranh
chấp của ASEAN... Các cơ chế này đƣợc quy định một cách chặt
chẽ (các bƣớc/giai đoạn giải quyết, yêu cầu cụ thể cho từng
bƣớc/giai đoạn giải quyết...), đƣợc áp dụng cho các tranh chấp
phát sinh giữa các thực thể công là thành viên của các tổ chức

quốc tế có liên quan (WTO, ASEAN...).1
Thực tế, các quốc gia thƣờng sử dụng các cơ chế giải quyết
tranh chấp riêng biệt đƣợc xây dựng ở cấp độ khu vực hay tồn
cầu (ví dụ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO). Trong đó, các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp nhƣ tham vấn, mơi giới, trung
gian, hịa giải, trọng tài đóng vai trị là một bộ phận cấu thành của
các cơ chế này - có thể là một giai đoạn/bƣớc đi bắt buộc (nhƣ
tham vấn) hoặc có thể là một phƣơng thức đƣợc khuyến khích
thực hiện trong suốt quá trình giải quyết theo các cơ chế riêng biệt
này (ví dụ mơi giới, trung gian, hịa giải).

1

Các nội dung này sẽ đƣợc phân tích cụ thể hơn ở Chƣơng 2 và 3.

20


1.2.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại
quốc tế tƣ
Tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ có thể đƣợc giải quyết bằng
nhiều phƣơng thức khác nhau nhƣ: thƣơng lƣợng, trung gian/hịa
giải, trọng tài, tịa án. Ngồi các phƣơng thức này, cịn có các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ phiên tòa mini (Minitrial) hoặc các phƣơng thức mang tính chất pha trộn nhƣ phƣơng
thức trung gian - trọng tài (med-arb)... Tựu trung, có thể chia các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ làm hai
loại chính: (i) phƣơng thức xét xử tại tịa án; và (ii) các phƣơng
thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án (Alternative Dispute
Resolution - ADR).
1.2.2.1. Phương thức xét xử tại tòa án

Theo phƣơng thức này, các thƣơng nhân đƣa tranh chấp giữa
họ ra tòa án - cơ quan tài phán Nhà nƣớc, tòa án nhân danh Nhà
nƣớc để xem xét, giải quyết và đƣa ra phán quyết bắt buộc các
bên phải tuân thủ và thi hành. Phán quyết của tòa án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đây
là phƣơng thức truyền thống trong giải quyết tranh chấp nói chung
và cũng là phƣơng thức duy nhất mang tính quyền lực nhà nƣớc.
Thẩm quyền của tòa án (về vụ việc, về lãnh thổ, về cấp xét xử),
trình tự và thủ tục xét xử đƣợc pháp luật (điều ƣớc quốc tế có liên
quan và pháp luật tố tụng dân sự nƣớc có tịa án) quy định một
cách chặt chẽ. Thẩm quyền xét xử của tòa án phát sinh trên cơ sở
quy định pháp luật chứ không phụ thuộc vào các bên tranh chấp.
Việc các bên đƣợc lựa chọn trong những trƣờng hợp nhất định (ví
dụ lựa chọn tịa nào xét xử) cũng phải trên cơ sở pháp luật cho
phép có sự lựa chọn đó (ví dụ: Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự
Việt Nam năm 2015 - Thẩm quyền của tòa án theo sự lựa chọn
của nguyên đơn, ngƣời yêu cầu).
21


Việc giải quyết các tranh chấp thƣơng mại tƣ trong nƣớc bằng
phƣơng thức tịa án thì đƣơng nhiên thuộc về thẩm quyền của tòa
án trong nƣớc và bằng pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung
trong nƣớc. Việc thi hành phán quyết của tòa án đối với các tranh
chấp thƣơng mại tƣ trong nƣớc ch liên quan đến bản thân quốc
gia đó và gắn với các cơ quan chức năng của quốc gia đó. Trong
khi đó, việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ bằng
phƣơng thức tòa án phức tạp hơn khi thẩm quyền dù vẫn thuộc về
tịa án quốc gia nhƣng có thể là tịa án nƣớc này hay nƣớc khác,
pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung có thể là điều ƣớc quốc tế,

pháp luật trong nƣớc hoặc pháp luật nƣớc ngoài. Phán quyết của
tòa án đối với các tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ muốn đƣợc
công nhận và thi hành ở các nƣớc có liên quan thì cần đƣợc các
nƣớc đó cơng nhận và thi hành. Những điều này đặt ra nhiều
thách thức cho cả phía tịa án và các bên tranh chấp. Xác định
đúng thẩm quyền, đúng luật áp dụng về nội dung, hiểu và áp dụng
chuẩn xác pháp luật nƣớc ngồi, nhất là liên quan tới nhiều lĩnh
vực chun mơn khác nhau về thƣơng mại quốc tế là những khó
khăn, vất vả cho thẩm phán của bất kì quốc gia nào, dù là nƣớc
đang phát triển hay phát triển. Việc phải tham gia tranh tụng ở tịa
án nƣớc ngồi, phải tiến hành việc công nhận và thi hành phán
quyết ở nƣớc ngoài với nhiều điều xa lạ, rủi ro, tốn kém về thời
gian và tiền bạc luôn là trở ngại lớn cho các bên tranh chấp trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (nội dung phƣơng
thức này đƣợc làm rõ ở Chƣơng 6).

1.2.2.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa
án (ADR)
Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án là các
phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc các bên lựa chọn để giải
quyết tranh chấp thay vì mang tranh chấp đó ra tịa án để xét xử.
Vì thế ADR cịn đƣợc gọi là các phƣơng thức giải quyết tranh
chấp thay thế, với các phƣơng thức phổ biến bao gồm: thƣơng
22


lƣợng, trung gian/hòa giải và trọng tài. Tuy nhiên, một số phƣơng
thức ADR cũng đƣợc coi nhƣ một bƣớc bắt buộc hoặc đƣợc
khuyến khích thực hiện trong q trình xét xử tại tòa án khi giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế đó

là trung gian/hịa giải và thƣơng lƣợng.
Đặc điểm nổi bật của các phƣơng thức ADR là đề cao tính tự
nguyện, chủ động của các bên tranh chấp. Tính tự nguyện, chủ
động thể hiện ngay từ điểm bắt đầu là lựa chọn phƣơng thức giải
quyết. Các phƣơng thức ADR ch đƣợc sử dụng khi và ch khi có
sự nhất trí của các bên tranh chấp. Các bên cũng có quyền thỏa
thuận về nhiều vấn đề khác nhau trong suốt quá trình giải quyết
tranh chấp bằng các phƣơng thức ADR nhƣ: xây dựng, lựa chọn
thủ tục giải quyết tranh chấp, lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ giải
quyết tranh chấp, lựa chọn bên thứ 3 với tƣ cách là ngƣời trung
gian/hòa giải viên, trọng tài viên để giúp giải quyết tranh chấp, lựa
chọn luật nội dung để áp dụng giải quyết tranh chấp...
Thông thƣờng, trong các hợp đồng hoặc sau khi tranh chấp
xảy ra, các bên tranh chấp thƣờng lựa chọn cơ chế giải quyết tranh
chấp theo hƣớng lựa chọn thƣơng lƣợng là phƣơng thức đầu tiên,
nếu thƣơng lƣợng bất thành thì có thể tiếp tục chọn hịa giải/trung
gian hoặc khơng trƣớc khi đi đến việc lựa chọn một trong hai
phƣơng thức cuối cùng là trọng tài hoặc tòa án. Dĩ nhiên, trong
phƣơng thức trọng tài hay tịa án khơng loại trừ mà vẫn tiếp tục
cho phép các bên giải quyết tranh chấp bằng hòa giải/trung gian
và thƣơng lƣợng nhƣ là một bƣớc bắt buộc hoặc mang tính
khuyến khích.
Các phƣơng thức ADR tạo ra các tầng nấc lựa chọn mang tính
chủ động khác nhau, với những ƣu điểm và nhƣợc điểm riêng để
các bên tranh chấp sử dụng trong giải quyết tranh chấp giữa họ.
Nếu nhƣ thƣơng lƣợng ch là việc giải quyết tranh chấp trên cơ sở
tự đàm phán, thảo luận và thống nhất giải pháp giải quyết bởi bản
23



thân các bên tranh chấp, thì trung gian/hịa giải và trọng tài có sự
tham gia của bên thứ 3 để giúp giải quyết tranh chấp. Nếu nhƣ
trong trung gian/hòa giải bên thứ 3 (ngƣời trung gian/hịa giải
viên) ch đóng vai trò là ngƣời trợ giúp - giúp các bên đi đến đối
thoại, tƣ vấn các vấn đề thực tế hay pháp lí, đƣa ra khuyến nghị,
giúp soạn thảo biên bản thống nhất phƣơng án giải quyết, thì
trong trọng tài, bên thứ 3 (trọng tài viên) đóng vai trị là ngƣời
xem xét và đƣa ra phán quyết giải quyết tranh chấp có hiệu lực và
bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp. Việc lựa chọn
phƣơng thức ADR nào tùy thuộc vào loại và tính chất phức tạp
của tranh chấp, mối quan hệ và thiện chí của các bên, khả năng
đáp ứng của các bên... (nội dung các phƣơng thức này đƣợc làm
rõ ở các Chƣơng 7 và 8).
Với sự phức tạp của các tranh chấp thƣơng mại quốc tế tƣ, các
phƣơng thức ADR ngày càng trở nên phổ biến và thể hiện nhiều
ƣu thế so với phƣơng thức truyền thống là thơng qua tịa án. u
cầu về bí mật kinh doanh, giữ mối quan hệ tốt đẹp trong kinh
doanh giữa các bên, những ngƣời tham gia giải quyết tranh chấp
phải có trình độ chun mơn về lĩnh vực tranh chấp, có trình độ
ngoại ngữ hay am hiểu pháp luật nƣớc ngồi… chính là những địi
hỏi thƣờng có khi giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế và các
phƣơng thức ADR cho thấy khả năng đáp ứng tốt hơn phƣơng
thức tòa án.
Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa quốc gia với thƣơng nhân
có những điểm đặc thù nhất định. Quốc gia là chủ thể có quyền
miễn trừ tƣ pháp nên về nguyên tắc nếu quốc gia không đồng ý
tham gia tố tụng thì khơng cơ quan nào đƣợc phép xét xử quốc gia
(vấn đề này đƣợc làm rõ ở mục sau). Do đó, tranh chấp thƣơng
mại quốc tế giữa quốc gia và thƣơng nhân ch có thể đƣợc giải
quyết với sự từ bỏ quyền miễn trừ tƣ pháp của quốc gia. Đối với

tranh chấp giữa Chính phủ nƣớc tiếp nhận đầu tƣ với nhà đầu tƣ
nƣớc ngồi, thơng thƣờng pháp luật các nƣớc quy định sẽ đƣợc
24


giải quyết tại trọng tài trong nƣớc hoặc tòa án trong nƣớc của
nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Chính phủ nƣớc chủ đầu tƣ cũng có thể sử
dụng phƣơng thức “bảo hộ ngoại giao” để thay mặt nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài tiến hành khiếu kiện chính phủ nƣớc tiếp nhận đầu tƣ.
Theo đó, sẽ biến tranh chấp này trở thành tranh chấp thƣơng mại
quốc tế công. Những phƣơng thức nhƣ đã nói gây ra nhiều khó
khăn, bất lợi cho nhà đầu tƣ nƣớc ngồi. Vì thế, để khuyến khích
hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, nhiều nƣớc đã đồng thuận
trong việc kiến tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp mới giữa
chính phủ nƣớc tiếp nhận đầu tƣ và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài - cơ
chế trọng tài trung lập (không phải là trọng tài của nƣớc tiếp nhận
đầu tƣ). Công ƣớc về giải quyết tranh chấp đầu tƣ giữa quốc gia
và công dân của quốc gia khác (gọi tắt là Công ƣớc ICSID) và các
FTA thế hệ mới đã kiến tạo những mơ hình trọng tài nhƣ vậy.
Nhất là mơ hình trọng tài kiểu mới của EU (thể hiện trong
EVFTA) với trọng tài thƣờng trực và 2 cấp xét xử đã tạo ra một
kiểu trọng tài mang tính chất nhƣ một tòa án quốc tế.
Hộp 9: Kháng cáo trƣớc Trọng tài phúc thẩm của EVFTA
Khác với Công ƣớc ICSID, EUSFTA (Hiệp định thƣơng mại tự do
EU - Singapore) và TPP, theo quy định của EVFTA, phán quyết tạm
thời (provisional award) của Trọng tài sơ thẩm có thể bị kháng cáo. Có
thể nói cơ chế trọng tài thƣờng trực và hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc
thẩm) chính là cốt lõi của mơ hình giải quyết tranh chấp ISDS (cơ chế
giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và nƣớc tiếp nhận đầu
tƣ) mới - khác biệt với mơ hình trọng tài vụ việc truyền thống. Mơ hình

giải quyết tranh chấp này đƣợc khởi xƣớng bởi EU và đƣợc thừa nhận
lần đầu tiên trong EVFTA.
(Nguồn: Nguyễn Bá Bình, Nguyễn Quỳnh Trang và Nguyễn Thị Anh
Thơ, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh châu Âu, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế “Pháp luật
thương mại và Đầu tư dưới tác động của các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới”, tổ chức bởi Trường Đại học Luật Hà Nội và
Viện Friedrich-Ebert Việt Nam, Hà Nội, ngày 04 - 05/4/2016)

25


×