Tải bản đầy đủ (.pdf) (563 trang)

Giáo trình luật tố tụng hình sự việt nam hoàng thị minh sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.06 MB, 563 trang )

GIÁO TRÌNH

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

1


394-2018/CXBIPH/43-188/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

GIÁO TRÌNH

LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM
(Tái bản lần thứ 14 có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2018

3


Chủ biên
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

Tập thể tác giả


Chương I
Chương II
Chương III
Chương IV
Chương V
Chương VI
Chương VII
Chương VIII
Chương IX
Chương X
Chương XI
Chương XII
Chương XIII

4

PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
TS. PHAN THỊ THANH MAI
TS. PHAN THỊ THANH MAI
TS. PHAN THỊ THANH MAI
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
TS. VŨ GIA LÂM
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
TS. NGUYỄN HẢI NINH
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
TS. VŨ GIA LÂM
TS. VŨ GIA LÂM
TS. NGUYỄN HẢI NINH
PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

TS. MAI THANH HIẾU
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH
TS. MAI THANH HIẾU
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH
TS. PHAN THỊ THANH MAI
ThS. HOÀNG VĂN HẠNH


LỜI GIỚI THIỆU
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khố XIII thơng qua tại kì
họp thứ 10 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2018. Với mục tiêu xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự thực sự
khoa học, tiến bộ có tính khả thi cao, là cơng cụ pháp lí sắc bén
để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng
mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến
pháp năm 2013 quy định, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 kế
thừa những quy định còn phù hợp trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003; loại bỏ, sửa đổi những quy định khơng cịn phù hợp;
bổ sung, xây dựng nhiều quy định mới phù hợp với những yêu
cầu thực tiễn của nước ta. Bộ luật tố tụng hình sự là căn cứ pháp
lí quan trọng nhất quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền
hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng,
cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình
sự, nhằm chủ động phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện

chính xác, nhanh chóng và xử lí cơng minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội;
góp phần bảo vệ cơng lí, bảo vệ quyền con người, quyền cơng
5


dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục
mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm... Việc nắm vững các nội dung cơ bản trên là hết
sức cần thiết đối với mỗi cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật,
mỗi sinh viên, học viên của Trường Đại học Luật Hà Nội - những
người đang nghiên cứu về các ngành luật nói chung và luật tố tụng
hình sự nói riêng.
Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập và nghiên cứu của
giảng viên, sinh viên, học viên, Trường Đại học Luật Hà Nội đã
tổ chức biên soạn và chỉnh sửa, bổ sung Giáo trình luật tụng hình
sự Việt Nam trên cơ sở kế thừa các giáo trình đã được xuất bản
trước đây. Giáo trình do PGS.TS. Hồng Thị Minh Sơn làm chủ
biên và nhóm tác giả bao gồm các phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đã
có nhiều năm làm cơng tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động
thực tiễn trong các cơ quan bảo vệ pháp luật tham gia biên soạn.
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam được biên soạn dựa
trên cơ sở lí luận chính thống, các quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 và những văn bản pháp luật khác về tố tụng
hình sự đã được ban hành.
Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan cũng như chủ quan
trong quá trình biên soạn nên Giáo trình khơng tránh khỏi những
điểm thiếu sót. Chúng tơi mong nhận được sự góp ý của các nhà
khoa học, các cán bộ giảng dạy và bạn đọc để lần tái bản sau

Giáo trình sẽ hồn chỉnh hơn.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Giáo trình luật tố tụng
hình sự Việt Nam.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

I. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT NGÀNH LUẬT TRONG
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1. Khái niệm luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
Đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm là vấn đề quan trọng
trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này một cách kiên quyết, kịp
thời, có hiệu quả, Quốc hội đã thơng qua nhiều văn bản pháp luật
quan trọng, trong đó Bộ luật hình sự (BLHS) quy định hành vi nào
là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt.
Khi có hành vi phạm tội xảy ra, việc phát hiện, xác định tội phạm
và người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống tội
phạm. Về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ: "Tác dụng ngăn ngừa

của hình phạt... hồn tồn khơng phải ở chỗ hình phạt đó phải
nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì khơng thốt khỏi bị trừng phạt.
Điều quan trọng khơng phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng phạt
7


nặng mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện".(1)
Để bảo đảm phát hiện chính xác và xử lí cơng minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khơng để
lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội đồng thời góp phần bảo
vệ cơng lí, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
pháp luật cần phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết
vụ án hình sự. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy
định thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi
hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và
hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nếu xác định
có dấu hiệu của tội phạm hoặc khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trực tiếp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì
quyết định khởi tố vụ án hình sự theo thẩm quyền; tiến hành các
hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh
tội phạm và người phạm tội, lập hồ sơ vụ án hình sự, ra bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố chuyển sang viện kiểm sát, nếu có đủ

chứng cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực
hiện hành vi phạm tội đó. Nếu xét thấy việc khởi tố vụ án khơng
có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm... thì cơ quan điều tra ra bản kết
luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu bị can bị bệnh
tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội đồng
(1).Xem: V.I. Lênin tồn tập, Tập 4, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 508.

8


giám định pháp y;(3) chưa xác định được bị can hay khơng biết bị
can đang ở đâu thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ
điều tra. Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, tuỳ
từng trường hợp viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định
như trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ vụ án hay quyết định truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo
trạng hoặc bằng quyết định truy tố (nếu vụ án được giải quyết
theo thủ tục rút gọn). Khi nhận được hồ sơ do viện kiểm sát
chuyển đến, toà án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cần thiết để
giải quyết vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bản án của
tòa án quyết định bị cáo có tội hay khơng có tội, hình phạt và biện
pháp tư pháp...
Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi xét xử là một
quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó
xét xử là hoạt động trung tâm và mang tính quyết định. Điều 13
BLTTHS năm 2015 quy định: "Người bị buộc tội được coi là
khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục
Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tồ án đã có hiệu
lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận
người bị buộc tội khơng có tội". Như vậy, xét xử là một hình thức
hoạt động nhà nước đặc biệt do tồ án thực hiện, nhằm xem xét
và giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Để việc xét
xử được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án
hình sự phải được khởi tố, điều tra, truy tố trước khi xét xử. Sau
khi xét xử, toà án ra bản án tun bố bị cáo có tội hoặc khơng có
tội và các quyết định khác. Bản án và quyết định của tồ án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành và được các cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm
vi trách nhiệm của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và
quyết định của toà án. Như vậy, tố tụng hình sự khơng chỉ bao

9


gồm hoạt động xét xử vụ án mà còn bao gồm cả những hoạt động
trước khi xét xử (như khởi tố, điều tra, truy tố) và những hoạt
động sau khi xét xử (như thi hành án). Mặt khác, để phát hiện, xử
lí tội phạm và người phạm tội, luật tố tụng hình sự cịn quy định
sự tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vụ án, của
cá nhân, cơ quan và tổ chức khác.
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự). Tố tụng hình sự bao gồm tồn bộ hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà
án); người tiến hành tố tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan
điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra; viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, kiểm tra viên; chánh án, phó
chánh án tồ án, thẩm phán, hội thẩm và thư kí toà án, kiểm tra
viên); cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra (các cơ quan của bộ đội biên phòng, các cơ quan của hải
quan, các cơ quan của kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng cảnh
sát biển, các cơ quan của kiểm ngư, các cơ quan của công an nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các
cơ quan khác trong quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra; người được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra;(1) người tham gia tố tụng (người
tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người
chứng kiến, người giám định, người định giá tài sản, người
phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi
tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người
(1).Xem: Khoản 2 Điều 35 BLTTHS năm 2015.

10


đại diện khác theo quy định của BLTTHS), của cá nhân, cơ quan
và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của luật tố tụng hình sự.
Như đã phân tích ở trên, q trình giải quyết vụ án phải trải
qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thực hiện nhiệm vụ
nhất định của tố tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng hình sự là những
bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về
phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Theo chúng
tôi, Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành

các giai đoạn sau:(1)
- Khởi tố vụ án hình sự: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu
của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;
quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo
quy định của pháp luật.
- Điều tra vụ án hình sự: Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật,
tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ làm rõ đối
tượng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
đình chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra và các quyết
định khác theo quy định của pháp luật.
- Truy tố: Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các
hoạt động cần thiết để truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo
trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật.
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự, toà án cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến
(1). Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình
sự. Ví dụ: Có quan điểm cho rằng khởi tố và điều tra là một giai đoạn. Trong
giáo trình này, căn cứ vào tinh thần của các quy định trong BLTTHS, tố tụng
hình sự được chia làm 7 giai đoạn.

11


hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết
định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
- Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn này, tồ án
cấp trên trực tiếp (cấp xét xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án,

quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật.(1)
- Thi hành án hình sự: Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành
án hình sự và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành
các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết định của toà án đã
có hiệu lực pháp luật.(2)
- Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, tồ
án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án (giám đốc thẩm)(3) hoặc có những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,
quyết định mà tồ án khơng biết được khi ra bản án, quyết định
đó (tái thẩm).(4) Ngồi thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn
này còn có thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.(5)
Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của
từng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy
độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau
và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề của
(1). Có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là một giai đoạn.
(2). Hiện nay, có quan điểm cho rằng thi hành án không phải là một giai đoạn của
tố tụng hình sự nhưng trong BLTTHS năm 2015 vẫn quy định một số vấn đề về
thủ tục thi hành án, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn xem thi hành án là
một giai đoạn của tố tụng hình sự.
(3). Xem: Điều 370 BLTTHS năm 2015.
(4).Xem: Điều 397 BLTTHS năm 2015.
(5).Xem: Chương 27 BLTTHS năm 2015.


12


giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Kết thúc
một giai đoạn phải có kết luận dưới hình thức văn bản tố tụng để
giải quyết vụ án.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của
luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập có đối tượng điều
chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của
luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các
chủ thể khác nhau trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, giữa cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
phát sinh mối quan hệ nhất định. Ví dụ: Để thu thập chứng cứ, cơ
quan điều tra phải tiến hành các hoạt động khởi tố bị can và hỏi
cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng... từ đó,
phát sinh mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với bị can, với người
làm chứng... Khi tiến hành các hoạt động khác cũng phát sinh các
mối quan hệ tương tự như trên và luật tố tụng hình sự điều chỉnh
các mối quan hệ đó.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự là những
cách thức dùng để tác động đến các quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự được
xác định căn cứ vào tính chất đặc thù của quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự Việt Nam có hai phương pháp
điều chỉnh đặc trưng, đó là: Phương pháp quyền uy và phương
pháp phối hợp - chế ước.
Phương pháp quyền uy là phương pháp điều chỉnh đặc trưng

của luật tố tụng hình sự. Quyền uy thể hiện ở quan hệ giữa cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng.
Các quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
13


tra có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức và mọi cá
nhân. Quyền uy khơng có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền muốn
làm gì thì làm mà các cơ quan này phải thực hiện quyền lực của
mình trong khn khổ của pháp luật. Phương pháp quyền uy cịn
thể hiện ở việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp cưỡng chế tố tụng...
Phương pháp phối hợp - chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa
cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tồ án... Các cơ quan này có
nhiệm vụ phối hợp với nhau tiến hành các hoạt động của mình
theo quy định của BLTTHS. Cơ quan này làm sai thì cơ quan
khác có quyền phát hiện, tự mình sửa chữa hoặc đề nghị sửa chữa
những sai lầm đó. Mức độ chế ước được thể hiện trong quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể tham gia
giải quyết vụ án hình sự.
3. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tố tụng được các quy phạm pháp luật tố tụng hình
sự điều chỉnh trong đó, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được
pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự có các đặc điểm sau:
- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà
nước, phát sinh từ khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện hoặc tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Một trong

các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự ln là cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan mật thiết với
quan hệ pháp luật hình sự. Khi một người thực hiện hành vi phạm
tội thì xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự giữa người đó với Nhà
nước. Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự được xác lập để giải
quyết quan hệ pháp luật hình sự.

14


- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan chặt chẽ với các
hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng hình sự làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Việc phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt hoạt động tố tụng.
Thành phần của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự bao gồm
khách thể, chủ thể và nội dung. Trong một quan hệ pháp luật nhất
định, việc thực hiện quyền chủ quan và nghĩa vụ pháp lí của
những người tham gia quan hệ bao giờ cũng nhằm đạt được mục
đích nhất định. Khách thể của quan hệ pháp luật là lợi ích mà các
bên nhằm đạt được khi thiết lập với nhau một quan hệ pháp luật
cụ thể. Khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là việc
giải quyết đúng đắn vụ án.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự gồm: Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như cá nhân, cơ quan, tổ
chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật.
Nội dung của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là quyền và

nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự. Luật tố tụng hình sự quy định các chủ thể có tư cách
pháp lí khác nhau có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau.
4. Khái quát lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam
a. Giai đoạn trước năm 1945
Luật tố tụng hình sự nước ta trải qua quá trình phát triển lâu
dài, nhiều sử liệu cho phép khẳng định sự tồn tại của luật tố tụng
hình sự trong chế độ phong kiến. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự
với tư cách là ngành luật độc lập như hiện nay thì chưa có ở giai
đoạn lịch sử đó. Các quy định của luật tố tụng hình sự được ban

15


hành lẫn trong các quy định của luật hình sự, đất đai, hơn nhân và
gia đình.
Các triều đại phong kiến nước ta đã sử dụng triệt để luật tố
tụng hình sự để bảo vệ lợi ích của mình. Hình thư triều Lý, Quốc
triều hình luật, Hồng Việt luật lệ... đều chứa đựng các quy định
về tố tụng như: “Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu
xét ra ngày thường đơi bên kiện tụng hay có thù ốn thì khơng
cho phép ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm
chứng thì bị ghép vào tội khơng nói đúng sự thực. Hình quan,
ngục quan biết điều đó mà dung túng việc đó đều bị tội”.(1) Hay
khi lấy khẩu cung người phạm tội, quan tra án phải xem xét kĩ,
tìm ra sự thực để cho người phạm tội phải nhận tội; khơng được
hỏi q rộng tìm đến người ngồi để tìm chứng cứ bậy; nếu trái
điều này thì xử tội phạt. Ngồi ra, Quốc triều hình luật cịn quy
định về thủ tục xét xử, thời hạn xét xử và thủ tục thi hành án.

Điều 658 Quốc triều hình luật quy định: “Những tù bị giam, kẻ
nào đáng giam mà không giam, đáng gông cùm mà không gông
cùm; hay cho bỏ cùm, nếu tù phạm tội biếm thì người coi tù bị
phạt 60 trượng; nếu kẻ phạm tội đồ trở lên thì sẽ xử tăng dần một
bậc. Những tù phạm khơng đáng giam mà giam, không đáng gông
cùm mà gông cùm thì người coi tù bị phạt 70 trượng”.
Trong Hồng Việt luật lệ cũng chứa đựng các quy phạm luật
tố tụng hình sự. Điều này chứng tỏ triều đình nhà Nguyễn cũng
coi trọng hình thức tổ chức kiện tụng, xét xử.
Trong thời kì thuộc địa, pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng
của pháp luật phong kiến và pháp luật tư sản của Pháp. Chính vì
lẽ đó đã có sự phân định các ngành luật. Luật tố tụng hình sự được pháp điển hoá và được thực hiện cho đến năm 1945. Ở Nam
kì, Bộ luật hình sự tố tụng của Pháp được áp dụng đối với những
vụ án mà bị can, bị cáo là người Pháp. Nếu bị can, bị cáo là người
(1).Xem: Điều 714 Quốc triều hình luật.

16


Việt Nam thì tồ án cũng áp dụng Bộ luật này đồng thời áp dụng
bổ sung một số quy định trong các sắc lệnh của Tổng thống
Pháp.(1) Tại Bắc kì trong thời kì này áp dụng Bộ luật hình sự tố
tụng được ban hành ngày 01/11/1918 và tại Trung kì áp dụng Bộ
luật hình sự tố tụng được ban hành vào năm 1935.(2)
b. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Luật tố tụng hình sự Việt Nam hình thành và phát triển gắn
liền với những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trước Cách mạng tháng Tám đã có những quy định về tố tụng
hình sự. Ví dụ: Chỉ thị ngày 16/4/1945 của Tổng bộ Việt Minh
quy định về lề lối làm việc của tiểu ban tư pháp và thẩm quyền

xét xử của các tiểu ban này. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công, để bảo đảm cho việc xử lí tội phạm được kịp thời, Nhà
nước đã ban hành Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 quy định việc
thành lập toà án quân sự và được bổ sung bằng Sắc lệnh số 21
ngày 14/02/1946. Trong đó có quy định: "Tồ án qn sự có thẩm
quyền xét xử các tội phạm phương hại đến nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà". Trong khi tiến hành xét xử, các tồ
án qn sự đã qn triệt chính sách trấn áp kết hợp với khoan
hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục và cải tạo. Ban đầu, việc xét
xử những vụ án hình sự thường do Uỷ ban nhân dân đảm nhiệm.
Sau đó theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946, các vụ án này do toà
án thường xét xử với sự tham gia của phụ thẩm nhân dân. Sắc
lệnh số 85 ngày 22/5/1950 đổi tên toà án thường thành toà án
nhân dân v.v..
Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ở miền Bắc việc
xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong đó có pháp
luật tố tụng hình sự được quan tâm. Quốc hội đã thông qua nhiều
đạo luật quan trọng về tự do dân chủ như Luật số 103 SL/L005
(1).Xem: Vũ Quốc Thông, Pháp chế sử Việt Nam, Sài Gòn, 1973, tr. 463.
(2).Xem: TS. Trần Quang Tiệp, Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 48, 49.

17


ngày 20/5/1957 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả
xâm phạm về nhà ở, đồ vật, thư tín của cơng dân. Năm 1958,
Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao và hệ
thống các tồ án địa phương, Viện cơng tố trung ương cùng hệ
thống viện công tố các cấp. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật

tổ chức toà án nhân dân năm 1960 và Luật tổ chức viện kiểm sát
nhân dân năm 1960 được ban hành. Chế độ bầu cử thẩm phán
thay thế chế độ chính phủ bổ nhiệm thẩm phán.
c. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1988
Ở miền Nam sau ngày giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hồ miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 01
SL/76 ngày 15/3/1976 về tổ chức toà án nhân dân.
Khi Việt Nam thống nhất về mặt nhà nước thì hệ thống toà án
nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trong cả nước được tổ chức,
hoạt động theo Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ
chức toà án nhân dân ban hành năm 1960. Năm 1980, Quốc hội
thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980,
Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 1981 thay thế Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Các văn bản pháp luật
trên đã góp phần khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong việc
giải quyết vụ án hình sự.
d. Giai đoạn từ năm 1989 đến nay
Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xoá bỏ cơ chế tập trung,
quan liêu, bao cấp, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với những
kết quả đã đạt được, thực tế cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp
trong quá trình tố tụng ảnh hưởng đến việc điều tra, truy tố và xét
18


xử. Các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn hành

khơng thể hiện được tồn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Chính vì vậy, việc ban hành BLTTHS là vấn đề mang tính khách
quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của đất nước.(1)
Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta từ
Cách mạng tháng Tám đến nay với tinh thần đổi mới trên mọi mặt
của đời sống xã hội, ngày 28/6/1988 tại kì họp thứ ba, Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố VIII đã thơng
qua BLTTHS. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1989. Để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, BLTTHS quy định trình tự, thủ
tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm
xử lí cơng minh, kịp thời tội phạm và người phạm tội.
Trên tinh thần lấy dân làm gốc, đồng thời đáp ứng yêu cầu
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, xử lí
kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội, BLTTHS năm 1988
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều (lần thứ nhất)(2) tại kì họp
thứ bảy Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khố VIII và thơng qua vào ngày 30/6/1990. Với những sửa đổi
lần này, Bộ luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã
(1).Xem: Trần Quang Tiệp, Lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2003, tr. 146.
(2). BLTTHS đã được bổ sung thêm ba điều mới là Điều 42a quy định về người
bảo vệ quyền lợi của đương sự; Điều 168a quy định về thời hạn hỗn phiên tồ và
Điều 215a quy định về việc toà án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn và sửa đổi, bổ sung 35 điều trong tổng số 286 điều luật.


19


hội và cơng dân trong tố tụng hình sự, kết hợp sức mạnh của pháp
chế xã hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân
trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Sau một thời gian thi hành, căn cứ vào thực tiễn tố tụng trong
việc giải quyết vụ án hình sự và Hiến pháp năm 1992, để khắc
phục những vướng mắc và thiếu sót trong quy định của BLTTHS
đối với việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự,
Quốc hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam khố IX tại
kì họp thứ hai đã quyết định sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTHS (lần thứ hai) vào ngày 22/12/1992 cho phù hợp với tình
hình mới và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời phù hợp với
Hiến pháp năm 1992. (1)
Với sự ra đời của BLHS (được Quốc hội thơng qua ngày
21/12/1999 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000), nhiều quy
định của BLTTHS hiện hành liên quan không cịn phù hợp nữa.
Do vậy, ngày 09/6/2000 Quốc hội thơng qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTHS (lần thứ ba)(2) nhằm thi hành
BLHS năm 1999 cũng như phù hợp với tiến trình dân chủ và đổi
mới của đất nước. BLTTHS lần này chỉ tập trung vào một số
những quy định nhằm thực hiện BLHS năm 1999; giải quyết một
số vấn đề bức xúc cần khắc phục trong quá trình tố tụng nhằm
nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Việc
(1). BLTTHS đã được bổ sung thêm ba điều mới là: Điều 143a quy định về việc
trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Điều 143b quy định về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án; Điều 160a quy định về thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm và sửa đổi bổ sung 5 điều luật.

(2). BLTTHS đã được bổ sung thêm hai điều mới là Điều 10a quy định về trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và Điều 234a quy
định về thi hành hình phạt trục xuất. Bỏ các điều khoản sau: Các khoản 3, 4 Điều
145 quy định về thẩm quyền xét xử của toà án các cấp; Điều 160a quy định về
thành phần xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm; điểm a khoản 1 Điều 226 quy
định về những bản án và quyết định được thi hành. Sửa đổi, bổ sung 21 điều luật
và sửa đổi một số điều khoản của BLHS năm 1985 thành điều khoản tương ứng
của BLHS năm 1999 đợc viện dẫn trong BLTTHS. Sau ba lần sửa đổi, BLTTHS
năm 1988 gồm 293 điều.

20


sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS lần này “dựa trên
nguyên tắc không hạn chế quyền của bị can, bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác, đồng thời bảo đảm hoạt động có
hiệu quả của các cơ quan bảo vệ pháp luật trước yêu cầu đấu
tranh phịng chống tội phạm trong tình hình mới”.(1)
Qua gần 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung,
BLTTHS năm 1988 là căn cứ pháp lí để cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và toà án tiến hành các hoạt động của mình một cách
khách quan, tồn diện, đầy đủ, góp phần bảo đảm việc phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lí cơng minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơ tội.
Tuy nhiên, trong cơng cuộc đổi mới tồn diện của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có cải cách tư pháp, BLTTHS
năm 1988 khơng cịn phù hợp nữa và đã bộc lộ một số hạn chế
nhất định.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới

đã tạo sự thay đổi, chuyển biến lớn về hoạt động của các cơ quan
tư pháp nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nói riêng.
Cùng với sự đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, đổi mới
hoạt động của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án trong tố
tụng hình sự là một trong những nhân tố đột phá quan trọng thúc
đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
Các nghị quyết của Đảng đã được thể chế hoá thành những
quy định pháp luật như Hiến pháp, Luật tổ chức toà án nhân dân,
Luật tổ chức toà án quân sự, BLTTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự... để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản
(1). “Những nội dung chủ yếu của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTHS”, Tạp chí toà án nhân dân, số 7/2000, tr. 4.

21


pháp luật, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong
giai đoạn mới. Với tinh thần các nghị quyết của Đảng, BLTTHS
năm 2003 được Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tư thơng qua
ngày 26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 đã đáp ứng được
yêu cầu về đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp theo
hướng tinh giảm bộ máy, thống nhất đầu mối, nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. BLTTHS năm 2003 có 8 phần, 37
chương và 346 điều luật, trong đó giữ nguyên 25 điều luật của
BLTTHS năm 1988; bổ sung 48 điều luật mới; sửa đổi, bổ sung
267 điều của BLTTHS năm 1988 thành 273 điều, trong đó có 4
điều sửa đổi, bổ sung về tiêu đề; bỏ 1 điều (Điều 257). Như vậy,

so với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định thêm 1
phần, 5 chương và 49 điều luật. BLTTHS năm 2003 với những
nội dung được sửa đổi, bổ sung đã nâng cao chất lượng hoạt động
của các cơ quan tư pháp, đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh
phịng chống tội phạm trong tình hình mới; nêu cao hơn nữa trách
nhiệm của cơ quan nhà nước đối với công dân, đảm bảo quyền tự
do, dân chủ của công dân đã được hiến pháp và pháp luật quy
định; đề cao trách nhiệm và xác định chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan và người tiến hành tố tụng, xác định rõ hơn quyền và
nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; các quy định về trình
tự, thủ tục tố tụng được sửa đổi rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, có tính
khả thi hơn, tạo điều kiện cho những người tiến hành và tham gia
tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình.
BLTTHS năm 2003 được bố cục như sau:
- Phần thứ nhất: Những quy định chung, gồm 7 chương (từ
Điều 1 đến Điều 99) quy định về nhiệm vụ và hiệu lực của Bộ
luật tố tụng hình sự; những nguyên tắc cơ bản; cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành
tố tụng; người tham gia tố tụng; chứng cứ; những biện pháp ngăn
chặn; biên bản, thời hạn, án phí.

22


- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định
việc truy tố gồm 8 chương (từ Điều 100 đến Điều 169) quy định
về khởi tố vụ án hình sự; những quy định chung về điều tra; khởi
tố và hỏi cung bị can; lấy lời khai của người làm chứng, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hình sự, đối chất, nhận dạng; khám xét,

thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra,
giám định; tạm đình chỉ điều tra và kết thúc điều tra; quyết định
việc truy tố.
- Phần thứ ba: Xét xử sơ thẩm gồm 7 chương (từ Điều 170
đến Điều 229) quy định về thẩm quyền của toà án các cấp; chuẩn
bị xét xử; quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên toà; thủ tục
bắt đầu phiên toà; thủ tục xét hỏi tại phiên toà; tranh luận tại
phiên toà; nghị án và tuyên án.
- Phần thứ tư: Xét xử phúc thẩm gồm 2 chương (từ Điều 230
đến Điều 254) quy định về tính chất của xét xử phúc thẩm và
quyền kháng cáo, kháng nghị; thủ tục xét xử phúc thẩm.
- Phần thứ năm: Thi hành bản án và quyết định của toà án
gồm 5 chương (từ Điều 255 đến Điều 271) quy định về những
quy định chung về thi hành bản án, quyết định của tồ án; thi
hành hình phạt tử hình; thi hành hình phạt tù và các hình phạt
khác; giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt; xố án tích.
- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật gồm 2 chương (từ Điều 272 đến Điều 300) quy định về
thủ tục giám đốc thẩm; thủ tục tái thẩm.
- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt gồm 4 chương (từ Điều 301
đến Điều 339) quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa
thành niên; thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thủ tục
rút gọn; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.

23


- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế gồm 2 chương (từ Điều 340
đến Điều 346) là những quy định chung về hợp tác quốc tế trong

tố tụng hình sự; dẫn độ, chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng
của vụ án.
Sau 12 năm thi hành, các quy định của BLTTHS đã tạo cơ sở
pháp lí cho các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong việc giải quyết vụ án hình sự, góp phần hạn chế oan, sai.
Thực tiễn thi hành đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS
năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phịng ngừa và chống tội
phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
bảo vệ cuộc sống bình n của nhân dân, tạo mơi trường ổn định
cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các quy
định của BLTTHS đã tạo cơ sở pháp lí hữu hiệu cho các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt
tội phạm, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bào chữa, bảo đảm tính minh bạch, khách quan
trong tố tụng hình sự. Các vụ án cơ bản được giải quyết đúng
trình tự, thủ tục, thời hạn do BLTTHS quy định.(1) Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng, BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những
vướng mắc, bất cập là: Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan tiến hành tố tụng cịn thiếu và có những nội dung chưa
phù hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan tố tụng; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là
những người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao
những thẩm quyền rất hạn chế nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án; thiếu một số quyền quan
trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
(1).Xem: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Báo cáo số 11/BC-VKSTC Tổng kết 10
năm thi hành BLTTHS năm 2003, 2015.


24


người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; quy định về
căn cứ tạm giam cịn định tính và chủ yếu dựa vào sự phân loại
tội phạm đang là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam
trong thực tiễn; quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng
còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm
trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; quy
định về chứng cứ còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với diễn biến
tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở
thành nguyên tắc hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của
khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những
nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối
với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng internet, từ các thiết
bị điện tử; chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lí, vẫn cịn
những hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn
tạm giam còn dài; một số thời hạn quá chặt chẽ nên thiếu tính khả
thi; Bộ luật hiện hành mới chỉ quy định thủ tục áp dụng cho người
chưa thành niên phạm tội, chưa quy định thủ tục cho người chưa
thành niên là bị hại, người làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ
người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; Căn cứ
kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm cịn nhiều như hiện
nay và có nguy cơ trở thành cấp xét xử thứ ba; thủ tục rút gọn, thủ
tục đối với người chưa thành niên, khiếu nại, tố cáo, hợp tác quốc
tế chưa phù hợp với thực tiễn, chưa bảo đảm tính đặc thù; kĩ thuật
trình bày BLTTHS cịn có những điểm chưa hợp lí.(1)
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng

ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận
số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày
(1).Xem: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tờ trình số 11/TTr-VKSTC-V8 ngày
23/3/2015 về Dự án BLTTHS sửa đổi.

25


×