Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân xã ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.6 MB, 129 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VẢN THÁI

HOÀN THIỆN TỐ CHÚC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỔNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
0 NƯỚC TA HIỆN NAY


Chuyên ngành : Lý luận Nhà nước và pháp luật
Mã số

: 5.05.01

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC








Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Minh Thông

7M ữ V sẸ N _
TRƯÕ^G OẠi HỌC l.UẶI IJÃ
HÀ NỘI - 2001

PHỔNG'DỌC GV„ . . ộ íú Ắ




LỜI CÁM ƠN

Tôi chân thành cám ơn Tiến s ĩ Lê
M inh Thơng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên
cứu N hà nước và pháp luật, người hướng
dẫn luận văn và các thầy, cơ giáo đã giúp
đỡ tơi hồn thành bản luận vãn này.


MỤC LỤC
Trang
MỎ ĐẦU

3

Chương 1: HỘI ĐỔNG NHÂN DÂN XÃ VÀ ỦY BAN NHÂN
DÂN XÃ TRONG c ơ CẤU T ổ CHỨC BỘ MÁY

1.1.
1.2.
1.3.

NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA

6

Khái quát về tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta


6

Vị trí, vai trị của chính quyền xã trong tổ chức bộ máy
nhà nước
Khái quát về sự phát triển của chính quyền xã ở nước ta

25
41

Chương 2: THỰC TRẠNG T ổ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỔNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN

DÂN XÃ

59

2.1.

Hội đồng nhân dân xã

59

2.2.

ủ y ban nhân dân xã

74

2.3.


Các mối quan hệ của Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân
dân xã

87

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN T ổ CHỨC YÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỔNG NHÂN DÂN VÀ

3.ỉ.
3.2.
3.3.

ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ HIỆN NAY

99

Các quan điểm, nguyên tắc hoàn thiên tổ chức và hoạt
động bộ máy nhà nước

99

Những yêu cầu về hoàn thiện tổ chức và hoạt độngcủa
Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã

103

Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hộiđồng
nhân dân và ủ y ban nhân dân xã

109


KẾT LUẬN

123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

124


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền xã là cấp chính quyền cơ sở trong tổ chức bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Hội đồng nhân dân và
ủ y ban nhân dân xã. Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở
xã, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở xã, do
nhân dân xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân xã và cơ quan nhà nước
cấp trên.
ủ y ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã,
do Hội đồng nhân dân xã bầu ra, có trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân xã.
Chính, quyền xã là nơi trực tiếp giải quyết cồng việc cụ thể với dân, nơi
gắn bó giữa chính quyền với người dân. Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền
xã vững mạnh thì ở đó mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, quyền làm chủ của nhân dân được
phát huy, ở đâu chính quyền xã yếu kém thì ỏ đó đời sống kinh tế, văn hóa
của nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự an ninh không ổn định, quyền làm
chủ của nhân dân khơng được phát huy.

Trong q trình phát triển của cách mạng nước ta, chính quyền xã ln
ln được xây dựng, kiện toàn nhằm đáp ứng yêu cầu tổ chức quyền lực nhà
nước và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở địa bàn xã. Tuy nhiên, trong
thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay, chính quyền xã cịn những tồn tại nhất định. Tổ chức bộ máy của
chính quyền xã cịn chưa hợp lý, hoạt động nhìn chung chưa có hiệu quả cao.
Vì vậy việc nghiên cứu để đưa ra được phương án tối ưu để xây dựng tổ chức


chính quyền xã có tổ chức hợp lý, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả cao là vấn
đề bức xúc hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra chủ trương
"phân công, phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương,
kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan
chuyên môn của ủ y ban nhân dân và bộ máy chính quyền xã, phường,
thị trấn".
2. Tinh hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính
quyền xã hiện nay chưa cơ bản, đầy đủ và có hệ thống, mới có một số bài viết
đăng trên các tạp chí của một số tác giả với nội dung rộng, đề cập đến đổi mới
tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân các cấp nói
chung, chứ chưa có các đề tài nghiên cứu tồn diện về một cấp chính quyền ở
xã, vì vậy luận vãn này sẽ tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động, cũng
như mối quan hệ của Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã, là một cấp
chính quyền hồn chỉnh ở một đơn vị hành chính cụ thổ.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu nhằm phát triển được những thành tựu những
mặt tích cực cũng như những mặt hạn chế trong tổ chức và hoạt động của

chính quyền xã, từ đó đưa ra được kiến nghị về phương hướng hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của chính quyền xã nhằm xây dựng một chính quyền xã có
đủ khả năng tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước và bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân ở xã.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận dùng để nghiên cứu của đề tài này là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các tư tưởng, quan


điểm mang tính nguyên tấc của Đảng, các nguyên tắc hiến định về tổ chức bộ
máy nhà nước.
- Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu của đề tài này là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp phân tích và
tổng hợp.
5. Những nét mới của luận vãn
Những nét mới của luận văn này là nghiên cứu một cách toàn diện,
đầy đủ về một cấp chính quyền cụ thể, chính quyền xã trong tổ chức bộ máy
nhà nước.
Luận văn cố gắng tìm hiểu để phân tích kỹ thực trạng về tổ chức và
hoạt động, các mối quan hệ của Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã.
Đồng thời đề xuất phương hướng cụ thể để hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm có mở đầu, ba chương và kết luận.
- Chương 1: Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhân dân xã trong cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta
- Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dán xã

» Chương 3: Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân và ủ y ban nhản dân xã
- Kết luận


Chương 1
HỘI ĐỔNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ
TRONG C ơ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA

1.1. KHÁI QUÁT VỂ T ổ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Ỏ NƯỚC TA

1.1.1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và
khoa học, phù hợp với bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở
cho tổ chức và hoạt động các cơ quan nhà nước và tồn thể bộ máy nhà nước.
Đó là những yêu cầu khách quan thể hiện bản chất và bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
xã hội chủ nghĩa rất phong phú và nhiều loại, trong đó những nguyên tắc cơ
bản có tính khái qt đối với tồn thể bộ máy nhà nước thường được ghi nhận
trong Hiến pháp, đạo luật cơ bản của Nhà nước. Ở nước ta các nguyên tắc cơ
bản được ghi nhận trong Hiến pháp gồm có: Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân; nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước; nguyên
tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân
tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
+ Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Xuất phát từ bản chất nhà nước của Nhà nước ta là "Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Nhân dân là người tổ chức ra Nhà nước,

thông qua Nhà nước nhân dân thực hiện quyền lực của mình. Nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được quy định tại Điều 1 Hiến pháp
1946, Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980, và hiện nay Điều 2


Hiến pháp 1992: "Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nống dân và tầng lớp trí thức".
Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thực chất là bảo đảm quyền
lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và xã hội. Nhân dân là người tổ chức
ra Nhà nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước. Toàn bộ hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước chính là thực hiện quyền lực của
nhân dân giao phó.
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng hai hình thức. Đó là dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Nội dung của dân chủ đại diện là nhân dân bầu ra Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho quyền hành pháp, Tòa
án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân được Quốc hội trao cho quyền tư
pháp, ở địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu
ra, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan
đại biểu của nhân dân ở địa phương. Hội đồng nhân dân bầu ra ủ y ban nhân
dân cùng cấp. Hội đồng nhân dân giám sát đối với hoạt động của ủ y ban nhân
dân, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Nội dung của dân chủ trực tiếp là nhân dân trực tiếp tham gia xây
dựng nhà nước, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia thảo luận
và quyết đinh những vấn đề quan trọng của đất nước và của địa phương. Nhân
dân kiểm ưa, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước. Nhà nước phải xây dựng thiết chế bảo đảm cho nhân dân trực tiếp

thực hiện quyền lực nhà nước.
Để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
Nhà nước phải xây dựng và bảo đảm đầy đủ các yêu cầu sau:


- Bảo đảm xây dựng Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thực sự là
cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, có
thực quyền và năng lực để thực hiện các chức năng của cơ quan quyền lực nhà
nước được Hiến pháp và pháp luật quy định.
- Thể chế hóa các quyền tự do dân chủ của nhân dân và quy định cơ
chế bảo đảm thực hiện các quyền đó trên thực tế.
- Nhà nước phải quy định chế độ trách nhiệm phục vụ nhân dân của
các cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa và xử
lý nghiêm minh những biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng
và các hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. "Các cơ quan nhà nước,
cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân,
liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng" (Điều 8 Hiến pháp 1992).
+ Nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
là một bộ phận quan trọng giữ vai trị là hạt nhân của hệ thống chính trị và
được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992 "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội".
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước được thể
hiện: Đảng định hướng sự phát triển về tổ chức bộ máy nhà nước; Đảng bồi
dưỡng, giới thiệu cán bộ ưu tú, có uy túi, có năng lực để nhân dân lựa chọn
bầu làm đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc các cơ quan nhà

nước bầu, bổ nhiệm giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước;
Đảng đề ra những đường lối, mục tiêu xây dựng nhà nước; Đảng thực hiện sự


lãnh đạo của mình đối với Nhà nước bằng vai trò liên phong, gương mẫu của
các đảng viên, các tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay địi
hỏi phải trong khn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính
chủ động sáng tạo của các cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng
khơng bao biện làm thay hoặc khốn trắng cho Nhà nước. Tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước phải vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên
những mặt cơ bản vừa bảo đảm phát huy vai trò chủ động của Nhà nước trong
việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Đảng phải khắc phục có hiệu quả các mặt yếu kém, khôi phục và
nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải xây dựng vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, thực sự là hạt nhân trong hệ thống
chính trị. "Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển và
kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trưưng của Đảng và Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước" [46, tr. 144].
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ
Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: "Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ".
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong hệ thống
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa vì
nó là ngun tắc cơ bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan
hệ giữa các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước, quy định mối quan hệ

giữa cơ quan nhà nước Trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa phương,
giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng cơ quan nhà nước với cán bộ, công
chức trone cơ quan, quy định thẩm quyền, thủ tục ban hành văn bản pháp luật


của các cơ quan nhà nước, quy định lề lối làm việc, kiểm tra, giám sát và xử lý
các công việc trong hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước được thể hiện: Phải bảo đảm sự chỉ đạo điều hành tập
trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở Trung ương đối với các cơ quan
nhà nước ở địa phương, của cấp trên với cấp dưới. Các cơ quan nhà nước
Trung ương có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, các
cơ quan nhà nước ở địa phương có trách nhiệm thi hành các quyết định của cơ
quan nhà nước Trung ương, đồng thời bảo đảm quyền chủ động, sáng tạo và
khả năng độc lập trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
được giao của địa phương, cơ sở, của cán bộ, công chức trong bộ máy
nhà nước.
Những nội dung trên đây phải được quy định cụ thể bằng pháp luật về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của từng loại cơ quan nhà
nước, của từng cấp chính quyền nhà nước; quy định mối quan hệ giữa cơ quan
quyền lực nhà nước với các cơ quan nhà nước khác; quy định mối quan hệ
giữa các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương, quan hệ nội bộ mỗi loại
cơ quan nhà nước và quan hệ nội bộ từng cơ quan nhà nước, quy định quan hệ
giữa cơ quan nhà nước với cồng dân nhằm bảo đảm tính ràng buộc, phụ thuộc,
phối hợp trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Tập trung dân chủ là hai mật của một vấn đề thống nhất. Trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước cần tránh hai khuynh hướng hoặc quá đề
cao tập trung mà coi nhẹ dân chủ làm ảnh hưởng đến quyền tự chủ, sáng tạo
của địa phương, của cấp dưới hoặc quá đề cao dân chủ, tuyệt đối hóa quyền tự
chủ của địa phương, của cơ sở mà hạ thấp vai trò chỉ đạo tập trung của Trung

ương đối với địa phương sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, trật tự, kỷ cương nhà
nước lỏng lẻo, phân tán, cục bộ địa phương, vơ chính phủ.
+ Ngun tắc bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ giữa các dãn tộc
Xuất phát từ đặc điểm của nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống
trên một lãnh thổ và trong lịch sử dựng nước và giữ nước các dân tộc anh em


đã chung sức, đồng lòng chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc, vì vậy, bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phải tổ chức theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa
các dân tộc. Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên
đất nước Việt Nam, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số".
Thực hiện nguyên tắc này, trong tổ chức bộ máy nhà nước luôn phải
bảo đảm cho các dân tộc có quyền bình đẳng trong xây dựng nhà nước, tham
gia quản lý nhà nước. Tất cả các dân tộc đều có đại biểu của mình trong các
cơ quan nhà nước nhất là Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện
của nhân dân. Trong tổ chức của Nhà nước hiện nay thì, trong tổ chức của
Quốc hội có Hội đồng dân tộc, trong tổ chức của Chính phủ có ủ y ban dân tộc
và miền núi. Ở địa phương nếu tỉnh nào có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh
sống thì Hội đồng nhân dân tỉnh có thể thành lập Ban dân tộc.
Trong hoạt động của Nhà nước ln phải tính đến lợi ích của dân tộc,
chú ý đến lợi ích của các dân tộc ít người. Nhà nước cần có những chính sách
riêng cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các đồng bào dân
tộc nhằm nâng cao đời sống về vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc.

Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã xác định "vấn đề dân tộc và đồn
kết các dân tộc luồn ln có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng". Mặt
khác, Nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị, chia rẽ, thù hằn giữa các
dân tộc, nhất là trong điều kiện hiện nay, bọn phản động trong nước và nước
ngoài đang thực hiện âm mưu diễn biến hịa bình gây chia rẽ tơn giáo, dân tộc
gây mất ổn định chính trị - xã hội hịng lật đổ chính quyền nhà nước.


+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của pháp luật gắn liền với sự ra đời của Nhà nước, Nhà nước
ban hành ra pháp luật để quản lý xã hội. Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật".
Thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có nghĩa là mọi cơ quan nhà
nước, mọi cán bộ, công chức nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân
thủ pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Thực hiện đúng đắn nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là bảo đảm sự thống nhất về kỷ
cương trật tự, hiệu lực quản lý trong hoạt động của bộ máy nhà nước, bảo đảm
dân chủ và công bằng xã hội, tránh được khuynh hướng cục bộ, tùy tiện, vơ
Chính phủ, đấu tranh có hiệu quả để ngăn chặn tệ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước.
Để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Nhà nước cần phải:

- Xây dựng được hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, khoa
học ưong đó có các văn bản pháp luật quy định tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước.
- Thực hiện có hiệu quả việc tổ chức thực hiện pháp luật như công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho cán bộ, cồng chức nhà nước và nhân dân,
mở rộng các hình thức tư vấn và trợ giúp pháp lý, xây dựng thói quen sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.


- Xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật đối với mọi hành vi vi
phạm pháp luật, trừng trị nghiêm các tội phạm theo nguyên tắc: "Mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật".
1.1.2.

Cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước
từ Trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có nhiều loại cơ quan nhà nước, mỗi loại cơ quan nhà nước thực hiện những
chức năng khác nhau; thể hiện sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Để tiện lợi cho việc xác định địa vị pháp lý của từng loại cơ quan nhà
nước và mối quan hệ giữa các loại cơ quan nhà nước với nhau, trong khoa học
pháp lý thường phân loại các cơ quan nhà nưóc. Có nhiều cách khác nhau để
phân loại các cơ quan nhà nước, nhưng cách phân loại phổ biến nhất là căn cứ
vào trình tự hình thành, tmh chất, vị trí, chức năng của các cơ quan nhà nước

hoặc căn cứ vào đơn vị hành chính - lãnh thổ nhà nước.
Nếu căn cứ vào trình tự hình thành, tính chất, vị trí, chức năng của các
cơ quan nhà nước thì trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gồm có:
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là các cơ quan đại
diện) bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan quyền
lực nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra theo các nguyên tắc bầu cử. Vì vậy,
Quốc hội và Hội đồng nhân dân được nhân dân trao cho quyền lực nhà nước
để thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực đó và phải chịu trách nhiệm và báo
cáo trước nhân dân (cử tri) về hoạt động của mình. Tất cả các cơ quan khác


trong bộ máy nhà nước đều do cơ quan quyổn lực nhà nước trực tiếp hay gián
tiếp thành lập ra và phải chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề quan
trọng nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại của đất nước. Giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Hội đồng nhân dân các cấp căn cứ vào Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ
quan nhà nước cấp trên để ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương về kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương; về biện pháp ổn định và
nâng cao đời sống của nhân dân; hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho
và làm tròn nghĩa vụ với cả nước.
- Chủ tịch nước.
Theo Điểu 101 Hiến pháp 1992, "Chủ tịch nước là người đứng đầu
nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và
đối ngoại".
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội. Chủ

tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước
được trao nhiều nhiệm vụ, quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Tuy vậy, về mặt tổ chức bộ máy nhà nước, Chủ tịch nước
không phải một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ
quan quản lý hay cơ quan xét xử và kiểm sát. Chủ tịch nước là cơ quan có vị
trí đặc biệt giữ vai trị quan trọng trong sự phối hợp giữa các bộ phận của bộ
máy nhà nước.
- Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (còn gọi là các cơ quan chấp
hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước) bao gồm Chính phủ, các
bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và ủ y ban nhân dân


các cấp. Các cơ quan quản lý nhà nước do các cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp hình thành ra và phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có thẩm
quyền chung. Các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ là
các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, là cơ quan có thẩm quyền
chun mơn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh
vực chuyên môn nhất định.
ủ y ban nhân dân các cấp là các cơ quan quản lý nhà nước ở địa
phương, là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi
mặt đời sống xã hội ở địa phương. Các sở, phịng, ban chun mơn thuộc ủy
ban nhân dân là cơ quan có thẩm quyền riêng thực hiện chức nãng quản lý
chuyên môn trong phạm vi địa phương.
Các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm một số lượng rất lớn các cơ
quan trực tiếp tổ chức và quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm
vi cả nước hoặc ở từng địa phương.
-


Hệ thống các cơ quan xét xử bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định. Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập Tịa án đặc biệt. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với
Tòa án các cấp, chế độ cử Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án quân sự. Chế độ bầu hội thẩm nhân dân được
thực hiện đối với các Tòa án nhân dân địa phương.
Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án
quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hệ thống cơ quan xét xử là loại cơ quan nhà nước có chức năng đặc
thù. Tính đặc thù này thể hiện: trong hoạt động của mình Tịa án nhân dân các


cấp phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của mình trước



quan quyền

lực nhà nước cùng cấp, nhưng trong hoạt động xét xử lại độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Theo Hiến pháp 1992 và luật tổ chức Tòa án nhân dân hiện
hành, Tòa án nhân dân xét xử theo các nguyên tắc: Khi xét xử, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai, trừ
trường hợp do luật định; xét xử tập thể và quyết định theo đa số; bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo; bảo đảm cho cơng dân thuộc các dân tộc dùng
tiếng nói chữ viết của dân tộc mình trước Tịa án.
-


Hệ thống các cơ quan kiểm sát gồm có: Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao, các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện Kiểm sát quân sự.
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền
địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng vũ trang và công
dân, thực hành quyền công tố nhà nước. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa
phương kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan chính quyền địa
phương, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân, thực hành quyền
công tố trong phạm vi luật định.
Hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ
trưởng. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm và phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội và trong thời gian Quốc hội khơng họp thì chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước ủ y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ
hệ thống Viện Kiểm sát, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Viện
trưởng, các Phó Viện trưởng, các kiểm sát viên, các điều tra viên của Viện
Kiểm sát nhân dân địa phương, Viện Kiểm sát quân khu và khu vực.
Nếu căn cứ vào cấu trúc hành chính - lãnh thổ nhà nước thì các cơ
quan nhà nước trong bộ máy nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
gồm có:


- Các cơ quan nhà nước ở Trung ương bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Đây là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ở Trung ương. Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thành lập ra Chính
phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội phân
cơng cho Chính phủ quyền hành pháp, phân cơng cho Tòa án nhân dân tối cao
và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quyền tư pháp. Toàn bộ hoạt động của các
cơ quan nhà nước này đều đặt dưới sự giám sát tối cao của Quốc hội.
- Các cơ quan nhà nước ở địa phương gồm có: Hội đồng nhân dân và
ủ y ban nhân dân các cấp. Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên,
ủ y ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Đặc điểm chung của các cơ quan nhà nước ở địa phương là, các cơ
quan nhà nước ở địa phương được Nhà nước tổ chức ra theo quy định của pháp
luật có nhiệm vụ tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương. Căn cứ
vào Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, các cơ
quan nhà nước địa phương có nhiệm vụ triển khai tổ chức thực hiện các văn
bản đó, đồng thời cũng phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của các tầng lớp
dân cư ở địa phương.
Trong lịch sử phát triển của Nhà nước, việc tổ chức chính quyền địa
phương của nhiều nước trên thế giới thường được áp dụng bằng nhiều hình
thức khác nhau:
- Tập quyền: Tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào cơ quan nhà
nước Trung ương. Các cơ quan nhà nước Trung ương có tồn quyền quyết
định những vấn đề về tổ chức và hoạt động của Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương. Các cơ quan chính quyền ở địa phương chỉ là một bộ phận của
Nhà nước thống nhất và thực hiện những thẩm quyềỉi do Nhà nước giao cho.


- Tản quyền: Ở hình thức này quyền lực nhà nước tập trung dứt khoát
vào cơ quan nhà nước Trung ương. Nhà nước ở Trung ương cử đại diện của
mình về các đơn vị hành chính lãnh thổ ở địa phương để tổ chức thực hiện

quyền lực nhà nước. Cơ quan nhà nước Trung ương trực tiếp thực hiện quyền
lực nhà nước tại địa phương thông qua các cơ quan, các nhân viên do Nhà
nước Trung ương trực tiếp bổ nhiệm, thành lập, ủy quyền.
- Phân quyền: Nhà nước trao quyền tự chủ cho các cơ quan chính
quyền nhà nước ở địa phương. Các cơ quan chính quyền nhà nước ở địa
phương có quyền tự quyết định những vấn đề ở địa phương mình trong khn
khổ pháp luật cho phép.
1.1.3. Quá trình xây dựng và phát triển bộ máy nhà nước ở
nước ta
+ Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946
Ngay sau khi Cách mạng Tháng tám thành công, nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, tại phiên họp đầu tiên, Chính phủ lâm thời đã xác định
sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và nhân dân ta trong việc bảo vệ nền độc
lập dân tộc và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 8 tháng 9 năm
1945 Chủ tịch lâm thời ký sắc lệnh số 14 quy định về thể lệ tổng tuyển cử bầu
quốc dân đại hội (Quốc hội lập hiến). Ngày 6 tháng 1 năm 1946, nhân dân cả
nước đã đi bầu cử để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước ta. Tại kỳ họp thứ hai
tháng 11 năm 1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta ngày 9 tháng 11 năm 1946.
ế

Theo Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước ta được tổ chức thành ba hệ
thống các cơ quan nhà nước ở năm cấp hành chính - lãnh thổ: Trung ương, cấp
bộ, cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, cấp huyện, cấp xã.
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước gồm có Nghị viện nhân
dân và Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân được tổ chức ở hai cấp là cấp
tỉnh và Gấp xã, còn ở cấp bộ và cấp huyện khồng có Hội đồng nhân dân. Nghị


viện nhân dân do cử tri cả nước bầu ra, Hội đồng nhân dân ở địa phương nào

thì do cử tri ở địa phương đó bầu ra. Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cơ cấu tổ chức của Nghị viện
có Ban Thường vụ Nghị viện, cịn Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương có quyền quyết nghị những vấn đề thuộc địa
phương mình.
- Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước gồm có: Chính phủ, ủ y ban
hành chính các cấp. Chính phủ do Nghị viện bầu ra gồm có Chủ tịch nước,
Phó Chủ tịch nước và nội các. Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của
tồn quốc có trách nhiệm thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện,
ủ y ban hành chính ở địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra.
Riêng ủ y ban hành chính cấp bộ do Hội đồng nhân dân các tỉnh trong bộ bầu
ra. ủ y ban hành chính cấp huyện do hội đồng nhân dân các xã trong huyện
bầu ra. ủ y ban hành chính chịu trách nhiệm trước cấp trên và đối với Hội
đồng nhân dân địa phương mình.
- Hệ thống các cơ quan tư pháp gồm có: Tịa án tối cao, các Tịa án
phúc thẩm, các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Các Tòa án là các cơ quan xét xử.
Thẩm phán của các Tịa án đều do Chính phủ bổ nhiệm. Trong khi xét xử các
Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật.
+ Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1959
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước gồm có Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. So với Nghị viện theo Hiến pháp 1946, Quốc hội trong
Hiến pháp 1959 đã được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Trong tổ chức của Quốc hội ngoài ủ y ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan
thường trực của Quốc hội còn thành lập một số cơ quan chuyên môn như ủ y
ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách, ủ y ban dự án pháp luật và các ủ y ban
khác. Hội đồng nhân dân được thành lập ở các địa phương. Nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội và Hội đồng nhân dân được quy định cụ thể hơn.


- Chủ tịch nước.

So với Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, thì Chủ tịch nước theo
Hiến pháp 1959 được quy định thành một chương riêng (chương V). Chủ tịch
nước là Nguyên thủ Quốc gia, thay mặt cho nước về đối nội và đối ngoại chứ
khơng cịn là người đứng đầu Chính phủ, thẩm quyền của Chủ tịch nước được
quy định trong Hiến pháp 1946 như: Quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại
các Luật mà Nghị viện đã thông qua, quyền yêu cầu Nghị viện xem xét lại vấn
đề bất tín nhiệm nội các sau khi Nghị viện đã biểu quyết khơng tín nhiệm...
đến Hiến pháp 1959 khơng quy định nữa.
- Hệ thống các cơ quan quản lý gồm có Hội đồng Chính phủ và ủ y
ban hành chính các cấp. So với Chính phủ theo Hiến pháp 1946, Chính phủ
theo Hiến pháp 1959 đổi tên thành Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ
được xác định là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước. Trong tổ chức của Hội đồng
Chính phủ có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm
các ủ y ban Nhà nước, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, trong tổ
chức của Hội đồng Chính phủ khơng có Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước, các Thứ
trưởng như trước đây. Chế độ hoạt động tập thể của Hội đồng Chính phủ được
đề cao hơn so với trước đây. ủ y ban hành chính vẫn được tổ chức ở ba cấp
hành chính (cấp tỉnh, cấp huyộn, cấp xã). Vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền
hạn của ủ y ban hành chính được quy định cụ thể hơn trước đó.
- Hệ thống các cơ quan xét xử cũng có sự thay đổi so với hệ thống các
cơ quan tư pháp theo Hiến pháp 1946. Hệ thống các cơ quan xét xử gồm có
Tịa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự
được tổ chức theo cấp hành chính - lãnh thổ. Chế độ bầu Thẩm phán được thực
hiện ở Tòa án nhân dân các cấp thay thế cho chế độ bổ nhiệm trước đó. Phụ
thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân.
- Hệ thống các cơ quan kiểm sát là một hệ thống mới ưong bộ máy
nhà nước. Từ nhiệm vụ công tố nhà nước trước đây, các cơ quan kiểm sát được



Nhà nước giao thêm nhiều nhiệm vụ mới như: Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án, kiểm sát giam
giữ và cải tạo. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu
và bãi miễn, các Phó Viện trưởng, các kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao do ủ y ban Thường vụ Quốc hội cử. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
các kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
+ Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước gồm có Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội có sự thay đổi rất cơ
bản. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tổ
chức của Quốc hội có Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Nhà
nước vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội vừa là
Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các cơ quan
chuyên môn cũng được thành lập thêm gồm Hội đồng dân tơc, Hội đồng quốc
phịng và 7 ủy ban.
Hội đồng nhân dân vẫn được thành lập ở các cấp hành chính, cấp tỉnh,
cấp huyện, cấp xã.
- Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước gồm có Hội đồng bộ trưởng,
ủ y ban nhân dân các cấp. Theo Hiến pháp 1980, hệ thống các cơ quan quản lý
có những thay đổi so với hệ thống các cơ quan quản lý theo Hiến pháp 1959.
Hội đồng Chính phủ được đổi tên thành Hội đồng Bộ trưởng, ủ y hành chính
được đổi tên thành ủ y ban nhần dân. Tất nhiên ở đây khồng chỉ đơn thuần là
thay đổi về tên gọi mà có sự thay đổi về tổ chức và hoạt động. Trong tổ chức
của Hội đồng bộ trưởng đã thành lập Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng nhằm đề
cao chế độ làm việc tập thể của Hội đồng Bộ trưởng. Do chế độ làm việc tập
trung và tập thể cho nên vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng



và Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp bị hạn chế, làm ảnh hưởng đến hiệu lực,
hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Hệ thống các cơ quan xét xử về cơ bản giống hệ thống các cơ quan
xét xử theo Hiến pháp 1959 nhưng có điểm mới là chuyển giao cơng tác quản
lý tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương cho cơ quan quản lỷ nhà nước
(trước đó thuộc quyền quản lý của Tòa án nhân dân tối cao).
- Hệ thống các cơ quan kiểm sát giống như hệ thống Viện Kiểm sát
nhân dân theo Hiến pháp 1959. Đây là loại cơ quan ít có sự thay đổi về tổ
chức và hoạt động.
+ Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992
- Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước gồm có Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Theo Hiến pháp 1992 tổ chức và hoạt động của Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp có sự thay đổi cơ bản thể hiện sự đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta đối với các cơ quan quyền lực nhà nước. Trong tổ
chức của Quốc hội đã thành lập ủ y ban Thường vụ Quốc hội thay cho Hội
đồng Nhà nước trưóc đây. ủ y ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực
của Quốc hội; thành lập một số ủ y ban mới: ủ y ban quốc phòng và an ninh,
ủ y ban về các vấn đề xã hội, sát nhập một số ủy ban như ủ y ban văn hóa,
giáo dục và ủ y ban thanh thiếu niên nhi đồng trước đây, nay được sát nhập
thành ủ y ban văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên nhi đồng; một số ủy ban
được mở rộng như ủ y ban khoa học kỹ thuật trước đây nay được mở rộng
thành ủ y ban khoa học, công nghệ và môi trường. Để bảo đảm nâng cao hơn
nữa hoạt động của Quốc hội, Hiến pháp 1992 quy định Hội đồng dân tộc và
các ủ y ban của Quốc hội có một số thành viên làm việc theo chế độ
chuyên trách.
Đối với Hội đồng nhân dân cũng có sự thay đổi về tổ chức. Thường
trực Hội đồng nhân dân được thành lập ở Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện. Hội đồng nhân dân cấp xã bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng



nhân dân. Hội đồng nhân dân không bầu ra các Thẩm phán của Tòa án nhân
dân địa phương như trước đây, nhưng lại được giao quyền giám sát đối với
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Chủ tịch nước.
Theo Hiến pháp 1980, thì trong tổ chức của Quốc hội có Hội đồng
Nhà nước với địa vị pháp lý vừa là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên
của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Đến Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước là một chế định riêng được quy
định ở chương VII. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh
vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hệ thống các cơ quan quản lý có sự thay đổi cơ bản so với hệ thống
các cơ quan quản lỷ theo Hiến pháp 1980. Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp
1980 nay được đổi tên thành Chính phủ. Tính chất, vị trí của Chính phủ được
xác định lại, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như
vậy Chính phủ khơng cịn là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Quốc
hội như Hội đồng Bộ trưởng trước đây. Trong các thành viên của Chính phủ
thì Thủ tướng là đại biểu Quốc hội cịn các thành viên khác của Chính phủ
khơng nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Tổ chức bộ máy của Chính phủ
gọn nhẹ hơn, khơng có cơ quan thường trực. Thẩm quyền của Chính phủ và
thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đã được phân định một cách rõ ràng
hơn. Vai trị, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ được đề cao. Thủ tướng
Chính phủ có thực quyền hơn so với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trước đó,
nhiều nhiệm vụ, quvền hạn trước đây phải do tập thể Hội đồng Bộ trưởng mới
có quyền quyết định nay đã chuyển giao cho Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng



×