1 xiị
Vi.
V I Ệ N NGHÍ Éi ^ CỮU
ứ.; ỉ H<*<’ I . Ị ậ X H À M ộ í
■MÍA N Ư Ớ C VÃ P K ẳ i LÍ Í- Ì T
iNt.rU
8' -N M \ í i
V ĩ
> ^C;r
H ẤN ríììỆNQg
, H ốiẩ ■
: ' K‘:; hgp Q J j : HÔ é \ ị ặ ;
*
M. '
Á '
•
-
p
■.
-
. Sỉ ‘ M
- T.-5ÍĨ2
rv* ’ (
I M *\
Ị
VIỆN NGHIÊN CỨU
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG
HỒN THIỆN QUY TRlNH THƠNG QUA LUẬT
TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI ở VIỆT NAM
■
■
■
■
Chuyên ngành: Luật Nhà nước- Hành chính
M ã số: 5.05.05
____________________
I
THƯ VIỆN
I TRƯỜNG ĐAI HOCỤIẬT HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Hồng Anh
HÀ NỘI - 2003
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
5
CHƯƠNG I.
MỘT SỐ VẤN ĐỂ l ý l u ậ n v e q u y t r ì n h t h ơ n g
QUA LUẬT TẠI KỲ HỌP QUỐC HỘI
9
1.1
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội và
quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
9
1.1.1.
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội
10
1.1.2.
Quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
22
1.2.
Sơ lược về lịch sử phát triển quy trình thơng qua
luật tại kỳ họp Quốc hội
30
1.2.1.
Giai đoạn từ 1945- 1959
30
1.2.2.
Giai đoạn từ 1959- 1980
31
1.2.3.
Giai đoạn từ 1980- 1992
33
1.2.4.
Giai đoạn từ 1992 đến nay
34
Kinh nghiệm của một sô nước về quy trình thơng
qua luật
38
THỰC TRẠNG QUY TRÌNH THƠNG QUA LUẬT TẠI
KỲ HỌP QUỐC HỘI
43
1.3.
CHƯƠNG II.
2.1
Quy định của pháp luật hiện hành về quy trình
thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
43
2.2.
Thực trạng hoạt động thơng qua luật tại kỳ họp
Quốc hội
48
2.2.1.
Thuyết trình dự án luật
49
2.2.2.
Thuyết trình báo cáo thẩm tra
51
2.2.3.
Thảo luận và biểu quyết những nội dung cơ bản của dự
án luật
53
2.2.4.
Chỉnh lý dự thảo luật
61
2.2.5.
Thuyết trình về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật
64
2.2.6.
Đọc dự thảo được chỉnh lý và thảo luận
66
2.2.7.
Biểu quyết thông qua dự thảo luật
67
2.3.
Một sô nhận xét, đánh giá về thực trạng thông qua
luật tại kỳ họp Quốc hội
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP HỒN THIỆN QUY TRÌNH THƠNG
68
73
QUA LUẬT TẠI KỲ HỌP Q uốc HỘI
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình thơng qua
luật tại kỳ họp Quốc hội
73
3.1.1.
Tăng cường chức năng lập pháp của Quốc hội nhằm
đáp ứng u cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
73
3.1.2.
Hoàn thiện quy trình thơng qua luật góp phần bảo đảm
cho Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp
75
Nguyên tác chỉ đạo trong việc đổi mới quy trình
thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
76
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
76
3.2.
3.2.1.
3.2.2. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ trong quy trình thông qua
luạt
76
3.2.3. Nguyên tắc bảo đảm sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong hoạt động lập pháp của Quốc hội
77
3.2.4. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN trong quy trình
thơng qua luật
78
3.2.5. Bảo đảm ngun tắc khoa học, ngun tắc khách quan
trong quy trình thơng qua luật
80
3.3.
Một sơ giải pháp nhằm hồn thiện quy trình thơng
qua luật tại kỳ họp Quốc hội
3.3.1.
3.3.2.
81
Đổi mới thủ tục thảo luận dự án luật
Tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Chủ
phiên họp Quốc hội
80
toạ
83
3.3.3. Quy định về hình thức phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc
hội
84
3.3.4. Hoàn thiện quy định về thủ tục biểu quyết những nội
dung cơ bản của dự án luật trong lần trình thứ nhất
85
3.3.5. Hồn thiện công tác chỉnh lý dự thảo luật
86
3.3.6. Cải tiến cơng tác giải trình, tiếp thu ý kiến của Đại
biểu Quốc hội
89
3.3.7. Tăng cường vai trò của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban
của Quốc hội
91
3.3.8. Nghiên cứu việc quy định về trình tự thơng qua luật
theo thủ tục rút gọn trong trường hợp cấp thiết
92
3.3.9. Cải tiến một số cơng tác khác liên quan đến quy trình
thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
93
Kết luận
Tài liệu tham khảo
97
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong thời gian qua kể từ khi Nhà nước ta ban hành Hiến pháp năm
1992, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã đạt được những kết quả rất quan
trọng. Quốc hội đã ban hành được một số lượng lớn các luật với chất lượng
ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, công tác lập pháp của Quốc hội vẫn còn
nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu bức xúc của tình hình thực
tiễn đang đặt ra. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương tiếp tục
nghiên cứu để đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội.
Để đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội, chúng ta phải tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó có việc tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp
và từng khâu trong quy trình đó. Quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
là một trong những giai đoạn rất quan trọng của quy trình lập pháp, bởi lẽ đây
là giai đoạn kết thúc của quá trình lập pháp của Quốc hội. Có thể nói rằng giai
đoạn này đóng một vai trị quyết định đối với nội dung và chất lượng của các
văn bản luật do Quốc hội ban hành. Vì vậy việc nghiên cứu những vấn đề
pháp lý và thực tiễn xung quanh hoạt động thông qua luật có ý nghĩa quan
trọng đối với việc tiếp tục đổi mới và hồn thiện cơng tác lập pháp của Quốc
hội nói riêng và hoạt động của Quốc hội nói chung hiện nay.
2. Mục đích của luận văn, phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề pháp lý của
quy trình thơng qua luật, đánh giá thực trạng hoạt động này của Quốc hội, tìm
ra nguyên nhân của thực trạng; trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm hồn
thiện quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác lập pháp của Quốc hội.
Để đạt được mục đích nêu trên, luận vãn có phạm vi nghiên cứu như sau:
- Phân tích đánh giá một số vấn đề lý luận về hoạt động thông qua luật
và quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội; lịch sử phát triển của quy
trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội; kinh nghiệm của một số nước về vấn
đề này.
- Đánh giá thực trạng quy trình xem xét, thông qua luật tại kỳ họp Quốc
hội để rút ra những mặt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp cụ thể để hoàn thiện quy trình thơng qua luật tại kỳ
họp Quốc hội, nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác
xây dựng pháp luật của Quốc hội.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của triết
học Mác-Lênin, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các nguyên tắc của lý luận về nhà nước và pháp luật và các
quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới. Các
phương pháp được sử dụng trong Luận văn chủ yếu gồm phân tích, tổng hợp,
so sánh để tìm hiểu thực trạng, đánh giá tình hình, xác định các tồn tại, bất
hợp lý trong quy trình xem xét, thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội, từ đó đưa
ra những nhận xét, kiến nghị giải pháp cụ thể để góp phần hồn thiện quy
trình này.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Quy trình lập pháp của Quốc hội nói chung và quy trình thơng qua luật
tại kỳ họp Quốc hội nói riêng là những vấn đề đang rất được quan tâm trong lý
luận và thực tiễn hoạt động của Quốc hội nước ta. Hiện nay, đã có một số bài
viết và cơng trình nghiên cứu về vấn đề đổi mới công tác lập pháp của Quốc
hội, về đổi mới quy trình lập pháp của Quốc hội, như: “Một số vấn đề về nâng
cao chất lượng lập pháp của Quốc hội”, Nguyễn Văn Yểu- Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, số 1-1999; “Về đổi mới công tác lập pháp”, Vũ Mão - Tạp chí
Cộng sản, số 8- 7/1995; “Suy nghĩ về đổi mới quy trình lập pháp của Quốc
hội” , TS.Ngơ Đức Mạnh- Tạp chí Cộng sản, số 22- 11/2000; “Một số vấn đề
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội”, TS Phan
Trung Lý- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3- 1997.. .Đây là những bài viết,
cơng trình có phạm vi nghiên cứu là cả quy trình lập pháp của Quốc hội mà
không đi sâu nghiên cứu cụ thể về quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc
hội. Đi sâu về quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội có Đề tài nghiên
cứu của Văn phịng Quốc hội: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thông qua
dự án luật tại kỳ họp Quốc hội” năm 1994-1999, do TS. Nguyễn Văn Thuận
làm Chủ nhiệm đề tài (tác giả Luận văn làm Thư ký đề tài); “Đổi mới quy
trình thơng qua dự án luật trong hoạt động lập pháp của Quốc hội”, TS.
Nguyễn Văn Thuận, Tiểu luận tốt nghiệp lớp lý luận chính trị cao cấp khố
1997-2000, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí M inh... Tuy nhiên, các đề tài
này được nghiên cứu từ trước khi Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; các kiến nghị của
đề tài, sau này cũng đã được quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (về quy trình thơng qua luật
tại hai kỳ họp Quốc hội); đề tài cũng chỉ mới đề cập rất sơ lược đến cơ sở ỉý
luận của quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội. Hiện nay cịn chưa có
bài viết nào đánh giá cụ thể thực trạng xem xét, thông qua luật tại kỳ họp
Quốc hội từ sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
để từ đó rút ra những ưu, nhược điểm của quy trình này, đề xuất các biện pháp
nhằm tiếp tục đổi mới quy trình thơng qua luật.
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung của Luận văn gồm có 3
chương được bố cục như sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quy trình thơng qua luật tại kỳ họp
Quốc hội.
C h ư ơ n g ll: Thực trạng quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Chương III: Các giải pháp hoàn thiện quy trình thơng qua luật tại kỳ
họp Quốc hội.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ QUY TRÌNH
THƠNG QUA LUẬT TẠI KỲ HỌP Q u ố c HỘI
1.1.
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội và quy trình
thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Một trong những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật.
Trong hệ thống các văn bản pháp luật, các luật do Quốc hội thông qua là
những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, có giá trị pháp lý cao, điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống. Các văn bản dưới
luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành phải phù hợp vói ỉuật
và khơng được trái với các quy định của luật. Mọi cơ quan Nhà nước, đơn vị
lực lượng vũ trang, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân phải chấp
hành dẩy đủ pháp luật. Do tính chất và tầm quan trọng như vậy ncn việc xây
dựng luật phải tuân theo một quy trình rất chặt chẽ, bao gồm nhiều giai đoạn
do pháp luật quy định. Mỗi giai đoạn của quy trình xây dựng luật có mối liên
quan mật thiết với nhau, trong đó giai đoạn thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội
có vai trị hết sức quan trọng đối với công tác lập pháp của Quốc hội. Bởi vì,
chính ở giai đoạn này trí tuệ của Quốc hội được tập trung cao nhất trong việc
xem xét và quyết định việc thông qua hay không thông qua dự án luật.
Hoạt động thơng qua luật và quy trình thơng qua luật là hai mặt của
một vấn đề. Không thể nói đến hoạt động thơng qua luật nếu khơng nói đến
quy trình thơng qua luật và ngược lại. Hoạt động thơng qua luật phải được tiến
hành theo một quy trình nhất định nhằm tránh sự tuỳ tiện, bảo đảm cho hoạt
động này có chất lượng, hiệu quả, đạt được mục đích đề ra. Mặt khác, quy
trình thơng qua luật chỉ có ý nghĩa nếu như hoạt động thơng qua luật được tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục được quy định trong quy trình đó.
1.1.1. Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
1.1.1.1 Khái niệm thông qua luật.
Trong Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “thông qua” được định nghĩa là
việc “cơ quan hay người có thẩm quyền đồng ý chấp thuận cho được thực
hiện, sau khi đã xem xét, thảo luận” [44, tr.952]. Như vậy, hoạt động thông
qua luật nếu hiểu một cách đơn giản thì đó là hoạt động của một (hoặc nhiều)
chủ thể được tiến hành với mục đích xem xét việc có đồng ý chấp thuận để
một dự thảo luật trở thành văn bản luật hay không. Hiện nay, ở một số tài liệu
có cách gọi khác về hoạt động này: “thông qua luật” hoặc “thông qua dự án
luật”. Hai cách gọi này khác nhau ở chỗ: cách gọi đầu muốn nhấn mạnh đến
kết quả của việc biểu quyết; còn cách gọi thứ hai chú trọng tới quy trình, thủ
tục biểu quyết thông qua dự án luật [1, tr.70]. Tuy có các cách gọi khác nhau,
nhưng về bản chất, các thuật ngữ “thông qua luật’ và “thông qua dự án luật”
đều cùng nói về hoạt động thơng qua các dự án luật tại kỳ họp Quốc hội.
- V ề phạm vi của hoạt động thơng qua luật:
Theo nghĩa hẹp thì hoạt động thông qua luật chỉ bao gồm giai đoạn
Quốc hội biểu quyết thông các dự thảo luật tại kỳ họp Quốc hội. Cịn theo
nghĩa rộng, hoạt động thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội được hiểu là cả quá
trình Quốc hội xem xét, thảo luận, cho ý kiến và biểu quyết thông qua dự thảo
luật. Trong các văn bản pháp luật hiện hành cũng quy định về giai đoạn này
theo một phạm vi rộng, bao gồm tất cả các hoạt động từ trình dự án luật, trình
báo cáo thẩm tra, thảo luận về dự án luật tại kỳ họp, chỉnh lý dự thảo luật cho
đến khi biểu quyết thông qua dự thảo luật và gọi là “xem xét, thông qua dự án
luật tại kỳ họp Quốc hội” (Mục 8 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các Điều 45, 45a, 45b của Luật này).
Trong Luận văn này, việc nghiên cứu về quy trình thơng qua luật tại kỳ họp
Quốc hội được hiểu theo nghĩa rộng nhằm bảo đảm tính tồn diện và đầy đủ
của việc nghiên cứu về quy trình.
-V ề chủ thể thơng qua luật:
Chủ thể có thẩm quyền thơng qua luật là Quốc hội. Theo quy định tại
Điều 83 Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức Quốc hội, “Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”. Quốc hội có ba chức năng cơ bản đó
là chức năng lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Trong ba chức năng đó thì chức năng lập hiến và lập pháp là chức năng cơ bản
và quan trọng nhất của Quốc hội. Trong tất cả các quyền lực Nhà nước, về bản
chất, quyền lập pháp là loại quyền lực Nhà nước cao nhất. Theo Montesquieu,
quyền lập pháp do bản chất của nó, thuộc về tồn thể dân chúng, “ quyền lập
pháp thể hiện ý chí chung của quốc gia; quyền hành pháp thì thực hiện ỷ chí
chung đó”, “quyền hành pháp có những giới hạn theo bản chất của nó”, cịn
“quyền tư pháp dường như khơng là cái gì cả” [18, tr. 102-108]. Nói cách
khác, quyền hành pháp xuất phát từ việc chấp hành quyền lập pháp. Quyền tư
pháp cũng được thực hiện trên cơ sở các quy định từ quyền lập pháp. Tất cả
những điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của quyền lập pháp trong hệ thống
quyền lực nhà nước.
Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội nước ta xuất phát từ vị trí, tính
chất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Chỉ có Quốc hội mới có quyền
định ra các quy phạm pháp luật (các luật) có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh
các quan hệ xã hội cơ bản nhất. Các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan Nhà nước khác phải căn cứ vào các văn bản luật và không được trái với
quy định của luật.
Chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội đã được quy định khá rõ
nét trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và Hiến pháp năm 1992. Ngoài
Hiến pháp 1946 quy định ở nguyên tắc chung "Nghị viện nhân dân đặt ra các
pháp luật" (Điều 23), thì cả 3 Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đều khẳng định
Quốc hội là "cơ quan duy nhất có quyền lập pháp". Qua mỗi bản Hiến pháp,
chức năng lập pháp của Quốc hội được kế thừa, phát triển và ngày càng được
làm rõ, được quy định cụ thể hơn. Đặc biệt từ Hiến pháp 1992, về mặt pháp lý
cũng như trên thực tế, quyền lập pháp của Quốc hội đang từng bước được
hoàn thiện: Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng
năm và tồn khố; Uỷ ban thường vụ Quốc hôi chỉ đạo phân công soạn thảo,
kiểm tra và giám sát việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Hội
đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội khơng những có trách nhiệm thẩm tra,
mà cịn tham gia vào việc chỉnh lý, hồn thiện các dự thảo luật; đại biểu Quốc
hội có vai trị rất quan trọng trong việc thảo luận, đóng góp ý kiến vào dự án;
Quốc hội thực sự thực hiện quyền quyết định việc thông qua các luật.
Quyền lập pháp là thẩm quyền ban hành các quy phạm luật được thực
hiện bằng hoạt động quyết định về luật của Quốc hội và uỷ quyền của Quốc
hội cho u ỷ ban thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh. Trong quá trình lập pháp có
sự tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan Nhà nước. Trong giai đoạn thông qua
luật tại kỳ họp Quốc hội cũng vậy, cần có sự tham gia của rất nhiều chủ thể:
thuyết trình dự án luật của cơ quan trình dự án; thuyết trình báo cáo thẩm tra
của cơ quan thẩm tra; tiếp thu ý kiến, chỉnh lý dự án luật của cơ quan chủ trì
thẩm tra, cơ quan trình dự án, u ỷ ban pháp luật, Bộ tư pháp và các cơ quan
hữu quan khác dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội...Hoạt động
của các chủ thể này có mối liên quan chặt chẽ với nhau và đều hướng tới một
mục đích chung là phục vụ trực tiếp cho hoạt động thông qua luật của Quốc
hội tại kỳ họp.
- Về đối tượng được xem xét, thông qua trong hoạt động thơng qua luật:
Hiện nay cịn có các ý kiến khác nhau về đối tượng được Quốc hội xem
xét, thơng qua. Có ý kiến cho rằng, đối tượng được xem xét, thông qua trong
hoạt động thông qua luật là dự án luật (bao gồm dự thảo luật, tờ trình, các tài
liệu khác); ý kiến khác lại cho rằng đối tượng được Quốc hội xem xét, thông
qua là dự thảo luật. Bởi lẽ, trong quy định của các văn bản luật chưa thật nhất
quán khi nào thì sử dụng thuật ngữ “dự án luật”, khi nào thì sử dụng thuật ngữ
“dự thảo luật”. Ví dụ, Điểm đ Khoản 2, Điều 45 Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (năm 1996) quy định “Quốc hội thông qua dự án luật bằng
cách biểu quyết. .
Điểm c Khoản 3, Điều 45b Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì lại quy định Dự thảo
luật được thơng qua khi có q nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán
thành”; nhưng cũng ngay tại điểm này sau đó lại quy định “Trong trường hợp
dự án luật chưa được thông qua..
Về vấn đề này, chúng tơi cho rằng có sự khác nhau giữa các khái niệm
“dự án luật” và “dự thảo luật”: khái niệm “dự án luật” là khái niệm rộng hơn
“dự thảo luật”. Trong “dự án luật” khơng chỉ có dự thảo luật mà cịn có cả Tờ
trình và trong nhiều trường hợp cịn có cả các tài liệu tham khảo, dự thảo các
văn bản hướng dẫn thi hành luật.. .Tất cả các tài liệu kèm theo dự thảo luật có
mục đích là thuyết minh làm rõ các nội dung của dự thảo, ỉàm căn cứ để cho
đại biểu Quốc hội tham khảo khi biểu quyết thông qua dự thảo luật.
Mặt khác, không phải bất kỳ một dự án luật nào cũng trở thành đối
tượng để Quốc hội xem xét, thông qua. Theo quy định của Luật tổ chức Quốc
hội, các dự án luật trước khi trình ra Quốc hội phải được Hội đồng dân tộc
hoặc Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Như vậy, chỉ có các dự án luật
đã được Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra thì
mới có thể trở thành đối tượng để Quốc hội xem xét. Đổng thời, dự án luật
trước khi trình ra Quốc hội cũng phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý
kiến. Với tư cách là cơ quan dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp , xem
xét chuẩn bị các các dự án luật, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm
khơng đưa vào chương trình kỳ họp những dự án luật chưa được chuẩn bị kỹ,
chất lượng kém. Điều 14 Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
quy định: “Ợỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định việc trình dự án
Luật tại kỳ họp Quốc hội”. Tất cả những quy định này nhằm bảo đảm cho dự
án luật được trình ra Quốc hội được chuẩn bị chu đáo, có chất lượng tốt.
Qua một số phân tích trên đây, chúng tơi đưa ra khái niệm về hoạt động
thông qua luật như sau: Thông qua luật là toàn bộ các hoạt động do các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trật tự do luật định từ hoạt động
thuyết trình dự án luật, thuyết trình báo cáo thẩm tra, thảo luận về dự án luật,
chỉnh lý dự án luật đến hoạt động biểu quyết của Quốc hội theo nguyên tắc đa
sô'để đưa một dự thảo luật trở thành luật.
1.1.1.2 Tính chất của hoạt động thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Tính chất của một hoạt động là những đặc điểm riêng, có tính đặc thù
nhằm phân biệt hoạt động này với mọi hoạt động khác. Là một trong những
hoạt động thường xuyên, chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội, việc xem
xét, thông qua luật có những tính chất đặc thù riêng, khác với các hoạt động
khác, cụ thể là:
-
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động thể hiện tập
trung và rõ nét nhất chức năng lập pháp của Quốc hội.
Việc thảo luận và thông qua luật tại kỳ họp thuộc thẩm quyền của Quốc
hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến
và lập pháp. Cùng với việc thông qua Hiến pháp, .việc thông qua luật là một
trong những thủ tục thể hiện cao nhất, rõ nét nhất quyền lực nhà nước của
Quốc hội. Đây là thủ tục mà qua đó dự án luật trở thành luật, chứa đựng các
quy phạm pháp luật tức là các quy tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm
thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Quốc
hội có chức năng lập pháp nhưng điều đó khơng có nghĩa là Quốc hội thực
hiện tất cả mọi công việc trong quy trình lập pháp. Để xây dựng một đạo luật
thì cần phải có các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đưa ra các kiến
nghị về luật; cơ quan được phân cơng trình dự án luật tổ chức việc soạn thảo
dự án; các cơ quan, tổ chức hữu quan đóng góp ý kiến về dự án luật.y.Tuy
nhiên, việc xem xét, quyết định thông qua hay không thông qua luật, một cơng
việc quan trọng nhất, có tính chất quyết định để dự án luật có thể trở thành luật
lại thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Quốc hội thực hiện công việc này ở giai
đoạn Quốc hội thông qua luật tại kỳ họp. Chính vì vậy có thể nói rằng hoạt
động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động thể hiện tập trung và rõ
nét nhất chức năng lập pháp của Quốc hội.
Việc thông qua luật là một hoạt động có tính pháp lý cao, phải tn theo
trình tự chặt chẽ được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao nhất như: Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, các đạo luật khác về
tổ chức bộ máy nhà nước, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nội
quy kỳ họp Quốc hội, các Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Ưỷ ban của Quốc hội. Mọi cơ quan, tổ chức có trách
nhiệm trong hoạt động xem xét, thơng qua luật đều có trách nhiệm phải tuân
theo các quy định này.
-
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động thê hiện
quyền lực nhân dân; thể hiện tính dân chủ trong hoạt động của Quốc hội.
Đây là hoạt động thể hiện bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta, của
chế độ ta. Thông qua thủ tục này, ý chí và nguyện vọng của nhân dân đã được
thể hiện trong các quy định của luật. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định tại
Điều 2 nguyên tắc: “Nhà nước CHXHCN Việt nam là Nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc vê nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dãn và đội ngũ trí thức”. Với bản chất dân chủ như vậy, thì các văn
bản pháp luật do Nhà nước ban hành để quản lý xã hội phải thể hiện được ý
chí và nguyện vọng của đơng đảo nhân dân. Và chỉ có làm như vậy thì chúng
ta mới có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội đạt hiệu quả. Điều này cũng đã
được V.I. Lênin khẳng định: “ Chúng ta chỉ có thể quản lý khi chúng ta thể
hiện đầy đủ điều mà nhân dân mong muốn” [45, tr.l 12].
Trên thực tế, với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, khi
xem xét, thông qua các dự án luật, Quốc hội đã chú trọng đến ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, thể hiện qua các hoạt động như: trước khi thông qua luật,
nhất là các đạo luật quan trọng liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, Nhà nước tổ chức việc công bố các dự án luật để nhân dân biết và
đóng góp ý kiến trực tiếp cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc gián
tiếp thơng qua các đại biểu Quốc hội (tại các kỳ tiếp xúc cử tri) để các đại
biểu nêu ý kiến về dự án khi thảo luận tại kỳ họp. Như vậy, trong hoạt động
thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội, nhân dân vừa thể hiện được quyền dân chủ
gián tiếp (thông qua các đại biểu Quốc hội), vừa thể hiện được quyền dân chủ
trực tiếp (thơng qua việc đóng góp ý kiến) trong việc xây dựng các đạo luật.
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động thể hiện rõ
nét tính dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Tính dân chủ trong hoạt động
của Quốc hội ngày càng đi vào bản chất, khắc phục được tính hình thức. Nếu
như trước đây, các kỳ họp Quốc hội thường được tiến hành trong một thời gian
ngắn thì nay các kỳ họp đã được tổ chức với thời gian dài hơn và trong mỗi kỳ
họp, Quốc hội cũng dành nhiều thời gian hơn cho việc xem xét và thông qua
luật. Không khí dân chủ trong việc thơng qua luật ngày càng được thể hiện rõ
í
nét với ý thức trách nhiệm cao của các đại biểu Quốc hội. Có những vấn đề, để
đi đến quyết định đã phải trải qua tranh luận sôi nổi với nhiều ý kiến khác
nhau [34].
- Hoạt động thông qua luật là khâu quan trọng trong q trình thể chế
hố các chủ trương, đường lối của Đảng thành các quy phạm pháp luật.
Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội cịn là khâu rất quan trọng
trong q trình thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng thành các quy
phạm pháp luật làm chuẩn mực cho mọi hành vi xử sự trong xã hội, tác động
tới mọi quan hệ xã hội nhằm làm cho các quan hệ này tồn tại và phát triển
theo ý chí và vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ở Việt
nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng thực hiện
quyền lãnh đạo của mình thơng qua Nhà nước và bằng nhiều hình thức, biện
pháp khác nhau, trong đó có việc đề ra các chủ trương, chính sách để Nhà
nước thể chế hoá thành pháp luật. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang phấn
đấu xây dựng đất nước với những mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh" và phải được quản lý bằng pháp luật. Do đó, việc xây dựng
và ban hành văn bản pháp luật nói chung và hoạt động thơng qua luật nói
riêng chính là hình thức để biến ý chí của nhân dân, chủ trương, đường lối của
Đảng thành quy phạm pháp luật có tính cưỡng chế, bắt buộc mọi người phải
thực hiện.
- Hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động quan trọng,
then chốt có quan hệ chặt chẽ với tất cả các hoạt động khác trong toàn bộ quy
trình xây dựng luật.
Quy trình xây dựng một đạo luật bao gồm rất nhiều giai đoạn khác nhau
từ việc lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; soạn thảo; thẩm tra; Ưỷ ban
thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến; lấy ý kiến nhân dân, ý kiến đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội về dự án luật; Quốc hội xem xét, thông qua
THUMIDNỆN
m Ờ M r â e s Ạ m é c iụ ịM Ị ịA NỘ!
' Ì PHỊNG Đ Ị C _
’
cho đến khi Chủ tịch nước công bố luật. Tuy nhiên, có thể chia quy trình này
ra làm các bước chủ yếu như sau:
+ Lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
+ Soạn thảo dự án luật;
+ Thẩm tra dự án luật;
+ Xem xét, thông qua luật;
+ Công bố luật.
Lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là một bước đặc thù trong
quy trình xây dựng pháp luật. Bản chất của việc lập Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh là việc kế hoạch hố cơng tác xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Việc lập Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh sẽ làm cho cơng tác xây dựng luật có tính khoa học, khả thi,
bảo đảm xác định được thứ tự ưu tiên trong công tác chuẩn bị các dự án luật
và từ đó làm cho các Quốc hội, cơ quan nhà nước hữu quan chủ động trong
việc soạn thảo, thẩm tra, xem xét, thông qua các dự án luật. Để một dự luật
được đưa vào quy trình xây dựng luật thì trước hết nó phải được xác định ở
trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Như vậy có thể nói đây là bước
đầu tiên của quy trình xây dựng luật theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, trên thực tế,
quy trình cụ thể của việc xây dựng một đạo luật thực sự bắt đầu từ giai đoạn
soạn thảo, giai đoạn thẩm tra, tiếp đó là đến giai đoạn xem xét, thơng qua và
cuối cùng là giai đoạn công bố luật.
Giai đoạn thứ nhất (soạn thảo dự án luật) là giai đoạn có tính chất làm cơ
sở, tiền đề cho giai đoạn thứ hai (thẩm tra dự án luật) và giai đoạn thứ ba
(thơng qua luật) cịn giai đoạn thứ tư (cơng bố luật) là hệ quả tất yếu của giai
đoạn thứ ba, đồng thời là bước hoàn tất cho toàn bộ quy trình xây dựng một
đạo luật, hay nói khác đi là bước hoàn tất cho toàn bộ các giai đoạn trước đó.
Khơng có giai đoạn thứ nhất và giai đoạn thứ hai thì khơng thể có các giai
đoạn tiếp theo, nghĩa là chưa có “chất liệu” để Quốc hội xem xét, thông qua.
Khơng có giai đoạn cuối cùng là giai đoạn cơng bố luật thì luật được Quốc hội
thơng qua sẽ chưa có hiệu lực và chưa được vận hành trong cuộc sống.
Trong điều kiện phần lớn đại biểu Quốc hộ hoạt động không chuyên
trách, số lượng các dự án luật được xem xét, thông qua tại kỳ họp Quốc hội
ngày càng nhiều và chất lượng đòi hỏi ngày càng cao mà thời gian của mỗi kỳ
họp chỉ có hạn thì việc soạn thảo cũng như thẩm tra tốt các dự án luật có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét, thông qua luật tại kỳ họp nhằm đảm
bảo được tiến độ, thời gian xem xét, thông qua luật cũng như chất lượng đạo
luật được thông qua. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định tồn bộ về nội dung,
hình thức cũng như về kỹ thuật soạn thảo văn bản lại nằm ở giai đoạn Quốc
hội thông qua luật. Thực tế cho thấy, có trường hợp Quốc hội khơng thơng qua
dự án được trình ra (như đối với trường hợp dự án Luật tổ chức Tồ án hành
chính do Chính phủ trình tại kỳ họp thứ VII Quốc hội khoá IX) hoặc Quốc hội
sửa đổi lại một cách cơ bản dự án đã được trình ra (như đối với dự án Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật phá sản doanh nghiệp,v.v...).
Như vậy, rõ ràng các giai đoạn trong một quy trình xây dựng pháp luật có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, không thể bỏ qua một giai đoạn nào, trong đó
giai đoạn thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội có thể đánh giá là giai đoạn có
tính chất rất quan trọng của tồn bộ q trình xây dựng một đạo luật.
1.1.1.3 Đặc điểm của hoạt động thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Qua thực tiễn hoạt động thông qua luật tại các kỳ họp Quốc hội những
năm qua có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của q trình xem xét, thơng
qua luật như sau:
-
Việc thông qua luật hiện nay được thực hiện trong điều kiện không
tương xứng giữa quỹ thời gian làm việc của cấc kỳ họp Quốc hội với yêu cầu
về số lượng dự án luật cần phải thông qua.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan của cơng cuộc đổi mới cũng
như u cầu hồn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, nhu cầu xây dựng mới,
sửa đổi, bổ sung các văn bản luật là rất lớn. Thực tế cho thấy, hầu như lĩnh vực
nào cũng cần phải ban hành quy phạm mới để thay thế cho những quy phạm
cũ đã khơng cịn phù hợp. Vì vậy, số lượng các dự án luật cần được thông qua
tại mỗi kỳ họp Quốc hội ngày càng gia tăng. Trong khi đó, chúng ta lại chưa
thiết lập được tiêu chí khoa học và pháp lý rõ ràng để xác định những nhóm
quan hệ xã hội, mức độ điều chỉnh thuộc phạm vi của luật hay của văn bản
dưới luật. Điều này dẫn đến việc xây dựng Chương trình xây dựng luật, pháp
lệnh của Quốc hội hiện nay thiếu luận cứ khoa học và thực tiễn vững chắc,
khơng có tính khả thi cao, gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động lập pháp
của Quốc hội.
Trong khi số lượng các dự án luật trong Chương trình ngày càng nhiều thì
quỹ thời gian mà Quốc hội dành cho việc thảo luận và thông qua luật lại
không thể kéo dài hơn. Bởi lẽ, hàng năm Quốc hội chỉ tiến hành hai kỳ họp và
thời gian mỗi kỳ họp trên thực tế chỉ kéo dài trên một tháng. Như vậy, bình
thường mỗi năm Quốc hội chỉ có khoảng ba tháng để tiến hành các kỳ họp,
trong khi đó việc xem xét, thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội chỉ là một trong
nhiều nội dung của kỳ họp.
-
Việc thông qua luật được thực hiện trong điều kiện đa số các đại biểu
Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Một trong những đặc điểm của Quốc hội nước ta là đa số các đại biểu
Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm, ngoài nhiệm vụ đại biểu, còn hoạt động quản
lý, điều hành, là cán bộ, công chức, nhà doanh nghiệp,.v.v. Do hoạt động ở
nhiều lĩnh vực khác nhau nên các dự án luật được các đại biểu Quốc hội xem
xét, cho ý kiến dưới nhiều góc độ khác nhau. Bên cạnh đó, trong những khố
Quốc hội gần đây, trình độ của đại biểu Quốc hội ngày càng được nâng cao:
theo thống kê, Quốc hội khố X có 411 đại biểu có trình độ đại học và trên đại
học chiếm tỷ lệ 91,33%; Quốc hội khố XI có 465 đại biểu có trình độ đại học
và trên đại học chiếm tỷ lệ 93,37% [41], [42].
Tuy nhiên bên cạnh mặt tích cực nói trên, tính kiêm nhiệm của các đại
biểu Quốc hội phần nào cũng làm hạn chế hoạt động của đại biểu nói riêng và
của Quốc hội nói chung, đặc biệt trong lĩnh vực lập pháp. Bởi lẽ, công việc
quản lý, điều hành là những công việc rất bận rộn, nên quỹ thời gian dành cho
nhiệm vụ đại biểu còn hạn chế và điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt
động xem xét, thơng qua luật. Bên cạnh đó, các điều kiện bảo đảm cho hoạt
động của Quốc hội nhất là về kinh phí vẫn cịn bất cập dẫn đến việc các đại
biểu Quốc hội khơng có điều kiện sử dụng đội ngũ chuyên gia, cộng tác viên
để giúp việc cho riêng mình. Bộ máy giúp việc chung của Quốc hội cịn thiếu
những chun gia có kinh nghiệm phục vụ hoạt động của Quốc hội trong việc
xem xét, thông qua luật.
-
Việc thông qua luật phải đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao về
chất lượng.
Để xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, ngoài việc phải
quan tâm đến tính đồng bộ, đầy đủ của các văn bản luật thì một yêu cầu rất
quan trọng được đặt ra là các văn bản đó phải có chất lượng tốt, bảo đảm thực
sự đi vào cuộc sống, phát huy được hiệu lực, hiệu quả trong việc quản lý Nhà
nước và xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta đang tiến hành công cuộc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì việc nâng cao chất lượng các văn
bản luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thời gian vừa qua cũng như những năm tới, đã và đang phát sinh nhiều
quan hệ mới có yếu tố nước ngồi về dân sự, tư pháp và ngoại giao. Đồng thời,
một số quan hệ về sở hữu, về quyền nhân thân của cơng dân... cũng đã và đang
có nhiều thay đổi về nội dung. Ngoài ra, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế
xã hội của đất nước cũng đòi hỏi được điều chỉnh bằng các quy phạm luật, như
linh vực chứng khoán, xây dựng, bảo hiểm xã hội, thuỷ sản... là những lĩnh
vực rất mới mẻ mà chúng ta cịn chưa có nhiều kinh nghiệm lập pháp. Do đó
yêu cầu về việc cung cấp các thông tin, kiến thức về kinh nghiệm thực tế và
pháp luật của các nước cũng như những kinh nghiệm xử lý ban đầu ở nước ta
cho các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội và các bộ phận chuyên môn
giúp việc cho Quốc hội là điều kiện rất cần thiết và không thể thiếu được trong
điều kiện hoạt động hiện nay của Quốc hội nước ta.
1.1.2. Quy trình thơng qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
1.1.2.1 Khái niệm quy trình thơng qua luật.
Trong Từ điển Tiếng Việt, quy trình được định nghĩa là “trình tự phải
tuân theo đ ể tiến hành một công việc nào đ ó ” [46, tr.813]; cũng theo Từ điển
này thì trình tự được hiểu là “sự xắp xếp lần lượt theo thứ tự trước sau'1'1 [46,
tr.1037]; còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì quy trình là “các bước phải tn
theo khi tiến hành một cơng việc nào đó ” [50, tr. 1381 ].
Như vậy, quy trình thơng qua luật được hiểu là trình tự hay các bước phải
tuân theo khi tiến hành việc thơng qua luật. Đó cũng chính là cách thức sắp
xếp, tổ chức hoạt động thông qua luật để làm đường hướng, cơ sở cho các chủ
thể tham gia vào hoạt động này theo đó mà thực hiện. Để đạt được mục đích
cuối cùng là đưa một dự thảo luật trở thành một đạo luật, chúng ta cần phải có
quy trình thơng qua luật với những thủ tục, trình tự hợp lý, khoa học, có căn
cứ pháp lý. Quy trình thơng qua luật bao gồm một số bước (một số thủ tục)
quan trọng, cơ bản như:
- Thuyết trình dự án luật;
- Thuyết trình báo cáo thẩm tra;
- Thảo luận và biểu quyết những nội dung cơ bản của dự án luật;
- Chỉnh lý dự thảo luật;
- Thuyết trình về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo;
- Đọc dự thảo đã được chỉnh lý và thảo luận;
- Biểu quyết thơng qua dự thảo luật.
Các bước nói trên của quy trình thơng qua luật có mối quan hệ chặt chẽ,
hữu cơ với nhau, tuân theo một trình tự kế tiếp nhau về thời gian. Hiệu quả của
cả quá trình thơng qua luật phụ thuộc vào hiệu quả của việc thực hiện mỗi
bước trong quy trình này.
Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa về quy trình thơng qua
luật như sau: Quy trình thơng qua luật là tổng thể các thủ tục pháp lý, theo đó
Quốc hội và các chủ thể khác tham gia vào quy trình thông qua luật thực hiện
các công việc thuộc trách nhiệm của mình đ ể đạt được mục đích đưa dự thảo
luật trở thành luật.
1.1.2.2 Đặc trưng của quy trình thơng qua luật.
Quy trình thơng qua luật là cách thức tiến hành hoạt động thông qua
luật, một trong những khâu độc lập và quan trọng của quy trình xây dựng luật,
có những nét đặc trưng thể hiện ở một số điểm chủ yếu như sau:
-
Quy trình thơng qua luật bao gồm tổng thể các biện pháp, thủ tục
pháp lý theo đó mà các hoạt động của q trình thơng qua luật được tiến
hành theo những nguyên tắc, quy định mang tính bắt buộc. Các thủ tục này về
nguyên tắc phải được ghi nhận trong văn bản pháp luật mà ở đây là các đạo
luật (vì quy định các trình tự thủ tục buộc Quốc hội phải tuân theo nên hình
thức văn bản phải là các đạo luật do Quốc hội ban hành). Ngồi ra, có thể có
các thủ tục thơng qua luật mang tính chất kỹ thuật khơng nhất thiết phải quy
định trong văn bản luật mà có thể được quy định trong các văn bản pháp luật
khác như: Nội quy kỳ họp, Quy chế hoạt động của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội
và của đại biểu Quốc hội.
Quy trình thơng qua luật thể hiện rõ trách nhiệm của mỗi chủ trong
-
quy trình. Hoạt động thơng qua luật là hoạt động địi hỏi sự tham gia của
nhiều chủ thể. Vì vậy, quy trình thơng qua luật phải thể hiện được trách nhiệm
của mỗi chủ thể, đồng thời phải thể hiện được sự phân công, phối hợp giữa các
chủ thể tham gia vào quy trình này. Để việc xem xét, thơng qua luật tại kỳ họp
Quốc hội có hiệu quả, địi hỏi phải có sự tổ chức, phối hợp giữa các cơ quan,
bộ phận trực tiếp liên quan đến quy trình xem xét, thông qua luật, như Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan trình dự án, Uỷ ban
pháp luật, Bộ tư pháp, Đoàn thư ký kỳ họp, các cơ quan hữu quan khác nhằm
đảm bảo tính khoa học, hợp lý trong từng khâu, từng công việc.
Trong quy trình phải có sự liên kết giữa các cơng đoạn của quy trình để
bảo đảm sự kết hợp và thống nhất với nhau, bảo đảm tính khách quan, tính
dân chủ, đổng thời bảo đảm được tính tập trung, thống nhất ý chí trong q
trình chuyển hố các chủ trương chính sách của Đảng, các vấn đề lý luận và
thực tiễn thành các quy phạm của luật mang tính quyền lực nhà nước.
-
Quy trình thơng qua luật là một trong những yếu tố quan trọng tác
động tới hiệu quả của việc thông qua luật. Để hoạt động thông qua luật tạo
dựng được một văn bản luật có chất lượng tốt thì cần phải có nhiều điều kiện,
trong đó có những điều kiện mang tính nội bộ của hoạt động này nhưng cũng
có những điều kiện nằm ngồi nội dung của hoạt động. Có thể liệt kê một số
yếu tố tác động trực tiếp tới hoạt động thông qua luật như sau:
+ Chất lượng của dự thảo luật được trình thơng qua;
+ Chất lượng của Báo cáo thẩm tra dự án;
+ Tính khoa học và hợp lý trong các quy định của pháp luật về quy trình