BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Tư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TRẦN THỊ ÁNH TU YẾT
MỘT
S Ố VÂN Đ Ể LÝ LUẬN
VÀ TH ự■ C TIEN
■
■
V Ê X Â Y DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP Q U YÊN
X Ã HỘI
NAM
■ CHỦ NGHĨA Ỏ VIỆT
■
Chuyên ngành: Lý luân nhà nuớc & pháp luật
Ma so
: 50501
LUẬN ÁN THẠC s ĩ LUẬT HỌC
■
■
•
■
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ L Ê MINH THÔNG
Lờ! CẢM ƠN
Đê hoàn thành được bản luận án tốt nghiệp cao học Luật, tôi
đã nhận được sự chỉ bảo tận tinh và hướng dẫn chu đáo của Tiến sĩ
Lê M inh Thơng, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu N hà nước và
pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê M inh Thông về những
sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình đổ.
TÁC GIẢ L U Ậ N Á N
Lờ! CẢM ƠN
Đê hoàn thành được bản luận án tốt nghiệp cao học Luật, tôi
đã nhận được sự chỉ bảo tận tình và hướng dẫn chu đáo của Tiến sĩ
Lê Minh Thơng, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu N hà nước và
pháp luật.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Lê M inh Thông về những
sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình đó.
TÁ C CHẢ L U Ậ N A N
MỤC LỤC
1rang
PHẦN MỞ ĐẨU
2
PHẨN NỘI DUNG
6
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ NHẢ NƯỚC PHÁP QUYEN
1.1
6
Khái quát quá trình hình thành và phát tricn của tư tưởng
nhà nước ph áp qu yền
6
1.2
Nhà nước pháp quyền tư sản
13
1.3
Các giá trị phố biến của nhà nước pháp quyền
30
CHƯƠNG II
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẺN CỦA VIỆC XÂY DựNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỂN ở VIỆT NAM
2.1
2.2
2.3
2.4
39
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng các giá trị phổ
biến c ủ a n h à nước ph áp quyền
39
Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
43
Sự vận dụng các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền
trong lịch sử lạp hiến Việt Nam
51
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hiện nay
70
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DựNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYEN
75
XẢ HỘI CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM
3.1
Sự cần thiết khách quan xây dựng nhà nước pháp quycn Việt
Nam
75
3.2
Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
81
3.3
Đổi mới hệ t h ố n g ph áp luật
92
3.4
Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
100
3.5
Xây dựng và cũng cố xã hội công dân xã hội chủ nghĩa
103
3.6
Đổi mới sư lãnh đao của Đảng đối với Nhà nước
.
106
o
KẾT LUẬN
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
116
u /
/
PHẦN MỞ ĐẨU
I. TINH CAP T H IE T CUA ĐE TAI
Cơng cuộc đổi mới của đất nước địi hỏi chúng ta phải cải cách bộ máy nhà
nước và đối mới pháp luật, làm cho Nhà nước thật sự là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, đáp ứng các yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo đảm cho công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng Nhà nước pháp quyền tức là phải
xây dựng một Nhà nước, trong đó Nhà nước ấy phải chú trọng xây dựng một
nền dân chủ thực sự. Một xã hội khơng có dân chủ cũng có nghĩa là một xã hội
khơng có Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền Việt nam là Nhà nước
quan lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và thực sự bảo đảm quyền con người.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với giai
cấp nơng dân và tầng lớp trí thức, do Đáng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nói
ngắn gọn, Nhà nước pháp quyền Việt nam là nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền vừa tạo nên thiết chế phục vụ cho công
cuộc đổi mới đất nước toàn diện vừa tạo ra các cơ cấu tổ chức, pháp luật phù
hợp, cơ chế tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật để đảm bảo cho việc thực hiện đầy
đủ các quyền, lợi ích của cơng dân, tổ chức và xã hội; đảm bảo cho các cơ quan
nhà nước trở về với xã hội cơng dân, chấm dứt tình trạng Nhà nước đứng trên xã
hội.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), Hiến pháp 1992 ra đời là
một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước ta. Đó là văn bản
pháp luật cao nhất, thể chế hóa đường lối do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
irong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội”và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” . Hiến
pháp 1992 là cơ sở pháp luật căn bản để xây dựng đất nước và bào vệ Tổ quốc,
xây dựng nhà nước pháp quyền và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đại hội VIII của Đảng (1996) đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là
tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo
hựớng nhà nước pháp quyền Việt Nam: “tăng cường pháp c h ế x ã hội chủ nghĩa,
2
x á V dựtiiị nlià nước pháp quyên Việt Nam, quàn lý x ã hội bằng pháp luật ííổiií>
thời coi trọng lỊĨúo dục, nâng cao dạo d ứ c '[[).
Tháng 6/1997, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đáng khóa
VIII đã ra Nghị quyết về “phát h u V quyền làm chủ của nhãn dân, tiếp tục xây
dựng N hà nước Cộng hòa x ã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vữnạ m ạnh và
hoàn thiện Nhà nước Cộnạ hòa x ã hội chủ nẹhĩa Việt N am dựa trên nền tảng
chung là xây dựng N hà nước pháp quyên x ã hội chủ nghĩa của d â n , do dân, vì
dân dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộ nạ sản Việt N am ”{ĩ).
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết của cơng cuộc đổi mới
tồn diện đất nước nói chung cũng như đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa nói riêng. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có nội dung rộng lớn, địi hỏi phải có
sự nghiên cứu toàn diện cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đề tài “M ộ t s ô v â n đ ê lý
lu â n và thưc tiễn vê xây dưng nhà nước p h á p quyên xã hôi
c h ủ n g h ỉc i ở V i ê t N a m ” mong muốn dược đóng góp một phần nhỏ vào q
hình nghicn cứu để xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt nam.
II. TÌNH HÌNH N GH IÊ N c ứ u ĐỂ
tài
Những năm qua, các văn kiện của Đáng và Nhà nước, các bài phát biểu
quan trọng của các đổng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại nhiều diễn đàn
quan trọng đã đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền là một trong
những nội dung quan trọng nhất của sự nghiệp đổi mới và hồn thiện nhà nước
Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là những định hướng cơ bán cho việc
nghiên cứu và tiến hành xây dụng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Đề tài cấp nhà nước thuộc chương trình khoa học cơng nghệ: KX-05-07,
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Viện nghiên cứu khoa học pháp
lý Bộ tư pháp (1992 - 1994) do Ông Nguyễn Văn Thảo chủ biên đã nêu những
“nguyên tắc tỏ chức và hoạt độnỵ của bộ m áy lập pháp, hành pháp, tư p h á p ”
với nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
{l>Đ ảng Cộng sản Việt N a m Văn kiện đại biếu toàn quốc lần th ứ VIII. N xb. C hính trị
quốc gia. H. 1996. Tr. 132.
t2) Văn kiện Hội nghị lần th ứ 3 Ban chấp h ành T rung ương khỏa VIII. N xb. C hính trị
quốc gia. H. 1997.
-
Cho đến nay một số cơng trình tmhicn cứu đã đề cập đến vân đề xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ớ nước ta như: Xây dựng nền dân chủ x ã
hội chủ nghĩa và nhà nước pháp C/IIYÍ'11 của Đỏ Nguyên Phương, Trần Ngọc
Đường - Nxb. Sự thật. H.1992; Một sô suy Iiạlũ vê x à V clựỉỉiị nhà nước pháp
quyền ở nước ta của Nguyễn Duy Quý - Tạp chí nhà nước và pháp luật số 2 năm
1992; Vấn đ ể tiìuì nước pháp quyển của Nguyễn Văn Động - Tạp chí Cộng sán
số tháng 2/1995; Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt N am của dân, do d ã n , vì
dân dưới sự lãnli dạo của Đáng - Đào Trí úc, Tạp chí nhà nước và pháp luật số
4/1997; Xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền V iệt N am Ngơ Ngọc Thắng - Tạp chí giáo dục lý luận số 3 năm 2000; N hà nước pháp
quyền với việc thực hiện quyền con nạ ười - Giáo sư Đồn Trọng Truyến, Tạp
chí quan lý nhà nước; Xây dựng nên dở tì chủ x ã hội chủ nghĩa, cơ sở d ể xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam của Hoàng Văn Sao, tham luận tại hội
thảo nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Hiến pháp Cộng hịa liên bang
Đức tại Beclin năm 1999)...
Vì vậy sẽ là cần thiết và hợp lý khi luận án này đề cập và phát triển (hoặc
nhấn m ạnh) một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một vấn đề vừa bức xúc vừa lâu dài đối với
tồn Đáng và tồn dân ta.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN c ứ u VÀ NHIỆM v ụ CỦA LUẬN ÁN
Mục đích của luận án là từ lịch sứ tư tưởng nhà nước pháp quyền, lựa chọn
những nhân tố hợp lý, vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
trong điều kiện đặc thù của Việt Nam. Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận án
là:
- Khái qt những vấn đề chung có tính phổ biến của tư tưởng nhà nước
pháp quyền (các quan điểm, tư tưởng, học thuyết nhà nước pháp quyền trong
các thời kỳ cổ đại, trung đại và cận dại).
- Làm rõ một số tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Khẳng định Nhà
nước Việt Nam trong nửa thế kỷ qua được xây dựng theo phương hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, xã hội của
đất nước.
- Đề xuất một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong điều kiện hiộn nay.
4
Tóm lại, mục đích và nhiệm vụ cúa luận án là tống hợp những quan điếm,
tư tưởng, học thuyết cơ bản và nhữns dạc thù của Việt nam. Trên cơ sở đó lựa
chọn những quan điểm, tư tưởng, nguyên lý hợp lý để vận dụng vào quá trình
xây dựng một nhà nước “quản lý xã hội bằng pháp luật” , một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
Thực hiện đề tài trên, luận án đã sử dụng rộng rãi các tác phẩm của Các
Mác, Ảngghen, Lônin; các văn kiện của Đảng và Nhà nước; các cơng trình
nghiên cứu khoa học về nhà nước - pháp luật của các tác giả trong và ngoài
nước làm tài liệu tham khảo.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phàn tích những
quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Bcn
cạnh đó luận án cịn sử dụng các phương pháp lôgic, lịch sử, phương pháp so
sánh, để làm sáng tỏ những vấn đề cấu thành nội dung của luận án.
V. Đ IỂ M MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Luận án đi sâu vào nghiên cứu nhà nước pháp quyền tư sản để tìm ra
những điểm cơ bản, những giá trị tiến bộ của nó, khẳng định vai trị của nhà
nước pháp quyền trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
- Trên cơ sở nghiên cứu 4 bản Hiến pháp của nhà nước Việt Nam tìm ra sự
vận dụng những giá trị phổ biến, tiến bộ của tư tưởng nhà nước pháp quyền
trong việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước với điều kiện đặc
thù của Việt Nam.
- Khẳng định vai trò của nhà nước pháp quyền trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ncu một số hướng cơ bản của việc xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
VI. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
- Phần mở đầu.
- Chương I: Khái quát về nhà nước pháp quyền.
- Chương II: Cơ sở lý luận và thực tiển cua việc xây dựng Nhà nước pháp
quyén ở Việt nam.
- Chương III: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Phán kết luận.
- Tài liệu tham khảo.
5
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỂ NH À NƯỚC P H Á P QUYEN
1.1.
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT T R IÊN CỦA
T ư TƯỞNG NHÀ NƯỚC P H Á P QUYEN
1.1.1 Tư tưởng về tính chất pháp quyền của nhà nước xuất hiện cách đây
hàns ngàn năm. Nguồn gốc của tư tưởng về tính chất pháp quyền của nhà nước
bát nguồn từ quan niệm của người xưa cho rằng lể cơng bằng là một thuộc tính
của rự nhiên, và vì thế phải có một tổ chức quyền lực cơng bằng Irong xã hội lồi
người để phụng sự cơng lý. Dẩn dần, những quan niệm ấy được phát triển thành
các ý tưởng về tính chất pháp quyền của nhà nước, đặt nhà nước trong mối quan
hệ biện chứng với pháp luật.'
-V/
Trước hết, chúng ta xem xét những tư tưởng về tính chất pháp quyền của nhà
nước trong q trình phát triển của xã hội phương Đông cổ đại.' ^
Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào loại sớm nhất thế giới, tồn tại đến các
'*T' n
thê ký IV và III trước công nguyên. Với đặc trưng quyền lực nhà nước tập trung
trong tay Vuai^bạo lực và tôn giáo là cơng cụ bảo đảm tính hợp pháp của nhà
nước, nhà nước Ai Cập đã trở thành “cơng cụ” tồn năng của Vua để “trị nước an
dân", ơ nhà nước Babilon (Babylone) cổ đại, Vua Chúa và tầng lớp chủ nô cố
đại đã dùng bộ luật Hammurapi (Hammurabi 1792- 1750 trước công nguyên)
làm phương tiện cai trị xã hội. Và ngay nhà nước Ân Độ cổ đại, pháp luật cũng
đã được sử dụng rất sớm để bảo vệ các giáo sĩ đạo Bàlamôn và trừng trị những
kẻ xâm phạm đến chế độ tư hữu.
"Xã hội Trung Quốc cổ đại là một trong bốn trung tâm vãn minh lớn của
phương Đông. Suốt hai nghìn năm lịch sử đấu tranh quyết liệt để thiết lập một
chính quyền Trung ương tập quyền, đã sớm xuất hiện và phát triển nhiều xu
hướng tư tưởng chính trị- pháp lý, trong đó đáng chú ý nhất lẵ íhuyết pháp trị
của phái pháp gia (phái pháp gia bắt nguồn từ các nhà cải cách phương thức cai
trị thời Xuân thu Chiến quốc). Thuyết pháp trị chủ trương đề cao vai trò của
pháp luật, dùng pháp luật để cai tri, để củng cố quyền lực của chính quyền Trung
ương, thiết lập một chế độ quân chủ tập quyền chuyên chế. Người có nhiều đóng
góp nhất cho phái này là Hàn Phi Tử (280 - 230 trước công nguyên). Theo Hàn
Phi Tử, bổn phận của nhà Vua... cốt ở ấn định pháp luật cho minh bạch để công
bố cho mọi người biết mà tuân theo. Pháp luật là cơ sở duy nhất và là phương
pháp cai trị có hiệu quả nhất đối với nhà nước và xã hội. Khi pháp luật đã được
ấn định rõ thì các quan khơng dám xử kiện trái pháp luật, cịn nhân dân không
dám làm điều phạm pháp. Giữa cái xã hội biến thiên với bản tính con người là
mưu lợi riêng, chỉ có pháp luật mới bảo vệ được trị an xã hội, mới loại bỏ được
lòng tư lợi quá đáng của mọi người, pháp luật trở thành chuẩn mực cao nhất của
việc “trị quốc” . Tư tưởng pháp trị bất nguồn từ sự tin tưởng vào quá trinh phát
triển của lịch sử, đáp ứng được tinh hình chính trị thời bấy giờ cho nên đã được
giai cấp thống trị sử d ụ n g và thể ch ế hóa thành nội dung, đường lối, chính sách
và pháp luật của nhà nước. Nó đã góp phần quan trọng làm cho nước Tần trớ nên
cường thịnh và thống nhất được Trung Nguyên.
~V*Tư tưởng về tính chất pháp quyền của nhà nước trong xã hội phương Táy cổ
đại gắn liền với quá trình phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ và nền dân chủ
HyLạp, La Mã cổ đại qua các nền cộng hoà dân chủ Aten, Spac và Lamã (thế kỷ
VIII- II trước công n g u y ê n ) . ^
Xôlông - nhà tư tưởng Hy Lạp thế kỷ Ihứ VI trước cồng nguyên (638- 559)
đã áp dụng tư iưởng kết hợp sức mạnh với pháp luật trong việc tố chức nhà nước
Aten trên những nguyên tắc dân chủ. Theo ông, quyền lực cần được đặt ngang
hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới tự do và công bằng.
Cải cách năm 594 trước công nguycn của Xôlông với việc thành lập Hội đồng
quý tộc, thành lập tồ án cơng dân đã đem lại những hệ quả rất lớn cho xã hội
Aten: nhu' đã tạo ra được cơ sở kinh tế- xã hội của chính thể cộng hịa dân chủ
chủ nơ, bước đầu hình thành cơ chế quyền lực của chính thể cộng hồ và đem lại
cơ hội cho những người bình dân, thường dân quyền lựa chọn, quyền tham dự
vào sinh hoạt chính trị của nhà nước. Theo Arixtốt, Xôlông là người khởi đầu
nền dân chủ Hy Lạp. Và trong chính thể cộng hồ thời Xơlơng, các đạo luật do
hội nghị cơng dân thơng qua “ sẽ giải phóng tất cả mọi người bằng quyền lực của
pháp luật, bằng sự kết hợp giữa sức mạnh và pháp luật” .
Platôn (427- 347 trước Công nguyên) là một trong những nhà tư tưởng kiệt
xuất nhất thời cổ đại. Dưới con mắt của Platôn, nhà nước sẽ nhanh chóng sụp đổ
'■‘ở nơi nào m à pháp
luật khơng có hiệu lực và nằm dưới quyển lực của một
người nào đó ” , có nghĩa là tơn trọng pháp luật là điều kiện sống còn của một nhà
nước, và một c h ế độ nhà nước chỉ có thể tồn tại ở nơi nào, nếu như ở đó các đạo
luật công bằng giữ được địa vị th ố n 2 trị. Ông để lại nhiều tư tưởng về nhà nước
7
pháp quyên có giá trị như hoạt động xét xử là để báo vệ pháp luật, nhà nước sỗ
ngừng tồn tại nếu như trong nhà nước ày, tồ án khơng được tổ chức một cách
thỏa đáng.
Arixtốt- nhà bách khoa toàn thư, nhà triết học vĩ đại thời cổ Hy Lạp và Lamã
(384- 322 trước công nguyên) đã nhấn mạnh rằng, nơi nào khơng có sức mạnh
của luật thì nơi đó khơng có hình thức chế độ nhà nước. Ơng khảng định “pháp
luật cần thống trị trên tất cả” . Rõ ràng là Arixtốt đã nói về tính tối cao của luật
pháp - luật pháp là tiêu chuẩn về sự công bằng, là quy phạm điều chính sự giao
tiếp chính trị. Với tư tưởng để đảm bao sự công bằng, để có được những đạo luật
cơng bằng thì nhà nước phải tổ chức quy củ, Arixtốt đã đưa ra một công thức tổ
chức quyền lực nhà nước cẩn phái có. Đó là, trong bất cứ chế độ nhà nước nào
cũng tổn tại 3 yc'u tố: cơ quan làm luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các
cơ quan thực thi pháp luật hay các cơ quan chấp hành và các Toà án hay các cơ
quan xét xử.
Bước đáng kể trong hướng tiến tới lý luận nhà nước pháp quyền được thể
hiện trong các học thuyết triết học của các triết gia La Mã cổ đại, đặt biệt là của
Xixêrôn (106- 44 trước công nguyên). Theo ô n g , nhà nước (Respyblica) là
“cộng đồng pháp lý”, là sự nghiệp và tài san của nhân dân (respopuly); pháp luật
là cội nguồn tạo ra chế độ, tổ chức nhà nước, pháp luật tác động tới tất cả mọi
người. Ở đây, nhân dân được hiểu là sự tập hợp của nhiều người gắn bó với nhau
bằng sự thống nhất về pháp luật và lợi ích chung và pháp luật cũng được hiểu là
pháp luật của tự nhiên có trước nhà nước và luật thành văn. Xixêrôn cho rằng
nhà nước được coi là nhà nước pháp quyền khơng phải là do nó tn thủ pháp
luật của minh mà vì về bản chất, về nguồn gốc, nhà nước chính là pháp luật,
pháp luật tự nhicn của nhân dàn. Xuất phát từ quan điểm “sự phục tùng pháp luật
là bắt buộc đối với tất cả mọi người”, Xixêrôn đã dưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ
về nhà nước pháp quyền như các đạo luật nhà nước thông qua phải phù hợp với
tính cơng minh và quyền tự nhiên, cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật...
Đây được xem như là một trong những nguyên tắc cơ bán được thừa nhận chung
của nhà nước pháp quyền.
r Do đó chúng ta có thể nhận xét ràng tính tối cao của pháp luật đã được các
nhà tư tướng cổ đại xem là một trqng những cơ sở căn bản để xác lập tính chất
pháp quyền của nhà nước. Tính tối cao của luật phải được gắn liền với mơ hình
tố chức họp lý của hệ thống quyền lực nhà nước.1Các nhà tư tưởng cổ đại không
8
chí chú trọng tới tính tối cao của pháp luật mà còn chú ý tới việc nghiên cứu,
thiết lập các hệ thống, các hình thức, các cơ chế của quyền lực, tới mối quan hệ
hữu cơ giữa nhà nước và pháp luật và tới việc phân định thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước. Do những hạn chế bới yếu tố giai cấp, thời đại, không một nhà tư
tưởng nào phát triển được các quan niệm của mình về tính chất pháp quyền của
n h à nước đạt được tính hệ thống và logíc của một học thuyết đầy đủ: học thuyết
nhà nước pháp quyền. Song một điều chúng ta thấy rõ là các ý tưởng về nhà
nước pháp quyền của họ được trình bày hết sức sâu sắc, đã đóng một vai trị
quan trọng để hình thành những cơ sở lý luận cho việc ra đời học thuyết nhà
nước pháp quyền trong thời kỳ cách mạng tư sản sau này.
—>, 1.1.2. Sau nhũng thăng lợi của các cuộc đấu tranh hàng thế kỷ chống các chế
độ phong kiến tàn bạo, chuyên chế, đặc quyển đặc lợi, các tư tưởng về nhà nước
pháp quyền mới được tiếp tục phát triển, dần dần hình thành một cách rõ ràng và
thành hệ thống các học thuyết chính trị - pháp lý. Giai cấp tư sản bước lên vũ đài
chính trị, thiết lập nhà nước tư sán, chống lại kịch liệt sự chuyên quyền phong
kiến, tình trạng vơ pháp luật; khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhàn đạo, các
nguyên tắc tự do và bình đẳng của cá nhân; thừa nhận những quyền con người
khơng bị tước đoạt; tìm tịi những cơ cấu, hình thức và cơng cụ chống lại một
cách khơng khoan nhượng sự tiếm quyền và tình trạng vơ trách nhiệm của quyền
lực đó đối với cá nhân và xã hội. Và chính đây là cốt lõi của một học thuyết học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản. Học thuyết này được ra đời, phát triển
và ngày càng hoàn thiện qua các nhà tư tưởng vĩ đại như J.Lôccơ, Môngteskiơ,
Cantơ, Hêghen.'0
G.LỐCCƠ, nhà tư tưởng nổi tiếng người Anh (1632- 1704) đã đưa ra mơ hình
nhà nước trong đó pháp luật chiếm địa vị thống trị. Theo ông, nhà nước phái
được tổ chức sao cho luật pháp do nhà nước ban hành phải phù hợp với pháp luật
tự nhiên, các quyền tự nhiên và tự do của con người phải được pháp luật công
nhận. Phát triển tư tưởng phân quyền của Arixtốt phù hợp với đặc điểm của xã
hội phương Tây trong bước giao thời của lịch sử cận đại, J. Lốccơ đã phân chia
quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp. Ông là người đặt nền móng lý luận cho quan điểm pháp chế. Với ông,
công dân “được làm tất cả, trừ những điều pháp luật cấm” , còn người cầm quyền
chỉ được làm những gì mà luật cho phép. Cơ sở của quan điểm này là tư tưởng về
chủ quyền nhàn dân- nền tảng đảm báo sự tồn tại của nhà nước.
9
Tiếp thu tư tướng của G Lốccơ về phân quyền, S.L Môngteskiơ- nhà triết học
người Pháp thế ký XVIII đã phát triển và nàng nó lên thành một học thuyết hồn
chính. Theo Mơngteskiơ, tư tưởng tự đo chính trị ln gắn chặt với tự do cơng
dân, tự do chí có được khi pháp luật được tuân thủ nghiêm ngặt và để có điều
này thì phái áp dụng chế độ phân quyền. Học thuyết tam quyền phân lập mà nội
dung chủ yếu thể hiện trong hai nguyên tắc phân quyền và đối trọng là một
trong những tư tưởng quan trọng nhất trong học thuyết chính trị của Mơngteskiơ,
và đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhà nước pháp
quyền. Với quan niệm, trong mỗi quốc gia đều có 3 thứ quyền là quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, Môngteskiơ lập luận về sự cần thiết
phải trao 3 quyổn đó vào 3 cơ quan khác nhau, Ông khẳng định rằng: “ Nếu như
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp nằm trong tay một người hay
một cơ quan (như nằm trong tay vua) thì con người sẽ khơng có tự do. Cịn nếu
như quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì tồ án sẽ trở thành kẻ đàn
áp và tất cả sẽ bị huỷ diệt” . Như vậy, nhân tố hợp lý trong học thuyết của
Môngteskiơ là ở chỗ ông đã đổ ra lý thuyết về sự phân công quyền lực nhà nước
bắt nguồn từ bản chất dân chủ và nhân đạo: phân quyền để bảo đảm tự do chính
trị trong nhà nước, phân quyền để bảo đảm tự do cá nhân cho công dân.
Thuyết phân quyền của Môngteskiơ cũng đã ảnh hướng tới quan niệm của
I.Cantơ, nhà triết học nổi tiếng người Đức (1724 - 1804). Theo Cantơ, nhà nước
là tập hợp nhiều người cùng phục tùng các đạo luật pháp quyền; nhà nước là sự
liên kết của mọi người trong k h uô n k hổ của pháp luật n h ằ m giám sát và bảo đảm
bình đẳng của mọi cơng dân. Mục đích của nhà nước là bảo đảm sự thắng lợi của
pháp luật và bản thân nhà nước cũng phải phục tùng những vêu cầu của pháp
luật. Ông triệt đê tán thành việc áp dụng thuyết phàn quyền. Sự phân chia thành
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là cần thiết trong một nhà nước để
ngăn chặn sự lạm quyền của một hay một số người đối với người khác và đẽ
ngăn ngừa chế độ chuyên chế và độc đoán cá nhân. Chủ quyền của nhân dân chí
có thể thực hiện thơng qua sự phân cơng quyền lực nhà nước. Ơng cịn chứng
minh ở đâu áp dụng nguyên tắc phân quyền thì ở đó có nhà nước pháp quycn
cịn nếu khơng chỉ là chuyên quyền. Với nguyên tắc: Hãy hành động để tự do
của anh thích úng với tự do của người khác, phù hợp với đạo luật chung, Cantơ
đã khẳng định ý chí tự do của mỗi người chính là nguồn gốc của các đạo luật có
tính chất pháp quyền và hợp đạo đức. Nhân dân là người lập nên nhà nước do
10
vạy quyồn lực nhà nước phải là của nhàn dân chứ không phải là của cá nhân hay
là của một tập đoàn nào. Nhà nước pháp quyền trong lý luận của Cantơ là nhà
nước cộng hoà thuần tuý với sự ngự trị cua pháp luật. Theo ông, hoạt động của
nhà nước thực chất chỉ là lập pháp, còn quyền hành pháp khơng có mục đích
chung, nó chí tác động đến phúc lợi của cơng dân, do đó khơng thể dùng các
biện pháp cưỡng chế. Đây chính là chu nghĩa khơng tưởng của Cantơ mà C.Mác
đã có lần phê phán.
G.V.Ph.Hêghen (1770- 1831) cũng có những tư tưởng về nhà nước pháp
quyén và là người có những đóng góp quan trọng vào việc xác định các cơ sở
triết học cua học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sán. Theo Hêghen, pháp luật
là sự thể hiện của tự do, pháp luật vừa là sự sáng tạo vừa là sản phẩm của nhà
nước; nhà nước là nền tảng của pháp quyền, là pháp nhân cao nhất có quyền uy
và sức mạnh chí huy toàn bộ xã hội. Trong tác phẩm “Triết học pháp quyền”
(1821), Hêghen đã lạp luận rằng cấu trúc của một nhà nước pháp quyền bao gồm
3 yếu tố: xã hội công dân, trật tự pháp luật và các đạo luật mang tính pháp quyền
tạo thành. Với tư cách là một nhà tư tướng sống ở đầu thế kỷ XIX, Hêghen tán
thành việc phân quyền và coi đó là sự hao đảm cho tự do công cộng, chống lạm
quyền chuyên chế, vũ lực và phi pháp, v ề thực chất, Hêghen đã dùng chủ nghĩa
nhà nước pháp quyền chống lại chủ nghĩa cực quyền với xu thế xã hội khép kín,
bộ máy quan liêu và hệ thống pháp luật tùy tiện, mệnh lệnh. Ông coi nhà nước
p h á p quyền là hiện thực, là biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, biểu hiện
cao nhất của tự do. Thế nhưng, chủ nghĩa nhà nước của Hêghen là duy tâm, bởi
lẽ ông tán thành với các bậc tiền bối của mình là: “Nền tảng của pháp luật nói
chung là cái tinh thần” và cho rằng “Nhà nước là sự ngoại du của Chúa trời trong
xã hội lồi người” .
Cf Nhìn chung, mặc dù các nhà tư tưởng từ thế kỷ XVII- XVIII còn nhiều hạn
chế vồ thế giới quan song họ đã nêu ra được những ý niệm cụ thể về mối quan hệ
giữa nhà nước và pháp luât, nhà nước phải tuân theo pháp luât, đăt dưới pháp
luật. Nội dung của từng tư tưởng, quan điểm có thể rất khác nhau, nhưng hai yếu
tố chính ln ln được qn xuyến trong các tư tưởng đó là “nhà nước có tính
ph áp lý và pháp ìnật có tính pháp lý công bằng”. Học thuyết về nhà nước pháp
quyền tư sản được xây dựng trên nền táng của các tư tưởng nói trên đã thể hiện
nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống chế độ
phong kiến lạc hậu, vi một trật tự xã hội mới- xã hội tư sản.
11
đ
—^ Đ ầ u thê ky XIX, học thuyết về nhà nước pháp quyền tư san lại được nhiồu
nhà triết học quan tâm nghiên cứu và bổ sung. Mon và Van cư - hai nhà triết học
người Đức là những người đầu tiên dùng thuật ngữ nhà nước pháp quyền'
thuật ngữ nàv đã tùng được lập luận trong triết học của I Cantơ và Heghen. Các
ơng đã coi tính tối cao của pháp luật là tiêu chuẩn hàng đầu cua một nhà nước
pháp quyền. Tính tối cao của pháp luật là sự thể hiện chủ quyền của nhân dân
dưới hình thức quyền lực của nghị viện. Tiêu chuẩn thứ hai của nhà nước pháp
quyền là sự hình đáng của mọi công dân trước pháp luật. Nhà nước pháp quyền
trong tư tướng của Mon là nhà nước mà ờ đó quyền lập pháp của nghị viện có vị
trí cao nhất, các cư quan tư pháp không thể kiểm tra được hoạt động lập pháp mà
chí có thể kiểm tra đối với hoạt động của các cơ quan hành pháp mà thôi.
Các nhà tư tường theo quan điểm thực chứng pháp lý cuối thế ký XIX, đầu
thế kỷ XX như: K.Herber, P.Laban, A.Đaisi (người Anh); A Exmen (người
Pháp), cũng có một số quan điểm mới liên quan đến nhà nước pháp quyền, v ề lý
thuyết, họ cho rằng cần phải tạo ra cấu trúc nhà nước lự kiềm chế và bị ràng
buộc với pháp luật đo chính nhà nước dặt ra. Nhưng do không phân biệt các đạo
luật với các văn bán dưới luật, nên họ đã đi đến chỗ thừa nhận một nhà nước tùy
tiện ban phát hay thu hồi nhũng quyền tự do dân chủ của con người.
) Tuy các nhà tư tưởng cịn có những quan niệm khác nhau nhưng hầu hết các
quan niệm đều nói tới sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội, pháp luật
phái thực sự là đại lượng công bằng, khách quan có tính pháp lý, cơng lý. Nhiệm
vụ của nhà nước pháp quyền là bảo vệ các quyền tự do của con người và quyền
công dân. Đổ đạt được mục tiêu trên cần phải có những hình thức tổ chức quyền
lực nhà nước thích hợp (áp dụng cơ chế phân quyền) và phải có cơ chế kiểm tra
và iiiám sát quyền lực hợp lý.
Kế thừa những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn về nhà nước pháp
quyền trong lịch sử, các nhà tư tưởng tư sản đã xây dựng nên học thuyết về nhà
nước pháp quyền tư sầ i^ N ộ i dung cơ bán của học thuyết này là: nhân dân là chủ
thể của quyền lực nhà nước, nhà nước tự đặt mình dưới pháp luật và quản lý xã
hội bàng pháp luật ; Nhà nước tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền
công dân; Quyền lực nhà nước được phân chia thành 3 quyền: quyền lập pháp,
hành pháp^tư pháp và giao cho 3 cơ quan nhà nước tương ứng theo nguyên tác
quyền lực giám sát và kiềm chế quyền lực. "Mục đích của học thuyết nhà nước
l!i
NíỊuyén bảrt tiếng Đức là Rechtsstacit.
12
pháp quycn tư sán là tấn công vào chè độ quân chủ độc đoán chuyên quyền, cổ
vũ mạnh mẽ giai cấp tư sản đang lcn và các tầng lớp xã hội khao khát tự do đứng
lên làm cuộc cách mạng tư sán, xoá ho chế độ phong kiến, thiết lập nền dân chủ
—^^
s
■
>
IU' san. Chính vì lẽ đó, học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản là sản phẩm của
nền văn minh nhân l o ạ i . N^
1.2. NHÀ NƯỚC P H Á P QUYỂN TƯ SẢN
1.2.1. Sự ra đời c ủ a n h à nước p h áp q u y ể n tư sản
Nhà nước phong kiến với các đặc điếm kinh tế - xã hội đặc thù luôn là công
cụ của bạo lực, đứng lên trên xã hội... cho nên khơng có khả năng giải phóng các
năng lực và lực lượng xã hội để tạo lập cơ sở dân chủ và tự do. Chế độ độc tài
c h u y ê n c h ế của n h à nước quân chủ phong kiến và luật phá p - côn g cụ thống trị
của các nhà nước ấy trong thế kỷ XVII- XVIII - đã trở thành vật cản trên con
đường phát triển của nhân loại. Chính vì vậy, tư tưởng nhà nước pháp quyền mặc
dù có mầm mống từ thời cổ đại nhưng văn khơng thế nào có điều kiện để trở
thành nhà nước pháp quyền hiện thực được. Chỉ khi giai cấp tư sản bước lên vũ
đài chính trị, thiết lập nhà nước tư san với các thể chế pháp luật của nó thì những
tư tưởng về nhà nước pháp quyền mới dán dần được hoàn thiện dưới dạng học
thuyết và từng bước được đưa vào thực tế.
Học thuyết về nhà nước pháp quyền thế ký XVII- XVĨĨĨ là hoc thuyết tiến
bộ, phản ảnh ý chí của giai cấp tư sản lúc đang lên tự khẳng định mình. Do đó
cùng với dân chủ, nó đã là ngọn cờ của cách mạng tư sản Mỹ và Tây Âu thế kỷ
XVIII. Giai cấp tư sản, tầng lớp phong kiến tiến bộ, nông dàn, thợ thủ cơng và
dán nghèo thành thị... đã tìm thấy ở học thuyết này vũ khí tinh thần trong cuộc
đấu tranh sinh tử với giai cấp địa chủ phong kiến lạc hậu và phản động.
Thực tố vận dụng lý luận nhà nước pháp quyền vào việc xây dựng tổ chức
quyền lực chính trị ớ các nước trên thế giới hơn hai trăm năm qua (Pháp, Mỹ,
Cộng hoà liên bang Đức...) cho thấy sự ra đời của nhà nư^c pháp quyền gắn liền
với cách mạng Lu' sản và sự phát triển của chú nghĩa bản. Nhà nước pháp quyền
tư sán xuất hiện dựa trên tiền đề những khách quan của lịch s ử . v ^
"■*> T h ứ nhất là tiên đê kinh tế: Tư tướng về nhà nước pháp quyền đòi hỏi môi
chế độ nhà nước phải thừa nhận sự công bằng, sự độc lập của mỗi cá nhân đã
được trời đinh (quyền tự nhiên). Thừa nhàn quyền tự do cá nhân tức làjthừa nhận
quyền sớ hữu cá nhân. Như vậy, tiền đề để có nhà nước pháp quyền là phải xây
dựng một cơ chế kinh tế bao đảm tư do của mọi thành viên trong xã hội, mà
13
trước hèt là tự do sở hữu. Nhà nước pháp quyền là san phám của mội giai đoạn
phát triển kinh tế- xã hội nhất định. Trong lịch sử, nhà nước pháp quyền tư sán ra
đời ớ giai đoạn phát triển khá cao và phổ biến của kinh tế hàng hoá. Đó là giai
đoạn các quan hệ kinh tế phát triển nhanh chóng và trở nên phức tạp. Tự do cạnh
tranh đã gây nhiều tổn thất và cản trớ quá trình sản xuất và tiêu dùng của xã hội.
Vì vậy xuất hiện yêu cầu điều chỉnh của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh
của các cá nhân, các doanh nghiệp, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của
nền kinh tế quốc dàn và xã hội. Công cụ cơ bản nhất để tiến hành điều chính là
pháp luật kinh tế.
Các nhà khoa học xã hội của Liên xô trước đây cho rằng: sự hình thành và
phổ biến học thuyết nhà nước pháp quyền ở thời kỳ cách mạng tư sán là sự
“ phiên dịch” ra ngôn ngữ pháp lý ycu cầu của chủ nghĩa tư do kinh tế hay kinh
lế thị trường và cuộc cách mạng cơ khí. Vì vậy, trong các chế độ xã hội trước
chủ nghĩa tư bản, với sự tồn tại của nền kinh tế lạc hậu, tự cung tư cấp, nhũng ý
tưởng vé nhà nước pháp quyền chưa có điều kiện để trở thành hiện thực.
Từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy việc báo đảm quyến tự do kinh tế,
quyền độc lập kinh tế của cá nhân so với bộ máy quyền lực công là tiền đồ và là
bộ phận cấu thành của nhà nước pháp quyền tư sản. >N
|
—>)^TÌiứ hai là tiền đ ề x ã hộr. Nền kinh tế hàng hoá phát triển đã thúc đấy phân
công lao động phát triển khơng ngùng, trong đó hình thành các mối quan hệ lợi
ích, nhu cầu, địa vị xã hội của các tầng lớp, giai cấp khác nhau đang tham gia
vào quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà nước, với tư cách là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, với chức năng quản lý tồn xã hội, nó phải thể hiện các
lợi ích, các nhu cầu và địa vị của các giai cấp trong xã hội ấy vào trong cơ chế
hoạt động và phải sử dụns, pháp luật làm phươns tiện quan trọng nhất để thực
hiện nhiệm vụ của mình. Kinh tế hàng hố là phương thức xã hội hoá mọi hoạt
dộng sán xuất và tiêu dùng của con người. Thông qua trao đổi và cạnh tranh,
người ta thừa nhận các lợi ích của nhau đổng thời cũng hình thành các thước đo
xã hội. Quan hệ trao đổi và cạnh tranh ấy được nhận thức dần dần và được thể
chế hố về mặt nhà nước. Vì vậy nhà nước phải xây dựng pháp luật trên các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội và phải cải tiến bộ máy tổ chức và cơ chế vận
hành của nhà nước cho phù hợp. Nhu cầu dân chủ hoá kinh tẽ tăng lên địi hỏi
phải dân chủ hóa về chính trị là con đường ra đời nhà nước pháp quyền trên thực
tế. Nhà nước pháp quyền thừa nhàn các quy phạm hành vi được xã hội đề ra và
14
phục lùng. Pháp luật trở thành hình thức kiếm sốt của xã hội đối với nhà nước
và bảo đảm lợi ích cho tất cả mọi người của xã hội công dân.
Theo Phíchtơ- nhà triết học cổ diên Đức (1762- 1814), người kế tục sự
nghiệp của Cantơ thì nhà nước pháp quyền là những phương tiện để nhân loại
thực hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến tới cái tự do tuyệt đối. Nhà
nước và pháp quyền có nhiệm vụ quản lý và điều hoà sự phát triển của tồn xã
hội. Nhà nước pháp quyền là cơng cụ dể xây dựng một xã hội lý tưởng bảo đảm
các nhu cầu của công dân.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước pháp quyền tư sản luôn gắn liền với q
trình dân chủ hố về mặt kinh tế và xã hội. Mặt khác, q trình dân chủ hố
được định hướng trong hoạt động của nhà nước pháp quyền, chịu ảnh hưởng và
tác dộng của đặc điểm văn hoá, lịch sử dân tộc và thời đại. Vì vậy, cùng áp dung
nguyên tắc “tam quyền phân lập” , nhưng ở nước Mỹ xây dựng nhà nước theo
chế độ Tổng thống, nhà nước Pháp theo chế độ cộng hồ lưỡng tính, nhà nước
Anh được tổ chức theo chế độ quân chủ lập hiến.
T hứ ba là tiền đ ề chính trị- pháp lý'. Đến thời kỳ cách mạng tư sản, nhiều
nhà tư sản và chính trị nhấn mạnh ràng, mỗi con người sinh ra vốn có quyền
được sống và hoạt động tự do, đó là quyền tự nhiên khơng ai ban cho. Nhưng
mỗi con người chỉ là người khi liên hiệp lại Ihành xã hội và do đó quyền tự nhiên
của mỗi người mới trớ thành hiện thực trong xã hội đó. Do vậy, mỗi con người
có quyền liên hiệp lại với nhau tạo ra quyền lực công cộng, vừa để thực hiện
quyền lực của mình, vừa để điều khiển tồn bộ xã hội Iheo lợi ích của mình.
Quycn lực nhà nước là sự thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội của con
người Sự phát triển của xã hội loài người đến thời kỳ cách mạng tư sản đặt ra vấn
đề hình thành nhà nước pháp quyền như một tất yếu lịch sử.
Các tư tưởng về tự do cá nhân và chủ nghĩa lập hiến đã làm cho các ý tưởng
về mơ hình nhà nước pháp quyền phát triển lên một bước mới và dần dán được
các nhà tư tưởng k ế thừa, phát triển thành học thuyết nhà nước pháp quyền. Chủ
nghĩa lập hiến với nội dung xây dựng và ban bố Hiến pháp là một hình thức hạn
chế quyền lực nhà Vua (đại diện cho giai cấp phong kiến) hữu hiệu nhất. Hiến
pháp và sự phát triển của Hiến pháp ở các nước tư sản là một hiện tượng chính trị
ỷ
xã hội của thời kỳ cách mạng tư sản, là sự khắng định chế độ tư sản và sự cáo
chung của chế độ phong kiến. Hiến pháp là một hiện tượng thuộc nền văn minh
dân chủ của xã hội loài người. Với Hiến pháp, quyền lực nhà nước từ chỗ thần
15
bí, siêu lỊhicn đi đến chơ được tun hố một cách rõ ràng: quycn lực thuộc vé
nhân dàn. Nhà nước pháp quyền tro nu lịch sử gắn liền với cách mạng tư sản và
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nó ln là cơng cụ thổ hiện và hao vệ lợi ích
của giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản lãnh đạo.
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có thể khẳng định ráng nhà nước pháp
qu yền là một giá trị xã hội được tích luỹ và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhàn
loại. Nhà nước pháp quyền xuất hiện gắn với cách mạng tư sản và nền dân chủ tư
sản. Nó chỉ tồn tại và phát triển trong diều kiện nhấl định: dó là khi có nhu cẩu
dân chủ và đê bảo đảm dân chủ thì ììhă nước phải quản lý bằnq pháp luật. Nhà
nước pháp quyền Tư sản ra đời đánh dấu bước chuyển căn ban của xã hội từ
nông nghiệp sang công nghiệp, từ phong kiến sang tư sản, từ thần dân sang xã
hội cơng dân. Ớ đây, dưới góc độ lý luận có thể khái quát: nhà nước pháp quyền
tư sán là nhà nước trong dó quyên lực của nó được tuyên bô là thuộc về Iihản
dân, được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, theo nguyên rắc phán quyền,
qnân lý x ã hội bằng pháp luật, kiểm soát và hạn c h ế quyển lực nhà nước, bảo
dám các quyên công dân và quyền con nại tời. y
1.2.2. Đ ặ c đ iể m c ủ a N h à nước p h á p q u y ề n Tư sản
Nghiên cứu lý luận Mác Lênin vồ nhà nước chúng ta thấy trong lịch sử chí
CĨ bốn kiểu nhà nước là nhà nước chiếm hữu nô lộ, nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền không phải là
một kiểu nhà nước đặc biệt. Nói đến “pháp quyền” là nhấn mạnh tính pháp lý
của nhà nước, nói “tư sản” là chỉ tính chất, nội dung và bản chất của một kiểu
nhà nước. Nhà nước pháp quyền tư sản được các nhà tư sản đề ra trong cuộc đấu
tranh chống nền chun chế phong kiến. Nó địi hỏi nhà nước phái được xây
dựng trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, phải điều hành xã hội theo Hiến pháp và
pháp luật. Với nội dung ấy, nhà nước pháp quyền tư sản là một bước tiến trong
lịch sử phát triển của xã hội lồi người. Nhà nước pháp quyền tư sán có những
đặc điểm sau đày:
* Tliứ nhất, nhà nước pháp quyền lả nhà nước trong đó pháp luật giữ địa vi
thống trị: Pháp luật là cơ sở của mọi hình thức tổ chức, hoạt động của quyền lực
công k h a i ^ g h ĩ a là mọi chính sách, quyền ra “mệnh lệnh” của nhà nước đều
phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại giữa nhà nước
và cá nhân cũng phải được xây dựng trên cơ sở của pháp luật. Nhà nước chỉ trở
thành nhà nước pháp quyền khi nó được tổ chức và hoạt động trên
CƯ
sở luật
nước pháp quyền khi nó được tố chức và hoạt động trên cơ sở luật pháp. Nói một
cách khác, nhà nước pháp quyền đích thực là nhà nước, trong đó pháp luật, trước
h ể t ì a Hiến pháp và các đạo luật phải được giữ địa vị tối cao, mọi cơ quan và cá
nhàn cầm quyền chỉ được làm những gì mà luật pháp cho phép, mọi người đều
binh đẳng trước pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phái bị xử lý.
Xuất phát từ nguyên tắc tính tối cao của luật, tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước tư sản đều dựa trên một hệ thống pháp luật khá đầy đủ và chặt
chẽ. Hệ thống pháp luật đó quy định hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước,
tố chức của các CƯ quan nhà nước, phân định rõ thẩm quyền và mối quan hệ giữa
chúng với nhau. Hình thức vãn bản có ý nghĩa quan trọng nhất về tổ chức nhà
nước của các nhà nước tư sản là Hiến pháp. Hiến pháp tư sản là văn bản pháp
luật có giá trị cao nhất trong pháp luật tư sán. Nó xuất hiện sau khi nhà nước tư
sản ra đời, nó là cương lĩnh mà trong đó giai cấp tư sản xác định cơ sở kinh tế,
chính trị, xã hội cho nền chuyên chính của mình. Trong tất cả các nước tư sản,
qu yền lập pháp theo quy định của Hiến pháp chỉ thuộc về Nghị viện và luật là
loại văn bản được sử dụng nhiều nhất trong mọi hoạt động xây dựng pháp luật
của nhà nước tư sản.
Hiến pháp và các đạo luật của nhà nước tư sản đều ghi nhận quyền tư hữu
thiêng liêng, bất khả xâm phạm và tuyên bố bảo vệ quyền tư hữu của tất cả mọi
người: “Khơng ai có th ể mất quyển sở hữu là m ột quyền thiêng liêng bất khả
của nhà nước tư bàn, là phương tiện để nhà nước tư sản quản lý kinh tế xã hội, là
công cụ quan lý của nhà nước và thực hiện dân chủ tư san. Việc nhà nước tư sản
quán lý xã hội bằng pháp luật, tự đặt mình dưới pháp luật... không phải do ý
muốn chú quan của các nhà cầm quyền mà là do đòi hỏi khách quan của việc
tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước tư sản đối với quá trình phát triển kinh
tế, m ở rộng nền dân chủ tư sản, đáp ứng yêu cầu phát triển mới của chủ nghĩa tư
bán. Chủ nghĩa tư bản cần đến pháp luật vì pháp luật là phương tiện chủ yếu để
xác lập và bảo vệ vững chắc quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và chế độ tư hữu.
Mọi hoạt động của nhà nước, các chính sách của nhà nước đều dựa trên cơ sở
"
T uyên ngôn nhân quyền và d ân quyền Pháp năm 1879.
pháp luật tức là luật vạch giới hạn đối với quyền ra m ệnh lệnh của nhà nước, luật
trở thành hình thức kiểm sốt của xã hội đối với nhà nước, và luật cũng là cái
hao đám lợi ích của tất ca mọi người, của xã hội công dân. Với việc quan lý kinh
tế xã hội bằng pháp luật, nhà nước pháp quyền tư sản đã đáp ứng được hai yêu
cáu cúa chủ nghĩa tư bản thời hiện đại là vừa phục vụ đắc lực cho q trình tích
lũy tư bản để đem lại lợi ích ngày càng lớn cho giới chủ, vừa cố gắng “ làm yên
lòng” những người lao động. Ớ đây, nhà nước pháp quyền đã trở thành phương
tiện chú yếu đế chủ nghĩa tư bản xác lập và bảo vệ vững chắc cơ sở pháp lý quan
hệ sán xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng và chế độ tư bản nói chung để xác định
những thiết chế và cơ chế cần thiết ngăn chặn hiệu quả hơn một chính quyền độc
tài tham nhũng và kcm cỏi. Thône qua cấu tạo của bộ máy nhà nước và hộ thống
pháp luật, bộ máy nhà nước tư sán đã tạo ra cơ chế phản biện, gây sức ép báo
đám tính đúng đán của việc hoạch định chính sách, pháp luật. Chế định công
dân, chế định kinh tế trong pháp luật tư sản khá phát triển, hệ thống toà án khá
phong phú tách khỏi bộ máy hành pháp, đó là những thành quả đáng trân trọng.
Chế độ phân quyền và pháp luật tư sản đã là công cụ quản lý của nhà nước để
thực hiện dân chú tư sán, thực hiện ở một mức độ nhất định việc bảo vệ quyền
cơne; dân và quyền con người. Nói cách khác, về phương diện lịch sử, nhà nước
pháp quyền tư sán ra đời đã góp phần tích cưc thúc đẩy sự phát triển của nhân
loại.
Nhà nước pháp quyền tư sản tuy quản lý xã hội bàng pháp luật nhưng đề cao
tới mức xã hội có xu hướng lệ thuộc vào pháp luật. Xã hội tư sản quá đề cao
pháp luật mà không chú ý đến việc giáo dục lối sống và đạo đức, ban hành nhiều
luật “rừng luật” mà xã hội vẫn bị “luật rừng” điều chỉnh. Mâu thuẫn giữa các
đáng phái chính trị, tập đồn tư bán đã làm cho việc xây dựng pháp luật và thực
hiện các chính sách gặp nhiều trở ngai. Suy đến cùng, hệ thống pháp luật và các
quy định của Chính phù trở nên hình thức chỉ làm vừa lịng giai cấp cầm quyền
chứ khơng phù hợp với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước pháp
quyền tư sản chí nhân danh nhân dân, cịn thực tế nó điều chính các chuẩn mực
của pháp luật nhằm phục vụ cho quyền lợi của giai cấp mình.
V
T h ứ hai: Việc tơ chức quyền lực theo nguyên tăc phản quyên.
Cơ chế quyền lực nhà nước là cơ chế phức tạp, nó bao hàm hệ thống
các cơ quan công quyền để thực thi quyền lực và hệ thống các quan hệ quyền lực
náy sinh trong quá trình thực hiện quyền lực của cơ quan cơng quyền. Học
18
Ihuyết nhà nước pháp quycn tư sán đã đưa ra một nguyên tắc cơ hán cho việc tố
chức bộ máy nhà nước tư sán, đó là nguyên tăc phân chia quyền lực.
Nguyên tắc phân quyền từ khi ra đời đến nay đã được lý giải và được hiểu
theo nhiều cách khác nhau và được các học giả tư sản cho là hòn đá tảng của nền
dân chú tư sán, được áp dụng vào trong tổ chức và hoạt động nhiều quốc gia tư
sản trên thế giới, v ề mặt lịch sử, nguyên tắc này đã giúp giai cấp tư sản đấu
tranh có hiệu quá đế chống lại sự chuyên chế trong chế độ nhà nước, chống lại
sự lạm quyền thường đưa đến sự áp bức độc đốn, qua đó bảo vệ các quyền tự do
dân chủ của nhân dân, phát triển dân chủ trong quán lý nhà nước, bảo vệ xã hội
khỏi sự chuycn quyền.
'
„
,
...
Nói tới nguyên tăc phân quyển là nói tới việc phàn chia quyền lực ra làm 3
loại: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư ph áp ^ T ico nguyên tác này
thì sự phân bố quyền lực giữa các cơ quan nhà nước phải đảm báo sao cho khơng
có cơ quan nào phụ thuộc vào cơ quan nào, khơng có cơ quan nào nắm trọn vẹn
quyền lực trong tay mình, đồng thời khơng có cơ quan nào nằm ngoài sự giám
sái, kiểm tra từ phía các cơ quan nhà nước khác.
""^-^Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện (Ọuốc hội) - cơ quan đại diên của nhàn
dân, được lập ra qua phổ thông đầu phiếu. Quyền lập pháp được hiểu là quyền
lập, sứa đối hoặc hủy bỏ luật, giám sát việc thi hành pháp luật, Mác, Angghen đã
vạch rõ bản chất của pháp luật tư sản trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản như
sau: “Pháp luật của các Ơ>1 Í>chỉ lả ý chí của giai cấp các ônsị dược đề lên thành
lu ậ t"1".
Nếu quan niệm luật là ý chí của nhà nước được nâng lên thành luật thì ý chí
ở đây là ý chí của cơ quan đại diện cho nhân dân, suy cho cùng là ý chí của nhân
dân vì thơng qua bầu cử nhân dân đã thể hiện ý chí của mình, đã ủy quyền cho
những đại diện của mình. Nhiều khi ý chí của nhân dân được biểu thị một cách
trực tiếp như thông qua đạo luật cơ bản là Hiến pháp, hoặc như thực hiện dưới
hình thức trưng cầu ý dân. Giới hạn phạm vi quyền lập pháp do Hiến pháp quy
C. M ác - Ph. Á ngghen Tuyến tập, Tập ỉ, Nxb. S ự thật, tì. 1980, tr. 262, 263.
19
định. Hiến pháp the hiện tính tối cao, hiệu lực cơ bán cao nhất của dạo luật cơ
ban. cơ quan lập pháp hoạt động trong khuôn khổ mà Hiến pháp quy định, các
đạo luật khác do cơ quan lập pháp thông qua đều phái phù hợp với Hiến pháp.
Trong phạm vi cho phép của Hiến pháp, cơ quan lập pháp có thể trao một số
quyền của mình cho cơ quan hành pháp. Trong hoạt động làm luật của mình, cơ
quan lập pháp luôn phải chú ý tới việc thực hiện đúng thẩm quyền và trình tự lập
pháp.
Quyền lập pháp bao gồm cả việc kiểm tra giám sát thường xuyên đối với các
văn bản pháp luật của nhà nước kể cả về nội dung và phạm vi điều chỉnh của văn
bán uy quyền. Mọi văn bán sai trái, mọi vi phạm của cơ quan lập pháp đều có
thế dẫn đến sự vơ hiệu c ủa vãn bản. Hình thức giám sát quan trọng nhất là giám
sát tính hợp pháp trong lĩnh vực lập pháp, lập quy của cơ quan nhà nước. Hình
thức này được chú ý nhiều ở Mỹ và một số nước Châu Âu, phát triển nhanh sau
chiến tranh thế giới thứ hai và đến đầu những năm 90 đã có hơn một trăm nước
có tổ chức giám sát hợp hiến dưới các hình thức khác nhau: giám sát của toà án,
của các hội đổng, của các ủy ban giám sát hiến pháp của các nghị viện và các
hoạt độn 2 giám sát của các nguycn thủ quốc gia.
^
-^Quyền hành pháp chính là quyền thi hành pháp luật. Cơ quan thực hiện
qưvền hành pháp là cơ quan thực hiện sự ủy quyền từ phía cơ quan lập pháp.
Hoạt động của nó phải thực hiện trên cơ sở có uỷ quyền, sự tán thành của cơ
quan lập pháp, cơ quan đại diện của nhân dân và khơng được vượt ra ngồi phạm
vi được uỷ quyền. Muốn như vậy mọi hoạt động của cơ quan hành pháp phải dựa
vào pháp l u ậ t . ^ á c nhà tư tưởng nền pháp quyền tư sản ở thế kỷ 17, 18 nổi tiếng
như Lôccơ, Môngteskiơ xem quyền hành pháp như là quyền chỉ huy quân sự,
quyền cưỡng chế thi hành pháp luật, cơ quan hành pháp là cư quan tổ chức quán
ly điều hành mọi công việc của đất nước nhằm phục vụ lợi ích chung của tồn xã
hội. ” ^
Cơ quan hành pháp mạnh là điều kiện để xây dụng nhà nước pháp quyền
mạnh, nếu cơ quan hành pháp yếu thì không thể xây dựng được nhà nước pháp
quyền với đầy đủ ý nghĩa của nó. Hoạt động của cơ quan hành pháp bao giờ
cũng liên quan trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của công dân trong xã hội cho nên
hoạt độ n g đó phủi được dựa trên cơ sở của luật pháp, dựa trên cơ sở có sự ủy
quyền của cơ quan đại diện nhân dân - cơ quan lập pháp. Điều đó có nghĩa là
mọi quyết định hay hành vi của cơ quan hành pháp có liên quan đến công dân
20
đều phái dựa trên cơ sở pháp luật - dựa trên những giá trị đảm báo sự bình đẳng,
dân chủ. Vấn đề đặt ra là hoạt động hành pháp phải bảo đảm các quyền hợp pháp
của công dân, đổng thời bảo đảm cho chúng được thực hiện đẩy đủ các cồng vụ
theo quy định của luật pháp. Nếu như công dân “có th ể làm tất cả những ÍỊÌ mà
luật khơng cấ m ”, thì cơ quan hành pháp “chỉ được làm nhữnỉỊ iỊÌ mà luật cho
p h é p \ Những quan chức của cơ quan hành pháp thực thi pháp luật mà vi phạm
pháp luật thì bị xử lý nặng hơn người dân bình thường và có thể bị đào thải. Pháp
luật địi hỏi cơng dân phải có trách nhiệm với nhà nước và xã hội, đồng thời
cũng địi hỏi củ nhà nước phải có trách nhiệm với cơng dân. Trách nhiệm đó
trước hết là các báo đảm pháp lý để thực hiện các quyền tự do dân chủ, nâng cao
dân trí, ngăn ngừa các hành vi lộng quyền của bộ máy hành pháp.
Sự chuyển biến tốt của bộ máy hành pháp sẽ tác động tốt và thuận lợi nhiều
cho các quyền lập pháp và tư pháp.
Quyền tư pháp: Là quyền xét xử những vi phạm pháp luật (tội phạm, những
tranh chấp, xung đột trong xã hội).Trong nguyên tác phân quyền, cơ quan tư
pháp có vị trí đặc biệt: nó hạn chế sự can thiệp của cơ quan lập pháp đối với
công việc của cơ quan hành pháp, sự lấn át của cơ quan hành pháp đối với công
việc của cơ quan lập pháp và ngược lại. Nếu cơ quan lư pháp vi phạm quyền
cơng dân thì cơ quan lập pháp và hành pháp sẽ dùng cơ chế của mình để bảo vệ
M
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Tiền đề cơ bản của hoạt động tư pháp là sự hoạt
’
,
,
,
dộng đơc lập của thẩm phán tịa án. Theo Hêghcn, sự phân quyền trong nhà nước
là sự bảo đảm tự do cơng cộng và chính các cơ quan nắm quyền tư pháp là sự
bảo đảm cho sự tự do cơng cộng ấy. Chi có như vậy cơ quan tư pháp mới có thế
hoạt động có hiệu quả và thực hiện tốt chức năng của mình.
Như vậy, nội dunơ của các nguyên tắc phân quyền là sự chuyên môn hóa của
các cơ quan cơng quyền. Nghị viện - cơ quan lập pháp nắm giữ tồn bộ quyền
lập pháp khơng tham dự trực tiếp việc thực hiện pháp luật cua Chính phủ. Chính
phủ nắm giữ tồn bộ quyền hành pháp và toàn bộ quyền tư pháp thuộc về cơ
quan tư pháp. Sự sắp xếp quyền lực như vậy nhằm đảm bảo khơng có sự lạm