BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
CAO THỊ OANH
NGUYÊN TẮC PHÂN HÓA TRÁCH NHIỆM HÌNH sự
TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM
■
■
■
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã sơ'
: 62.38.40.41
LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC
•
•
•
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Lê Văn Cảm
THƯ VIỆ N
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHÒNG Đ O C __ Q,(?SỈ)U-
HÀ NỘI -2008
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học trong luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Cao Thị Oanh
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu................................................................................................................
1
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc phân hóa trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt N am ............................................
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của ngun tắc phân hóa trách nhiệm
10
10
hình sự ................................................................................................................
1.2. Căn cứ, nội dung và yêu cầu về giới hạn phân hóa trách
nhiệm hình s ự .....................................................................................................
19
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
vói một số ngun tắc cơ bản của luật hình sự............................................
3
\
1.4. Khái quát các qui định về phân hóa trách nhiệm hình sự
trong pháp luật hình sự Việt Nam .................................................................
38
Chương 2: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật hình sự năm 1999....................................................................................
55
2.1. Ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và qui định về
ngun tắc xử lí về hình s ự .............................................................................
55
2.2. Ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và qui định về
phân loại tội p h ạ m .............................................................................................
57
2.3. Ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và quiđịnh về
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình s ự ........
62
2.4. Ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và qui định về các
loại hình phạt và quyết định hình p h ạ t..........................................................
66
2.5. Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và qui định về cấu
thành tội phạm và chế tài đối với các tội phạm cụ th ể ...............................
99
Chương 3: Hồn thiện Bộ luật hình sự năm 1999 theo u cầu
của ngun tắc phân hóa trách nhiệm hình sự .......................................
3.1. Hoàn thiện qui định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
128
130
sự, miễn trách nhiệm hình s ự .........................................................................
3.2. Hồn thiện qui định về các loại hình phạt và quyết định hình
134
p h ạ t......................................................................................................................
3.3. Hồn thiện qui định về cấu thành tội phạm và chế tài đối với
157
các tội phạm cụ th ể ...........................................................................................
Kết lu ậ n ..............................................................................................................
171
Danh mục các cơng trình đã cơng bố của nghiên cứu sinh liên
quan đến luận án ............................................................................................
176
Danh mục tài liệu tham k h ả o ......................................................................
177
Phụ lụ c ................................................................................................................
184
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1.
BLHS
:
Bộ luật Hình sự
2.
BCA
:
Bộ Cơng an
3.
Nxb.
:
Nhà xuất bản
4.
TANDTC
:
Tịa án nhân dân tối cao
5.
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
6.
Tr.
:
Trang
7.
VKSNDTC
:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
8.
X HCN
:
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một bộ phận của chính sách hình sự, các ngun tắc của luật hình sự
giữ vai trị định hướng, chỉ đạo đối với việc qui định tội phạm, hình phạt và
các chế định pháp lí hình sự khác, cũng như áp dụng các qui định đó trong
thực tiễn. Chính vì vậy, việc xác định đúng và đủ các nguyên tắc của luật hình
sự là một yêu cầu khách quan của hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đáp ứng yêu cầu này, việc xác định về m ặt lí luận hệ thống các nguyên tắc
của luật hình sự và vận dụng chúng vào hoạt động xây dựng và áp dụng pháp
luật hình sự ở nước ta luôn được chú trọng. Nhiều công trình khoa học pháp lí
hình sự đã tiến hành giải quyết vấn đề xác định hệ thống các nguyên tắc của
luật hình sự và đưa ra những nghiên cứu sâu sắc về các nguyên tắc của luật
hình sự như nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc TNHS trên
cơ sở lỗi, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc dân chủ,
nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm ... Kết quả nghiên cứu lí luận về các
nguyên tắc này cũng được thể hiện rõ nét trong các đạo luật hình sự của nước
ta, đặc biệt là BLHS năm 1999. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng việc
nghiên cứu và vận dụng các nguyên tắc của luật hình sự vào hoạt động xây
dựng và áp dụng pháp luật hình sự của nước ta vẫn cịn nhiều hạn chế làm ảnh
hưởng đến mức độ hoàn thiện của luật hình sự và hiệu quả của hoạt động đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Trước hết, việc nghiên cứu về mặt lí luận hệ thống các ngun tắc của
luật hình sự vẫn thiếu toàn diện. Bên cạnh các nguyên tắc được tập trung
nghiên cứu nói trên, nguyên tắc phân hóa TNHS chưa giành được vị trí xứng
đáng trong các cơng trình nghiên cứu so với vai trị khách quan của nó trong
qui định và xử lí tội phạm. Hạn chế này đã tác động trực tiếp đến vai trò chỉ
2
đạo, định hướng của nguyên tắc phân hóa TNHS đối với hoạt động xây dựng
và áp dụng pháp luật hình sự mà trước hết là tạo ra những bất cập trong các
qui định của luật hình sự.
BLHS năm 1999 của nước ta được đánh giá là văn bản thể chế hóa tập
trung chính sách phân hóa TNHS của Nhà nước cũng là đạo luật thể hiện rõ
nhất nguyên tắc phân hóa TNHS trong các văn bản pháp lí hình sự từ trước
đến nay. Bộ luật này chính là cơ sở pháp lí phục vụ hoạt động đấu tranh phịng
chống tội phạm ở nước ta. Tuy nhiên, qua nhiều năm thi hành, BLHS năm
1999 đã bộc lộ khơng ít những bất cập trong việc thể hiện nguyên tắc phân
hóa TNHS tại nhiều chế định như thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS, miễn
hình phạt, các loại hình phạt, quyết định hình phạt, án treo, TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội... Từ đó, chúng tạo ra nhiều sai sót, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự địi hỏi cần được nhanh chóng
khắc phục. Hơn nữa, nhằm đáp ứng yếu cầu đảm bảo an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội trong giai đoạn phát triển mới của nước ta hiện nay, khi Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế, đang
xúc tiến mạnh mẽ hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN và đang đứng trước những biến động của tình hình tội phạm, địi hỏi
phải có những đổi mới trong chính sách hình sự trong đó bao gồm cả chính
sách phân hóa TNHS. Những định hướng cơ bản về sự đổi mới này đã được
thể hiện rõ tại Nghị quyết số 48 và 49 của Bộ chính trị về “Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng
đến năm 2020” và “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Trong hồn
cảnh đó, việc nghiên cứu nguyên tắc phân hóa TNHS nhằm vận dụng các tri
thức đó vào hoạt động xây dựng và hồn thiện luật hình sự của nước ta là vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Phù hợp với tầm quan trọng của nguyên tắc phân hoá TNHS, nguyên tắc
này cũng như từng nội dung riêng lẻ của nó là phân hóa TNHS trong luật và cá
3
thể hóa TNHS trong áp dụng luật đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học pháp lí hình sự trong nước cũng như ở nước ngồi.
Ở nước ta, ngun tắc phân hố TNHS được nghiên cứu trong nhiều
cơng trình khoa học ở các cấp độ khác nhau.
Trước hết, nhóm cơng trình thứ nhất bao gồm những cơng trình tập
trung nghiên cứu về ngun tắc phân hóa TNHS như: "Ngun tắc phân hóa
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 1999", Tạp chí Luật học, số 2
năm 2000 của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa; "Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết
định hình phạt", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8 năm 1990 của PGS.TS. Võ
Khánh Vinh; Nguyên tắc phân hoá và cá th ể hố trách nhiệm hình sự trong
Luật hình sự Việt Nam , Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp
luật, Hà Nội, năm 1998 của tác giả Phạm Hùng Việt; Ngun tắc cá th ể hố
hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học luật Hà Nội, Hà Nội, năm 2000 của tác giả Phạm Văn Báu; Nguyên tắc
phân hoá trách nhiệm hình sự và sự th ể hiện của nó trong Bộ luật hình sự năm
1999, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện N hà nước và pháp luật, Hà Nội, năm
2002 của tác giả Đỗ Thị M inh Phượng. Những cơng trình này chủ yếu giải
quyết các vấn đề lí luận về ngun tắc phân hóa TNHS và đánh giá sự thể hiện
của nó trong BLHS năm 1999 qua các nội dung cụ thể sau: 1) Nêu ra các quan
điểm về khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS cũng như các khái niệm liên
quan như nguyên tắc phân hoá và cá thể hố trách nhiệm hình sự, ngun tắc
cá thể hố hình phạt; 2 ) Trình bày nội dung và mối quan hệ giữa nguyên tắc
này với một số nguyên tắc khác của luật hình sự như nguyên tắc pháp chế
XHCN, nguyên tắc nhân đạo X H C N ...; 3) Ở m ột mức độ nhất định, các tác
giả đã tiến hành đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong
các qui định pháp luật hình sự Việt Nam đặc biệt là BLHS năm 1999. Tuy
nhiên, trong các cơng trình đã nêu, ngun tắc phân hóa TNHS và sự thể hiện
4
của nó trong BLHS năm 1999 mới chỉ được đề cập từ những khía cạnh riêng lẻ
thơng qua một bài tạp chí hoặc một cách tương đối khái quát trong phạm vi
các luận văn thạc sĩ.
Bên cạnh đó, với tư cách là một nguyên tắc của luật hình sự, tư tưởng
phân hóa TNHS được thể hiện xuyên suốt trong các chế định của BLHS hiện
hành. Vì vậy, trong rất nhiều cơng trình khoa học pháp lí hình sự của nước ta
cũng chứa đựng những nội dung nhất định liên quan đến sự thể hiện của
nguyên tắc phân hóa TNHS trong BLHS năm 1999. Những cơng trình thuộc
nhóm thứ hai này bao gồm: Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995; Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb.
thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996 của PGS.TS. Kiều Đình Thụ; Luật hình sự
Việt Nam - Quyển 1 - Những vấn đề chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
năm 2000 của GS.TSKH. Đào Trí ú c ; Trách nhiệm hình sự và hình phạt, năm
2001 của trường Đại học luật Hà Nội; Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb. Đại học Quốc
gia, Hà Nội, năm 2005 của PGS.TSKH. Lê Văn cảm ; Cấu thành tội phạm - lý
luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2004; Tội
phạm và cấu thành tội phạm, Sách chuyên khảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, năm 2006 của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa; Phân loại tội phạm theo luật
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, năm 2003 của tác giả
Trương Minh Mạnh; Tội phạm có tổ chức - lịch sử và vấn đ ề hôm nay, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2006, của PGS.TS. Hồ Trọng Ngũ; Nguyên
tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, năm 2007 của tác giả Hồ Sĩ Sơn; Các hình
phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội,
năm 2002 của tác giả Nguyễn Sơn; C h ế định trách nhiệm hình sự theo Itiật
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, năm 2004 của tác giả
Phạm Mạnh Hùng; chúng cũng có thể là các bài tạp chí chuyên ngành như:
5
"Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm", Tạp chí Luật học, số 6
năm 1995 của PGS.TS. Lê Thị Sơn; "Chế định miễn hình phạt và các chế định
về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 4 năm 2002; "Chế định án treo và mơ hình lý luận của nó trong
luật hình sự Việt Nam", Tạp chí Tịa án nhản dân, số 2 năm 2005; của
TSKH.PGS. Lê cảm ; "Hình phạt: Một số vấn đề lý luận", Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 10 năm 2000 của PGS.TS. Nguyễn M ạnh Kháng; "Những
đảm bảo cần thiết cho việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 1999", Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 1 năm 2001 của GS.TSKH. Đào Trí ú c ; "Hồn thiện
các qui định của Bộ luật Hình sự về các giai đoạn thực hiện tội phạm", Tạp chí
Tịa án nhăn dân, số 5 năm 1999; "Vấn đề phân loại tội phạm", Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 4 năm 1999 của PGS.TS. Trần Văn Đ ộ... Trong các
cơng trình này, nhiều nội dung thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong
BLHS năm 1999 đã được đề cập đến ở các mức độ khác nhau như phân loại
tội phạm, thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo,
quyết định hình phạt, hệ thống hình phạt, cấu thành tội phạm ... Trong đó, các
tác giả khơng chỉ thể hiện ý kiến đánh giá về tính hợp lí của nội dung được
luật qui định mà còn đưa ra kiến nghị hồn thiện chúng.
Ngồi ra, trong khoa học luật hình sự nước ngoài nhiều tác giả cũng đi
sâu nghiên cứu ngun tắc phân hố TNHS từ những khía cạnh khác nhau.
Đặc biệt, nguyên tắc này đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của một số
nhà khoa học Nga như A. A. M agomedôv qua tác phẩm "Về khái niệm phân
hố và cá th ể hố trách nhiệm hình sự", Chính sách hình sự và cải cách pháp
luật hình sự, Matxcơva, 1997; G. N. Borzenkôv qua tác phẩm "Phân hố trách
nhiệm theo Bộ luật hình sự mới. Những khả năng chưa được thực hiện", Tạp
chí Pháp chế, 2001; T. A. Lesvievski và Kostareva qua táe phẩm "Phân hoá
trách nhiệm hình sự ', Matxcơva, 2000; A. V. Vaxilievxki qua tác phẩm
6
"Phân hố trách nhiệm hình sự và hình phạt trong Phần chung của pháp luật
hình sự", Jaroslav, 2000 v.v.
Tóm lại, trong các cơng trình nêu trên, một số cơng trình chỉ tập trung
nghiên cứu các vấn đề lí luận về ngun tắc phân hóa TNHS, một số cơng
trình lại chỉ đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc phân hoá TNHS trong các qui
định của luật hình sự. Vì vậy, nguyên tắc phân hóa TNHS mới chỉ được
nghiên cứu một cách khái quát hoặc gắn với từng vấn đề riêng lẻ hay từng chế
định của luật hình sự mà chưa được nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ một
cách chun khảo, tồn diện và có hệ thống gắn với thực trạng thể hiện của
nguyên tắc phân hóa TNHS trong các qui định của BLHS năm 1999, chỉ ra
những hạn chế của BLHS hiện hành trong việc thể hiện nguyên tắc này, từ đó
đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hồn thiện pháp luật hình sự. Chính vì
vậy, việc tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu liên quan đến nguyên tắc
phân hóa TNHS, làm sâu sắc thêm nhận thức khoa học về nguyên tắc này,
đánh giá thực trạng thể hiện các địi hỏi của nó trong luật hình sự từ đó đưa ra
các kiến nghị hồn thiện luật phù hợp là yêu cầu của cuộc đấu tranh phịng,
chống tội phạm hiện nay.
3.
Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận án đặt ra các mục đích nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ về mặt lí luận khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS;
- Làm rõ thực trạng thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong các
qui định của BLHS năm 1999;
- Đưa ra các luận cứ khoa học cho việc đề xuất những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật hình sự nhằm đảm bảo các yêu cầu về phân hóa TNHS trong
luật, nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt đừợc mục đích nói trên, luận án đặt
ra các nhiệm vụ sau đây: 1) Nghiên cứu các vấn đề lý luận của nguyên tắc
phân hoá TNHS (bao gồm khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS, mối quan hệ
7
giữa nguyên tắc này với các nguyên tắc khác của luật hình sự, khái quát lịch
sử các qui định của luật hình sự từ trước đến nay trong đó chủ yếu là từ năm
1945 đến nay); 2) Vận dụng các vấn đề lý luận nói trên vào việc nghiên cứu
các qui định của BLHS năm 1999 để xác định những qui định khơng phù hợp;
và 3) Xác định hướng hồn thiện các qui định đó.
3.3. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Để thực hiện những nhiệm vụ
nói trên, luận án xác định đối tượng nghiên cứu bao gồm lý luận về ngun
tắc phân hóa TNHS, pháp luật hình sự của nước ta từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay, đặc biệt là BLHS năm 1999, các luận cứ khoa học để
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự.
3.4. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Do tính chất phức tạp và phạm vi
rộng của đề tài nguyên tắc phân hóa TNHS, luận án chỉ tập trung nghiên cứu
sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong BLHS năm 1999 thơng
qua m ột số chế định cơ bản. Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này,
bên cạnh việc làm sáng tỏ các vấn đề lí luận về phân hóa TNHS trong luật,
luận án cũng nghiên cứu ở m ột mức độ nhất định các vấn đề lí luận cơ bản
về nguyên tắc phân hóa TNHS nói chung. Đ ồng thời, khi phân tích, giải
quyết các vấn đề được đặt ra, luận án có phân tích, so sánh ở chừng mực nhất
định với các qui định của luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến nay và luật
hình sự một số nước khác.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận án
4.1.
Cơ sở lý luận của luận án: Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
nói trên, luận án dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí M inh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay,
xem đó là phương pháp luận để giải quyết những vấn đề thuộc nội dung của
luận án. Nói cách khác, đó là căn cứ cơ bản giúp luận án làm sáng tỏ những
vấn đề thuộc khái niệm, những mối liên hệ của ngun tắc phân hóa TNHS
trong luật hình sự nước ta, những nét đặc thù và giá trị k ế thừa về nội dung của
8
nguyên tắc phân hóa TNHS trong các qui định của BLHS năm 1999 qua đó
giúp luận án làm nổi bật sự biến đổi biện chứng trong sự thể hiện của nguyên
tắc này ở các qui định của BLHS năm 1999 cũng như nhu cầu hoàn thiện một
số qui định của nó.
4.2.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thê của luận án: Luận án sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương
pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội h ọ c...
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án đã đưa ra các lập luận khoa học để chứng minh phân
hóa TNHS là một nguyên tắc của luật hình sự; phân tích một cách có hệ thống
khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS, xác định được căn cứ, nội dung và yêu
cầu về giới hạn phân hóa TNHS trong luật làm cơ sở lí luận cho việc đánh giá
sự thể hiện của nguyên tắc này trong BLHS năm 1999; làm rõ được mối quan
hệ giữa nguyên tắc phân hóa TNHS với một số nguyên tắc khác của luật hình
sự là: nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc
công bằng.
Thứ hai, luận án đã phân tích, đánh giá một cách tương đối sâu sắc về
thực trạng thể hiện nguyên tắc phân hóa TNHS trong BLHS năm 1999 thông qua
các chế định cơ bản về: 1) Ngun tắc xử lí về hình sự; 2) Phân loại tội phạm; 3)
TNHS; 4) Các loại hình phạt và quyết định hình phạt; 5) Cấu thành tội phạm;
và chế tài đối với tội phạm cụ thể; chỉ ra những qui định phù hợp và những qui
định chưa phù hợp cần xem xét, chỉnh sửa.
Thứ ba, luận án đưa ra các kiến nghị cho việc sửa đổi, bổ sung các qui
định của BLHS về hình phạt tiền, thời hiệu truy cứu TNHS, TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội, TNHS của những người đồng phạm, cấu
thành tội phạm và chế tài đối với các tội phạm cụ thể theo hướng thể hiện đầy
đủ hơn và hiệu quả hơn ngun tắc phân hóa TNHS trong luật hình sự.
9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu chun khảo về nguyên tắc phân hóa
TNHS và sự thể hiện của nguyên tắc này trong BLHS năm 1999 ở cấp độ một
luận án tiễn sĩ. Các kết luận và kiến nghị mà luận án nêu ra đều có cơ sở khoa
học và thực tiễn, vì vậy, chúng có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng và
hồn thiện luật hình sự, góp phần khắc phục những hạn chế trong BLHS hiện
hành nhằm nâng cao hiệu quả của luật hình sự trong đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
7. Bố cục của luận án
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận án được kết cấu
gồm phần mở đầu, 3 chương (bao gồm: Chương 1: Những vấn đề chung về
nguyên tắc phân hóa TNHS trong luật hình sự Việt Nam; Chương 2: Nguyên
tắc phân hóa TNHS trong BLHS năm 1999; Chương 3: Hoàn thiện BLHS năm
1999 theo yêu cầu của ngun tắc phân hóa TNHS); danh mục các cơng trình
đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỂ CH U N G VỂ N G U Y ÊN T Ắ C PHÂ N H O Á
T R Á C H N H IỆ M H ÌN H s ự T R O N G L U Ậ T H ÌN H s ự V IỆ T NAM
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm
hình sự
Là một dạng trách nhiệm pháp lí, TNHS là trách nhiệm của người phạm
tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm tội
của mình. Những hậu quả pháp lí bất lợi này bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự
tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biộn pháp cưỡng
chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích [18,
tr.126]. Cơ sở pháp lí của TNHS được thể hiện ở cả các qui định của luật hình
sự và luật tố tụng hình sự với những nội dung cụ thể khác nhau. Trong luật
hình sự, TNHS được thể hiện trực tiếp qua các qui định về hình phạt, biện
pháp tư pháp và án tích mà trong đó, hình phạt là hình thức trách nhiệm có
tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Với nội dung như vậy, TNHS được áp dụng
đối với người phạm tội tác động rất lớn đến bản thân người đó cũng như
những người xung quanh và do đó, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Có thể khẳng định rằng, nếu liều lượng TNHS
được áp dụng hợp lý thì sự tác động đó sẽ thể hiện theo hướng tích cực và
ngược lại. Vì vậy, việc tạo ra cơ sở pháp lí trong luật hình sự để có thể quyết
định TNHS ở mức phù hợp với mỗi trường hợp phạm tội cụ thể cũng như việc
xây dựng và áp dụng luật tuân thủ nguyên tắc phân hóa TNHS là một u cầu
mang tính khách quan.
Liên quan đến khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS, thuật ngữ phân
hố nói chung được hiểu là "chia ra thành nhiều bộ phận khác hẳn nhau" [38,
tr.771] hoặc "tính khác biệt, sự khác nhau, sự phân chia, sự chia tách cái tổng
11
th ể ra từng bộ phận, các hình thức và các mức độ khác nhau" [79, tr.40]. Như
vậy, phân hoá nói chung được hiểu là sự phân loại, đánh giá một cách khác
biệt các đối tượng khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định. Từ khái niệm
phân hóa đó, chúng tơi cho rằng, phân hố TNHS là sự phân chia các trường
hợp phạm tội thành những nhóm khác nhau dựa vào tính nguy hiểm cho xã
hội của chúng và các đặc điểm nhân thân loại người phạm tội, đồng thời, qui
định và áp dụng với chúng liều lượng TNHS phù hợp. Trong các qui định của
luật hình sự, phân hóa TNHS thể hiện ở việc chia tách tội phạm nói chung
thành những nhóm khác nhau trên cơ sở tính nguy hiểm cho xã hội của chúng
và các đặc điểm nhân thân loại người phạm tội, đồng thời, qui định với chúng
TNHS khác biệt. Trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, phân hóa TNHS
thể hiện qua việc áp dụng mức TNHS khác biệt đối với mỗi cá nhân thực hiện
hành vi phạm tội cụ thể theo nguyên tắc đảm bảo tương xứng giữa TNHS với
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và phù hợp với các đặc điểm nhân
người phạm tội. Như vậy, đường lối xử lí mang tính phân hóa được thể hiện
qua việc qui định và xử lí một cách khác biệt đối với các trường hợp phạm tội
khác nhau về tính nguy hiểm cho xã hội và nhân thân người phạm tội. Đường
lối xử lí này được qui định trong luật hình sự và từ đó được chuyển tải vào
thực tiễn áp dụng luật hình sự.
Xung quanh việc khẳng định phân hóa TNHS là một nguyên tắc của
luật hình sự cũng như lý giải cơ sở của nguyên tắc này đã xuất hiện nhiều ý
kiến của các tác giả trong và ngoài nước. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà khẳng
định: Những hành vi phạm tội cụ thể khơng những có sự khác nhau về ngun
nhân và điều kiện phát sinh, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm phạm
mà cịn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy hiểm của hậu quả
do hành vi phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết
khách quan và chủ quan khác. "Chính do có sự khác nhau như vậy mà vấn đề
phản hoá và cá th ể hoá TNH S được đặt ra và được coi là một nguyên tắc của
12
luật hình sự Việt Nam ” [25, tr.27-28]. Có tác giả khẳng định: Với vai trò là
một nguyên tắc của luật hình sự, phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt "tồn
tại xun suốt thượng tầng pháp lí hình sự, đó là lý luận về luật hình sự, các
quy phạm pháp luật hình sự, các quan hệ pháp luật hình sự và ý thức pháp
luật" [66, tr .ll] . Bên cạnh đó, cũng có tác giả cho rằng: "Phân hóa TNH S và
cá thê hóa hình phạt là hai nguyên tắc có quan hệ biện chứng với nhau" [45,
tr.21]. Vấn đề này cũng được đề cập trong nhiều công trình khoa học pháp lí
hình sự Nga. G.A.Zlơbin, S.G.Kelina. và A.M.Jakovlev cho rằng: “Nguyên tắc
phân hóa TN H S (trong đó có hình phạt) là một trong những ngun tắc của
chính sách hình sự" [78, tr.54]. Khác với cách tiếp cận trên, một số tác giả lại
cho rằng: Nếu coi nguyên tắc là tư tưởng chỉ đạo, là quy luật của hiện tượng
xã hội thì tư tưởng phân hóa bao trùm và thâm nhập không chỉ một ngành luật
mà là các ngành luật. Tư tưởng phân hóa hình phạt trong luật hình sự được
chuyển hóa vào pháp luật thi hành án hình sự và việc tách bạch chúng là
khơng thể. Chúng mang tính chất liên quan và thâm nhập lẫn nhau. Cho nên,
cần đồng ý với quan điểm cho rằng ngun tắc phân hóa hình phạt là ngun
tắc liên ngành [77, tr.30].
Như vậy, mặc dù giữa các quan điểm nói trên vẫn tồn tại những khác
biệt nhất định nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất trong việc khẳng
định phân hóa TNHS là một ngun tắc của luật hình sự.
Xuất phát từ khái niệm nguyên tắc của luật hình sự ‘‘là những tư tưởng
chỉ đạo và các định hướng đường lối cho tồn bộ q trình qui định tội phạm
và hình phạt, áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét
x ỉ r [62, tr.222], phân hóa TNHS chỉ có thể được xác định là một ngun tắc
của luật hình sự nếu nó có đầy đủ cơ sở để trở thành một nguyên tắc của luật
hình sự đồng thời thực sự giữ vai trò chỉ đạo, định hướng đối với hoạt động
xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự.
13
Trước hết, cơ sở của việc phân hóa TNHS chính là sự đa dạng về tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội trong thực
tiễn, gắn với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Có thể nói rằng, tội
phạm được thực hiện trong thực tiễn rất khác nhau về tính nguy hiểm cho xã
hội. Trong bức tranh tổng thể về tội phạm, sự khác biệt không chỉ tồn tại giữa
những trường hợp thực hiện các tội phạm khác nhau mà còn tồn tại ngay cả
trong những trường hợp thực hiện cùng một loại tội phạm. Nguyên nhân của
sự khác biệt này có thể là sự khác biệt về quan hệ xã hội bị xâm hại, về tính
chất hành vi phạm tội, về hậu quả của tội phạm, về tính chất và mức độ lỗi, về
hoàn cảnh thực hiện tội phạm, về loại chủ thể thực hiện tội phạm, về hình thức
thực hiện tội phạm, về giai đoạn thực hiện tội phạm... Chính sự khác biệt về
các yếu tố cụ thể đó dẫn đến sự khác biệt về tính nguy hiểm cho xã hội của
chúng. Cơ sở này giữ vai trò quyết định trong việc đặt ra u cầu xử lí theo
hướng phân hóa các hành vi phạm tội vì việc xử lí tội phạm chỉ thực sự có hiệu
quả khi nó phù hợp với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Bên cạnh đó,
nhân thân người phạm tội cũng có thể tạo ra sự khác biệt giữa các trường hợp
phạm tội. Ngoài những đặc điểm khác biệt về nhân thân người phạm tội ảnh
hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, một số đặc điểm khác biệt
về nhân thân có thể phản ánh khả năng giáo dục khác nhau hoặc hoàn cảnh
đặc biệt của người phạm tội. Những đặc điểm khác biệt này cũng cần được
tính đến khi xử lí người phạm tội vì hiệu quả của biện pháp được áp dụng phần
nào phụ thuộc vào mức độ phù hợp của nó với các đặc điểm nhân thân người
phạm tội. Như vậy, sự đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và
nhân thân người phạm tội đặt ra yêu cầu xử lí tội phạm theo hướng phân hóa
để đảm bảo biện pháp xử lí đối với mỗi trường hợp phạm tội tương xứng với
tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và phù hợp với nhân thân người phạm
tội. Khi yêu cầu này được thực hiện, các hành vi phạm tội xảy ra có thể được
xử lí một cách nghiêm minh và cơng bằng, điều kiện để những người bị xử lí
14
tự giáo dục ý thức tự giác chấp hành pháp luật cũng như để mọi người tin
tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật được bảo đảm và nhờ đó lợi ích của
Nhà nước, của xã hội, của cá nhân được bảo đảm ở mức độ tốt nhất. Ngược
lại, nếu phân hóa TNHS khơng trở thành một ngun tắc của luật hình sự thì
việc qui định và áp dụng TNHS đối với người phạm tội có thể khơng tương
xứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc không phù hợp với các
đặc điểm nhân thân người phạm tội. Khi đó, các ch ế tài hình sự khơng phát
huy được hết khả năng răn đe, giáo dục, lòng tin vào sự nghiêm minh, công
bằng của pháp luật bị xói mịn thậm chí có thể phát sinh tư tưởng bất mãn,
khinh nhờn pháp luật. Tất cả những hiện tượng đó đều ảnh hưởng tiêu cực đối
với trật tự pháp luật. Nói cách khác, phân hóa TNHS cần phải trở thành tư
tưởng chỉ đạo, định hướng đường lối đối với tồn bộ q trình qui định tội
phạm và TNHS và việc phân hóa TNHS trở thành một nguyên tắc của luật
hình sự là một yêu cầu khách quan.
Là một bộ phận cấu thành của chính sách hình sự, định hướng phân hóa
TNHS xuất hiện cùng với việc hoạch định chính sách hình sự và là một loại
phương tiện để thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Khi xác định
những định hướng và đề ra các chủ trương trong việc sử dụng pháp luật hình
sự vào lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm, Nhà nước bao giờ cũng phải
căn cứ vào tình hình tội phạm trong thực tiễn, đến sự đa dạng về tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Do đó, chủ trương
xử lí như thế nào (nghiêm trị hay khoan hồng) đối với từng nhóm tội phạm
cũng như đối với từng loại người phạm tội đều phải dựa trên những cơ sở khoa
học và thực tiễn. Từ đó, chính sách phân hóa TNHS giữ vai trị định hướng, chỉ
đạo trong hoạt động xây dựng và hoạt động áp dụng luật hình sự. Chính sách
phân hóa TNHS trước hết được thể chế hóa vào các đạo luật hình sự, thể hiện
xuyên suốt trong các chế định về tội phạm và TNHS theo hướng cụ thể hóa
chủ trương xử lí tội phạm của Nhà nước. Như vậy, việc phân hóa TNHS luôn
15
ln phụ thuộc vào chính sách hình sự của Nhà nước, vào quan điểm của Nhà
nước về tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Điều này lí giải
sự khác biệt về nội dung và mức độ phân hóa TNHS trong luật hình sự của các
Nhà nước khác nhau. Mỗi Nhà nước xuất phát từ bản chất giai cấp của mình
bao giờ cũng có cách quan niệm riêng về tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và nhân thân người phạm tội từ đó đề ra chính sách xử lí tội phạm khác
nhau. Trong Nhà nước chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư sản, luật hình sự ln
thể hiện nội dung phân hóa theo hướng bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của thiểu số
giai cấp bóc lột. Ngược lại, trong Nhà nước XHCN luật hình sự ln thể hiện
nội dung phân hóa TNHS theo hướng bảo vệ quyền lợi của đa số, nghiêm trị
những hành vi cố tình xâm hại quyền lợi của nhân dân lao động, những người
ngoan cố, chống đối, khoan hồng đối với những người tự thú, ăn năn hối cải...
Trong mỗi Nhà nước, ở các giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau nội dung cụ thể
của chính sách hình sự cũng có thể thay đổi và do đó, nội dung và mức độ
phân hóa TNHS cụ thể cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, luật hình sự bao giờ
cũng phải thể hiện tư tưởng phân hóa TNHS trong các chế định về tội phạm và
TNHS cho phép cụ thể hóa đường lối xử lí về hình sự khác nhau đối với các
tội phạm khác nhau, đối với các nhóm trường hợp phạm tội khác nhau, đối với
những nhóm người phạm tội khác nhau.
Phân hố TNHS là tư tưởng chỉ đạo có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động xây dựng và áp dụng luật hình sự. Đối với hoạt động xây dựng luật hình
sự, phân hố TNHS chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng luật hình sự để tạo ra
hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự thể hiện đường lối xử lý có phân hố
đối với tội phạm. Đường lối xử lý này vừa thể hiện tính khoa học, phù hợp với
tính đa dạng, phức tạp của tội phạm trong thực tiễn lại vừa đảm bảo phù hợp
với các‘ nguyên tắc cơ bản khác của luật hình sự như nguyên tắc pháp chế
XHCN, nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc cơng bằng... Kết quả nghiên
cứu luật hình sự nước ta từ trước đến nay cho thấy đường lối xử lí phân hóa
16
ln được thể hiện trong luật hình sự. Đường lối xử lí này được thể hiện qua
nhiều nội dung cụ thể như: 1) Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các
nhóm tội phạm khác nhau; 2) Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các
tội phạm khác nhau; 3) Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường
hợp phạm cùng một tội nhưng khác nhau về mức độ nguy hiểm cho xã hội; 4)
Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường hợp phạm cùng một tội
nhưng khác nhau về độ tuổi của chủ thể thực hiện (chủ thể là người đã thành
niên hay chưa thành niên); 5) Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các
trường hợp phạm cùng một tội nhưng khác nhau về giai đoạn thực hiện tội
phạm; 6) Qui định đường lối xử lí khác nhau đối với các trường hợp phạm
cùng một tội nhưng khác nhau về hình thức thực hiện tội phạm. Đối với hoạt
động áp dụng luật hình sự, phân hoá TNHS tạo ra cơ sở định hướng để chủ thể
áp dụng luật hình sự thực hiện tốt yêu cầu cá thể hoá TNHS. Kết quả của hoạt
động xây dựng luật hình sự dựa trên tinh thần phân hóa TNHS chính là những
quy phạm pháp luật hình sự qui định đường lối xử lý một cách khác biệt đối
với những nhóm trường hợp phạm tội khác nhau. Kết quả này chính là cơ sở
để có thể cá thể hóa TNHS trong những trường hợp phạm tội cụ thể. Khi tiến
hành xác định TNHS cho từng trường hợp phạm tội, các cơ quan áp dụng luật
phải xác định rõ TNHS được áp dụng đối với từng người phạm tội. Sự xác định
này khơng hề đơn giản vì các trường hợp phạm tội trong thực tiễn rất phong
phú, đa dạng, việc lựa chọn loại và mức TNHS để áp dụng đối với từng người
phạm tội trong các trường hợp đó khơng phải bao giờ cũng có những quan
điểm chung thống nhất và không phải bao giờ cũng phù hợp với yêu cầu của
ngun tắc phân hóa TNHS. Vì vậy, cơng việc mà cơ quan áp dụng luật cần
làm là vận dụng đường lối phân hóa TNHS vào các trường hợp cụ thể để giải
quyết vấn đề TNHS cho người phạm tội. Lúc này, cơ quan áp dụng luật cần
xác định một cách cụ thể, chính xác tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
được thực hiện và những đặc điểm nhân thân người phạm tội để vận dụng một
17
cách hợp lí đường lối xử lí tương ứng đã được luật hình sự qui định. Thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta cho thấy mỗi trường hợp phạm tội cụ thể
đều thể hiện một mức độ nguy hiểm cho xã hội nhất định và có những đặc
điểm riêng về nhân thân người phạm tội. Những yếu tố này luôn được các cơ
quan tiến hành tố tụng cân nhắc khi quyết định TNHS đối với người phạm tội
theo hướng tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội lớn hơn thì TNHS được áp
dụng nghiêm khắc hơn; đối với những trường hợp phạm tội tương đương về
tính nguy hiểm cho xã hội, trường hợp nào người phạm tội có nhân thân tốt
hơn thì TNHS được áp dung nhẹ hơn...
Những phân tích trên cho phép chúng tơi khẳng định rằng, phân hố và
cá thể hố TNHS vừa có cơ sở là sự đa dạng về tính nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm vừa luôn thể hiện vai trị định hướng, chỉ đạo q trình xây
dựng và áp dụng luật hình sự. Do đó, nó hồn tồn thoả mãn yêu cầu đối
với một nguyên tắc của luật hình sự - nguyên tắc phân hoá TNHS với nội
dung là: TNHS được qui định và áp dụng phải mang tính phân hóa để đảm
bảo tương xứng với tính nguy hiểm của tội phạm và phù hợp với nhân thân
người phạm tội.
Liên quan đến khái niệm nguyên tắc phân hóa TNHS, ngồi khái niệm
phân hóa TNHS trong luật và cá thể hóa TNHS trong áp dụng luật như đã nêu
trên, các sách báo pháp lí hình sự cịn sử dụng khái niệm phân hóa hình phạt
và cá thể hóa hình phạt. Hai khái niệm này thực chất thuộc nội hàm của hai
khái niệm tương ứng nói trên.
Trước hết, phân hóa hình phạt là khái niệm hẹp hơn khái niệm phân hóa
TNHS, nó chỉ đề cập đến việc phân hóa trong luật phần quan trọng nhất của
TNHS là hình phạt mà khơng đề cập đến việc phân hóa các hình thức khác của
TNHS. Vì vậy, nếu như phân hóa TNHS trong luật phải được thể hiện ở tất cả
các nội dung liên quan đến TNHS của người phạm tội thì phân hóa hình phạt
chỉ tập trung vào thể hiện tư tưởng phân hóa trong các qui định làm cơ sở cho
THƯVIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HA NÒI
PHÒNG ĐO C ___.
18
việc áp dụng loại và mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội (như: qui
định về hệ thống hình phạt, qui định về chế tài đối với tội phạm cụ th ể...) mà
không được thể hiện qua các nội dung như: thời hiệu truy cứu TNHS, miễn
TNHS... Tương tự như vậy, cá thể hố hình phạt cũng là khái niệm thuộc nội
hàm của khái niệm cá thể hoá TNHS. Trong thực tiễn, cá thể hố hình phạt là
thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến vì người phạm tội trong đại đa số các
trường hợp đều bị áp dụng hình phạt. Trong các trường hợp đó, sự khác biệt về
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như các đặc điểm nhân
thân của người phạm tội chỉ đưa đến sự khác biệt về loại hoặc mức hình phạt
cụ thể được áp dụng. Tuy nhiên, cá thể hố hình phạt lại chưa thể đáp ứng đầy
đủ yêu cầu thể hiện một trong hai nội dung lớn của nguyên tắc phân hoá
TNHS thay cho cá thể hố TNHS là khái niệm bao hàm nó.
Với những nội dung được phân tích ở trên, ngun tắc phân hóa TNHS
có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng nhân đạo, thực hiện mục
tiêu công bằng xã hội cũng như bảo đảm hiệu quả của việc áp dụng TNHS.
Trước hết, phân hóa TNHS được coi là phương tiện để chuyển tải tư tưởng
nhân đạo của N hà nước vào luật hình sự thơng qua đường lối xử lí chủ yếu
mang tính giáo dục, khoan hồng đối với những nhóm chủ thể nhất định do
những đặc điểm nhân thân đặc biệt của họ. Kết quả của việc phân hóa TNHS
trong trường hợp này là những chế định, qui định của luật hình sự đối với
nhóm chủ thể đó tạo ra khả năng áp dụng với họ liều lượng TNHS nhẹ hơn so
với những nhóm chủ thể khác. Ví dụ: điều kiện để bị xử lí về hình sự chặt chẽ
hơn; cơ hội được miễn TNHS, miễn hình phạt lớn hơn; loại hình phạt và mức
hình phạt được áp dụng nhẹ hơn... Từ đó, TNHS được áp dụng với họ trong
thực tiễn bao giờ cũng nhẹ hơn so với những chủ thể khác. Những chủ thể này
có thể là: Người chưa thành niên, phụ nữ có thai... Nguyên tắc phân hóa
TNHS cũng góp phần thực hiện mục tiêu cơng bằng xã hội vì nội dung của nó
là qui định và áp dụng đường lối xử lí khác nhau đối với những trường hợp
19
phạm tội khác nhau sao cho TNHS phải tương xứng với tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm và phù hợp với nhân thân người phạm tội. Ngoài ra, chính
định hướng xử lí tội phạm một cách khác biệt dựa trên tính nguy hiểm cho xã
hội và nhân thân người phạm tội cho phép bảo đảm hiệu quả của việc áp dụng
TNHS. Việc áp dụng TNHS nói chung, việc áp dụng hình phạt nói riêng chỉ có
thể đạt hiệu quả khi chúng nhận được sự đồng tình của xã hội cũng như của
bản thân người phạm tội. Chỉ khi TNHS được qui định và áp dụng tương xứng
với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thì mục tiêu đó mới có thể đạt
được. Bên cạnh đó, với yêu cầu TNHS được qui định và áp dụng phải phù hợp
với các đặc điểm nhân thân người phạm tội, nguyên tắc phân hóa TNHS cũng
góp phần tăng cường hiệu quả áp dụng TNHS đối với cá nhân người phạm tội.
Như vậy, ngun tắc phân hóa TNHS khơng chỉ có ý nghĩa đối với việc thể
hiện tinh thần nhân đạo, thực hiện cơng bằng xã hội mà cịn góp phần nâng
cao hiệu quả của hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.2.
Căn cứ, nội dung và yêu cầu về giới hạn phân hóa trách nhiệm
hình sự
1.2.1. Căn cứ phân hố trách nhiệm hình sự
Căn cứ phân hố TNHS chính là tiêu chí nhà làm luật sử dụng để phân
tội phạm thành những nhóm khác nhau mà với chúng cần qui định TNHS khác
nhau. Những tiêu chí này phải là những tiêu chí m à khi chúng được sử dụng
để phân chia các trường hợp phạm tội thì có thể tạo ra những nhóm cần được
xử lý một cách khác biệt. Thực tiễn lập pháp hình sự cho thấy luật hình sự sử
dụng hai căn cứ phân hóa TNHS là tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và
nhân thân người phạm tội.
Trước hết, có thể khẳng định rằng gắn liền với vấn đề TNHS, nhà làm
luật bao giờ cũng phải chú ý đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm vì
đây là tiêu chí thể hiện bản chất của tội phạm, là yếu tố quyết định yêu cầu xử
lý về hình sự của Nhà nước đối với các hành vi phạm tội.
c.
Mác cũng thể