Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.27 MB, 83 trang )

PHÁP LUẬT BÁO HIẼM THẢT NGHIỆP
VÀ TH ựC TIỄN THựC HIỆN Ở NGHỆ AN
9

LUÀN VÃN THẠC

®


G IÁ O DỤC VÀ Đ À O TẠ O

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








NGƠ THỊ THU HOÀI

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THựC TIỄN THỰC HIỆN Ở NGHỆ AN









Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 623850

LUÂN VĂN THAC s ĩ LUẢT HOC








NGUỜI HƯỚNG DẢN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ KIM PHỤNG
tr u n g tâ m th ô n g tin th ư viên
t r ự ơ n g đ ạ i h ọ c l u â t h à NỘI!
PHÒNG DỌC S S i i .

HÀ N Ộ I-2012

m


Lời cảm ơn
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Phụng, Bộ
môn Luật Lao động - Khoa pháp luật kinh tế, Đại học Luật Hà Nội, người đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ tơi hồn thành bản khóa luận tốt nghiệp này. Tơi cũng

xin bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy cơ giáo tại Khoa pháp luật kinh tế, Đại học
Luật Hà Nội về những sự giúp đỡ quý báu trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu tại trường.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 4 năm 2012
Học viên

Ngô Thị Thu Hoài


M Ụ C LỤC

LỜI NÓI Đ Ầ U ................................................................................................................... 1
Chương l.MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT
NGHIỆP.............................................................................................................................. 5
1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT B H T N ........................................... ..............................5
1.1.1.

Khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp...................................................5

1.1.2. Khái niệm BHTN..................................................................................................... 7
1.1.3. Khái niệm pháp luật BH TN ................................................................................... 8
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA PHÁP LUẬT BHTN .............................................. 13
1.2.1. BHTN kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế độ giải quyết việc làm cho
người thất nghiệp..............................................................................................................13
1.2.2. BHTN phải vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho người thất
nghiệp chủ động trở lại làm việc.................................................................................... 14
1.2.3. Quỹ BHTN được hình thành theo nguyên tắc ba bên cùng có trách nhiệm... 15
1.3. NỘI DUNG C ơ BẢN CỦA PHÁP LUẬT B H T N ........................................... 16
1.3.1. Đối tượng tham gia B H T N .....................................................................................16

1.3.2. Các chế độ BHTN.................................................................................................... 19
1.3.3. Quỹ BHTN............................................................................................................... 22
1.3.4. Tổ chức thực hiện B H T N .................................................................................... 25
Chương 2. PHÁP LUẬT BHTN VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THựC TIỄN
TH ựC HIỆN Ở NGHỆ A N ........................................................................................... 27
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BHTN 27
2.1.1. Đối tượng tham gia B H T N .................................................................................... 27
2.1.2. Các chế độ BHTN....................................................................................................29
2.1.3. Q uỹBH TN ............................................................................................................ 33
2.1.4. Tổ chức thực hiện B H T N .................................................................................... 35
2.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN BHTN Ở NGHỆ A N .............................................39
2.2.1. Tình hình lao động, việc làm, thất nghiệp và nhu cầu tham gia BHTN ở Nshệ An. 39


2.2.2. Những kết quả đạt được trong ba năm thực hiện BHTN ở Nghệ A n ...................42
2.2.3. Những vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện BHTN ở Nghệ An và
nguyên nhân.........................................................................................................................48
Chương 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BHTN Ở NGHỆ A N .................................................57
3.1. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ c ụ THẺ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BHTN ... 57
3.1.1. Từng bước mở rộng đối tượng tham gia BH TN ..................................................57
3.1.2. Hoàn thiện các chế độ BH TN ......................................................... ...................... 57
3.1.3. Hoàn thiện quy định về quỹ B H TN .......................................................................59
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TỔ CHỨC T H ựC HIỆN BHTN HIỆU QUẢ 62
3.2.1. Một số kiến nghị ch u n g ..........................................................................................62
3.2.3. Một sổ kiến nghị cụ thể với Nghệ A n........................................................ ......... 63
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 70


DANH MỤC TÙ VIẾT TẮT


BHTN:

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

B ộ LĐ-TBXH: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
SỞ LĐ-TBXH: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
HĐLĐ:

Hợp đồng lao động

HĐLV:

Hợp đồng làm việc

NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

ILO:

Tổ chức lao động quốc tế



DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ, s ơ ĐỊ

STT
Bảng 2.1

TÊN BẢNG, HÌNH VẼ, s ơ ĐỒ

TRANG

Tình hình thực hiện chính sách BHTN trên địa bàn Tỉnh
Nghệ An năm 2010 - 2011

43

Bảng 2.2

Sô đã thu qua các năm (2009 - 2011)

45

Bảng 2.3

Tơng quỹ lương đóng BHTN (2009 -2011)

45

Sơ lượng cán bộ và sô điêm tiêp nhận giải quyêt BHTN
Bảng 2.4


của Trung tâm giới thiệu việc làm Nghệ An (2010 -

46

2011)
Bảng 2.5

Tuyên trun phơ biên pháp luật vê Lao động (trong đó
có chính sách về BHTN)

Mơ hình
2.1

Mơ hình tơ chức BHXH Việt Nam

47

37


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của viêc nghiên cửu đề tài:
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng: thất nghiệp là con đẻ của nền kinh tế
thị trường, là hệ quả tất yếu của q trình phát triển cơng nghiệp. Hầu hết các nước
trên thế giới, kể cả những nước phát triển và những nước đang phát triển đều phải
đương đầu với vấn đề này.
Nhận thức rõ vấn đề đó, ngày 29/06/2006 Quốc hội nước ta đã thơng qua
Luật BHXH trong đó có nội dung về BHTN và bắt đầu từ ngày 01/01/2009 pháp
luật về BHTN chính thức có hiệu lực thi hành ở Việt Nam.

Như vậy, BHTN là một vấn đề hồn tồn mới mẻ, chưa có tiền lệ ở nước ta
và trong ba năm đầu triển khai thực hiện đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc
cần phải nghiên cứu giải quyết. Trong ba năm qua, việc nghiên cứu về BHTN, đặc
biệt là nghiên cứu công tác tổ chức thực hiện BHTN ở các địa phương (nơi trực tiếp
phải đối mặt với các khó khăn, vướng mắc) khơng nhiều. Chính vì những lý do đó,
tác giả luận văn chọn đề tài “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực
hiện ở N ghệ A n ” với mong muốn góp phần nghiên cứu sâu về mặt lý luận và tìm
hiểu thực tiễn thực hiện, đặc biệt là các vướng mắc phát sinh, giúp cho các cơ quan
xây dựng pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thực hiện BHTN nâng cao
hơn hiệu quả điều chỉnh và áp dụng pháp luật BHTN ở nước ta nói chung và ở
Nghệ An nói riêng.
2. Tình hình nghiên cửu:
Ngay sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề thất
nghiệp đã bắt đầu được nhận diện và tình trạng thất nghiệp có xu hướng ngày càng
gia tăng trong thời gian dài, kể cả ở khu vực nơng thơn và thành thị. Chính vì vậy,
BHTN và trợ cấp thất nghiệp đã bắt đầu thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học và nhiều nhà quản lý.
Năm 1993, trong cuốn “M ột số vấn đề về chính sách BHXH ở nước ta hiện
n a y” do NXB lao động phát hành, tác giả Nguyễn Văn Phần đã có một bài viết với
tiêu đề: “Một sổ ỷ kiến về trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp hưu tr í”. Nội dung bài viết
mới chỉ đề cập đến khái niệm, sự cần thiết của trợ cấp thất nghiệp cho NLĐ trong
cơ chế thị trường.
Năm 2000, tác giả Đỗ Năng Khánh trong luận văn thạc sĩ luật học “Thất
nghiệp và việc xây dựng chế độ BHTN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ” đã


2

bước đầu nghiên cứu một sổ nội dung quan trọng của chính sách này như đối tượng
tham gia, mức đóng, mức hưởng, thời gian đóng...Tuy nhiên, ở thời điểm Luật

BHXH chưa được ban hành, nội dung của đề tài này chỉ dừng lại ở những vấn đề
mang tính định hướng.
Đến năm 2004, trong luận án tiến sĩ luật học “Chế độ BHTN trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam ”, tác giả Lê Thị Hoài Thu đã đi sâu nghiên cứu những nội
dung thiết yếu nhất của chế độ BHTN cần được ữiển khai ở Việt Nam trong cái
nhìn đối sánh với những quy định của Tổ chức lao động quốc tế và một sổ nước
khác trên thế giới.
Năm 2006, Trường Đại học Luật Hà Nội đã nghiên cửu đề tài khoa học
“Hoàn thiện pháp luật về BHXH ở Việt Nam ” do TS Nguyễn Thị Kim Phụng làm
chủ nhiệm, trong đó có đề cập đến BHTN như một nội dung cần có để hồn thiện hệ
thống pháp luật về BHXH nói chung.
Năm 2008, khi Luật BHXH đã được ban hành, tác giả Nguyễn Hiền Phương
trong luận án tiến sĩ luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam ” cũng đã luận giải về nội dung cũng như
cách thức thực hiện chế độ BHTN trong thực tiễn để đạt được hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, cịn có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đã nghiên
cứu BHTN ở một số khía cạnh như: “Mấy ỷ kiến về BHTN trong dự thảo Luật
BH XH ” của TS Trần Thúy Lâm đăng trên Tạp chí lao động và xã hội số 350/2005;
“Điều kiện, thời gian và mức hưởng chế độ BHTN ở Việt Nam ” của TS Lê Thị Hoài
Thu đăng trên báo Dân chủ và pháp luật số 04/2005; “BHTN - chỉ nên quy định về
nguyên tắc và định hướng” của TS Nguyễn Thị Kim Phụng đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số tháng 3 năm 2006; “ Fa« đề BH TNcho NLĐ hiện nay” của
PGS.TS Nguyễn Văn Định đăng trên Tạp chí lao động và xã hội số 343 +
344/2008...
Như vậy, trong phạm vi quan sát của tác giả, cho đến nay, hầu như chưa có
cơng trình nào đánh giá các quy định BHTN hiện hành trong quá trình thực hiện và
nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật BHTN ở Nghệ An. Vì vậy, đề tài “Pháp
luật bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện ở Nghệ A n ” khơng trùng với các
cơng trình khoa học khác đã được công bố.



3

3. Muc đích và nhiêm vu nghiên cửu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu để tìm ra những bất cập trong hệ thống
pháp luật BHTN và những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện ở Nghệ An ba năm
qua; trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện BHTN ở Nghệ An nói riêng và ở Việt Nam hiện nay nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận như: khái niệm, các nguyên tắc, nội dung cơ bản
của pháp luật BHTN làm cơ sở để đánh giá hệ thống pháp luật BHTN hiện hành ở
nước ta.
- Nghiên cứu các quy định hiên hành như đối tượng tham gia, các chế độ hưởng,
quỹ và tổ chức thực hiện BHTN để tìm ra những bất cập, góp phần hồn thiện pháp
luật về BHTN ở nước ta trong thời gian tới.
- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức thực hiện BHTN ở Nghệ An, tìm ra những vướng
mắc, tồn tại và nguyên nhân.
- Trên cơ sở các nghiên cứu trên, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả quá trình tổ chức thực hiện BHTN ở Nghệ An nói riêng
và trên bình diện cả nước nói chung.
4. Pham vi nghiên cửu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về BHTN và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An từ ngày 01/01/2009 (thời điểm bắt đầu
triển khai BHTN) đến nay. Bên cạnh đó, để luận văn có độ sâu cần thiết, những
chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm nước ngoài về BHTN cũng được luận văn đề
cập đến ở mức độ nhất định.
5. Phưong pháp nghiên cửu
Luận văn chủ yếu dựa trên phương pháp luận của triết học Mác-Lênin về duy
vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm

mang tính nguyên tắc của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường, đảm bảo
quyền lợi cho NLĐ trong xu thế hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó, trong tất cả các chương của luận văn cịn sử dụng các phương
pháp logic, phân tích, tổng hợp, so sánh...để thức hiện các mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu đã đề ra.


4

6. Đóng góp của luân văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận về pháp luật BHTN và
đánh giá hệ thống các quy định hiện hành về BHTN ở Việt Nam sau ba năm thực
hiện.
Luận văn đã nêu rõ kết quả đạt được trong quá trình thực hiện BHTN ở Nghệ
An, tổng họp những số liệu cụ thể, xác đáng làm minh chứng cho việc đánh giá kết
quả, những vướng mắc, tồn tại và nguyên nhân trong q trình thực hiện BHTN ở
Nghệ An.
Luận văn khơng những chỉ rõ được những bất cập trong các quy định của
pháp luật mà cịn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật
BHTN, từ đó đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện hệ thống pháp ỉuật về
BHTN và nâng cao hiệu quả quá trình thực hiện BHTN trong thực tế.
7. Kết cấu của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục. và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Một sổ vấn đề lý luận về pháp luật BHTN
Chương 2: Pháp luật BHTN Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực hiện ở Nghệ An
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện BHTN ở Nghệ An.



5

Chương 1
MỘT SÓ VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÊ PHÁP LUẬT BẢO HIẺM THẤT NGHIỆP








1.1. KHÁI NIẼM PHÁP LUẢT BHTN




1.1.1. Khái niệm thất nghiệp và ngưòi thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại trong nền kinh tế thị
trường. Ở hầu hết các quổc gia có chế độ chính trị, trình độ phát triển khác nhau đều
có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định.
Cơng ước số 102 (1952) của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái
niệm thất nghiệp tại Điều 20: “Thất nghiệp là hiện tượng NLĐ bị ngừng thu nhập
do khơng có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có
khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”. Định nghĩa này của ILO dựa trên một tiêu
chí quan trọng “sự ngừng thu nhập” của NLĐ để xác định hiện tượng thất nghiệp.
Quan điểm này xuất phát từ căn cứ chỉ có việc làm mới mang lại thu nhập cho NLĐ
và việc bị ngừng thu nhập đồng nghĩa với việc bị mất việc làm. Định nghĩa này còn
chỉ ra điều kiện NLĐ bị “ngừng thu nhập”, bị coi ỉà thất nghiệp là NLĐ khơng có
khả năng tìm việc làm thích hợp trong khi có khả năng và sẵn sàng làm việc để tạo

ra thu nhập.
Định nghĩa thất nghiệp của ILO được nhiều nước tán thành và đưa vào áp
dụng ở quốc gia mình. Theo đó có thể hiểu thất nghiệp là tình trạng phát sinh khi
“tổng cung về lao động của những NLĐ muốn làm việc với mức tiền lương danh
nghĩa tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện có”[39].
Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý thì thuật ngữ “thất nghiệp” cũng đã từng
được đề cập ở hai văn bản, đó là: sắc lệnh số 29/SL ngày 12/03/1947 (Điều 76) và
Nghị định số 233/HĐBT ngày 22/6/1990 của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy chế
lao động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (khoản 1 Điều 46). Trong
hai văn bản này mới chỉ đề cập thuật ngữ thất nghiệp mà không đưa ra một định
nghĩa về thất nghiệp.
Trên cơ sở quan điểm nêu trên về thất nghiệp của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), Văn phòng lao động quốc tế (BIT) đã đưa ra khái niệm về người thất nghiệp
như sau: Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động
nhưng khơng có việc làm. Họ có thê là người chưa có việc làm hoặc có việc làm
nhưng đã thơi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập [56, tr.198].


6

Định nghĩa này cho thấy, không phải người nào không có việc làm cũng
được xếp vào nhóm “người thất nghiệp”, mà phải có những điều kiện nhất định thì
họ mới được coi là người thất nghiệp. Sở dĩ người thất nghiệp phải là người “trong
độ tuổi lao động, cỏ khả năng lao động ” là vì, về mặt tự nhiên, con người chỉ có thể
lao động khi cơ thể đạt đến một sự phát triển về thể lực và trí lực- tức là phải đạt
đến một độ tuổi nào đó để có thể bằng chính hành vi của mình thực hiện các công
việc phù hợp - và chưa bị suy giảm khả năng lao động do tuổi già. Và có một thực
tế là không phải tất cả những người trong độ tuổi lao động đều có thể tham gia lao
động, mà một bộ phận do những nguyên nhân nào đó (tàn tật, tai nạn...) dẫn đến
khơng có khả năng lao động .

Bên cạnh các đặc trưng kể trên, người thất nghiệp cịn phải là người “đang
khơng có việc làm, đang đi tìm việc làm

Tình trạng khơng có việc làm của những

người thất nghiệp được hiểu là họ khơng có các nguồn thu nhập dưới dạng tiền
lương do không tham gia quan hệ lao động. Những người khơng có việc làm nhưng
phải đang tích cực tìm kiểm việc làm và sẵn sàng đi làm khi được giới thiệu của cơ
quan lao động mới được coi là “người thất nghiệp”. Đây là điều kiện quan trọng để
phân biệt người thất nghiệp và người khơng có việc làm nói chung.
Xuất phát từ khái niệm thất nghiệp của ILO, pháp luật của các nước đã đưa
ra khái niệm về người thất nghiệp. Khoản 4 Điều 3 Luật BHXH 2006 của Việt Nam
quy định: “Người thất nghiệp là người đang đóng BHTN mà bị mất việc làm hoặc
chẩm dứt HĐLĐ, HĐLVnhưng chưa tìm được việc làm”.
Việc xác định khái niệm “người thất nghiệp” là vấn đề quan trọng, liên quan
đến nhiều vấn đề, trong đó quan trọng nhất là vấn đề xác định phạm vi, đối tượng
điều chỉnh của chế độ BHTN. Do đặc điểm xã hội và chính sách kinh tế của từng
quốc gia, khái niệm “người thất nghiệp” có thể được mở rộng hoặc thu hẹp. Khái
niệm “người thất nghiệp” theo quy định của pháp luật Việt Nam đã được thu hẹp lại
so với quan điểm của ILO. Điều này cũng hoàn toàn phù họp với cơ chế quản lý
nguồn lao động của Việt Nam và cũng là phù họp khi chúng ta lần đầu triển khai
thực hiện chế độ bảo hiểm được đánh giá là khó thực hiện nhất trong các chế độ
BHXH này.
Như vậy, trên thế giới tuy có những quan niệm rộng, hẹp khác nhau về người
thất nghiệp nhưng tựu trung ở ba tiêu chí cơ bản để xác định người thất nghiệp như
sau: (1) có khả năng lao động; (2) đang khơng có việc làm; (3) đang tìm việc làm.


7


1.1.2. Khái niệm BHTN
Đe giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhiều biện pháp đã được thực hiện nhẳm
trợ giúp kịp thời cho những người thất nghiệp trong thời gian chưa tìm được việc
làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm kiếm cơng việc mới. Một trong số các biện
pháp đó là xây dựng và thực hiện ché độ BHTN.
BHTN đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, khởi đầu là nguồn tài chính của quỹ
cơng đồn, dần dần một số chủ doanh nghiệp vì lợi ích của chính mình để ổn định
đội ngũ của cơng nhân lành nghề đã thành lập quỹ trợ cấp thôi việc, nghỉ việc tạm
thời, thất nghiệp một phần trong doanh nghiệp, v ề sau, một số thành phố, chính
quyền đứng ra thành lập quỹ BHTN với phương thức tự nguyện và đến những năm
đầu của thế kỷ XX, BHTN được tiến hành theo phương thức bắt buộc có sự tham
gia của Nhà nước, NLĐ và NSDLĐ. BHTN được ban hành để bù đắp thu nhập cho
người bị thất nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho người bị thất nghiệp có cơ hội
quay trở lại thị trường lao động, kích thích họ tích cực tìm việc làm và sẵn sàng đi
làm việc theo sự giới thiệu của cơ quan lao động. Trợ cấp thất nghiệp được chi trả
cho những cá nhân bị thất nghiệp nhưng bản thân họ khơng có lỗi và họ đã mất đi
nguồn sinh sổng của bản thân và gia đình. Việc chi trả trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ
trợ một phần thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và giúp họ có điều kiện học nghề,
tạo cơ hội tiếp tục tham gia thị trường lao động. Nguồn chi trả được lấy từ một quỹ
tài chính tập trung được tồn tích dần bởi sự đóng góp của NSDLĐ, NLĐ có hỗ trợ
thêm của Nhà nước. Từ những phân tích trên đây có thể hiểu khái niệm BHTN theo
hướng: BHTN là sự bảo đảm hoặc bù đắp một phần thu nhập từ lao động của NLĐ
bị mất việc làm do thất nghiệp, thơng qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài
chính được đóng góp từ các bên tham gia BHTN, nhằm góp phần đảm bảo an tồn
đời sống của NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an tồn xã hội.
Theo Cơng ước số 102 của ILO, BHTN là một trong chín nhánh của BHXH.
Cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ BHTN đã góp phần hồn thiện và nâng
cao khả năng bảo vệ NLĐ của hệ thống pháp luật về BHXH.
Giống như các chế độ BHXH khác, BHTN cũng xuất phát từ quan hệ lao
động, có mục đích bù đắp thu nhập của NLĐ. Bên cạnh đó, BHTN cũng có một số

đặc trưng riêng:
Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại liên
quan nhiều đến lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp luôn
được gắn với vấn đề giải quyết việc làm cho NLĐ.


8

Thứ hai, BHTN không chỉ thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp mà còn thực hiện
các biện pháp để đưa NLĐ trở lại thị trường lao động. Do đó, cơ quan BHTN vừa
có trách nhiệm đăng ký thất nghiệp, kiểm tra các điều kiện của NLĐ trước khi trả
trợ cấp thất nghiệp vừa phải kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để
giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác
biệt của hoạt động quản lý BHTN so với việc quản lý các chế độ BHXH khác.
Thứ ba, đối tượng áp dụng chế độ BHTN là những người trong độ tuổi lao
động, có sức lao động nhưng bị mất việc làm, tạm thời khơng có thu nhập và sẵn
sàng trở lại làm việc. Như vậy, đối tượng hưởng BHTN là những NLĐ bị chấm dứt
quan hệ lao động một cách không tự nguyện trong khi họ vẫn có khả năng lao động.
Cịn đối tượng của các chế độ BHXH khác là những NLĐ vẫn đang tồn tại quan hệ
lao động (chế độ trợ cấp ốm đau; thai sản) hoặc chấm dứt quan hệ lao động do
khơng có khả năng tiếp tục làm việc (hưu trí; tử tuất).
Thứ tư, việc thực hiện chế độ BHTN rất phức tạp và khó quản lý. Quy mơ và
tỷ lệ thất nghiệp khơng thể dự đốn chính xác, gây khó khăn rất lớn trong việc hạch
toán và cân đối thu - chi của quỹ BHTN. Hoạt động của BHTN lại có mối liên quan
mật thiết với hệ thống đào tạo nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm và chương
trình quốc gia về việc làm nên phải có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý
BHTN vớị các cơ quan quản lý chức năng khác trong lĩnh vực lao động việc làm.
BHTN khơng chỉ bó hẹp trong việc thực hiện các nghiệp vụ BHXH thuần tuý mà
còn phải giúp NLĐ tìm kiếm và tạo việc làm. Đây là hai chức năng cơ bản của
BHTN và cũng là điểm khác biệt cơ bản của BHTN so với các chế độ BHXH khác.

Thứ năm, việc xác định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn hơn so
với các chế độ BHXH khác. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc
làm và khơng có việc làm, giữa có thu nhập và khơng có thu nhập khơng rõ ràng,
khó xác định và kiểm tra trong thực tế.
1.1.3. Khái niệm pháp luật BHTN
Pháp luật BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định việc đóng góp
và sử dụng quỹ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị
mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc.
Nội dung của pháp luật BHTN thường gồm các quy định về: đối tượng áp
dụng; các chế độ BHTN; điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng BHTN;
quản lý, sử dụng quỹ BHTN...Các quy định mang tính tồn diện đó đã tạo cơ sở


9

pháp lý quan trọng cho việc nâng cao hiệu lực hiệu lực thực thi các chế độ BHTN,
đáp ứng nguyện vọng của đơng đảo NLĐ và góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Cùng với các chế độ BHXH khác, BHTN đã góp phần tạo “lưới an tồn”
chung giúp đỡ và bảo vệ NLĐ khi gặp khó khăn trong quan hệ lao động. Vai trị của
BHTN khơng chỉ dừng lại ở việc đảm bảo cuộc sống cho người thất nghiệp, tạo cơ
hội cho họ quay lại làm việc mà còn góp phần tạo sự ổn định chung cho xã hội, giúp
cho kinh tế phát triển bền vững. Đặc biệt, đối với những nước phát triển theo cơ chế
kinh tế thị trường, chế độ BHTN thực sự đóng vai trị quan trọng nhằm hạn chế
những tác động tiêu cực được coi là “mặt trái” của kinh tế thị trường. Dưới tác động
của các quy luật khách quan, do sự dịch chuyển và biến động không ngừng của thị
trường lao động, thất nghiệp đã trở thành tình trạng phổ biến của mọi quốc gia theo
mơ hình kinh tế thị trường. Vì vậy, thực hiện chế độ BHTN chính là biện pháp hiệu
quả để giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Hệ thống BHTN với các quy định về trợ cấp thất nghiệp và hỗ trợ tìm kiếm
việc làm là đảm bảo cần thiết cho NLĐ có cuộc sống bình thường khi bị mất việc

làm, tránh những tác động xấu của kinh tế thị trường và bảo vệ những giá trị tiến bộ
xã hội.
1.1.3.1. Hệ thống pháp luật BHTN quốc tế
Trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên hiệp quốc thông qua năm 1948,
có đoạn: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được
hưởng BHXH. Quyền đó được đặt trên cơ sở thỏa mãn các quyền về kỉnh tế, xã hội
và văn hóa cần cho nhăn cách và sự tự do phát triển của con người..

Đi ều 25 có

ghi: “Mỗỉ người có quyền có một mức sổng cần thiết cho việc giữ gìn sức khỏe bản
thân và gia đình, có quyền được bảo đảm trong trường hợp thất n g h i ệ p Nấu nhìn
nhận BHTN là một chế độ trong hệ thống BHXH thì sự ra đời của chế độ này làm
cho quyền được bảo hiểm của con người được nâng lên một bước. Quyền được
hưởng BHXH cũng là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định ở
hầu hết trong Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới. Nhìn vào hệ thống pháp luật
BHXH, và thông qua các chế độ trợ cấp, có thể đánh giá phần nào tính ưu việt của
một chế độ xã hội.
Vấn đề đảm bảo cuộc sống cho người thất nghiệp cũng đã được ILO đề cập
trong các Công ước và Khuyến nghị:
- Công ước số 44 về Phòng chống thất nghiệp năm 1934.


10

- Công ước số 102 “Công ước về Quy phạm tối thiểu về an tồn xã hội, năm
1952”;
- Cơng ước số 168 “Công ước về Xúc tiến việc làm và bảo vệ chống lại thất
nghiệp, năm 1988”.
a. Công ước số 44

Cơng ước số 44 được Hội nghị tồn thể của Tổ chức Lao động quốc tế thông
qua ngày 23/6/1934. Công ước chỉ rõ các đối tượng áp dụng BHTN (Điều 2) nhưng
tùy hồn cảnh mồi nước có thể đặt thêm các trường họp ngoại lệ đối với một sổ đối
tượng khác. Bên cạnh đó Cơng ước số 44 cũng đưa ra các điều kiện, thời gian để
đổi tượng được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Thời gian này càng dài càng tốt nếu quỹ
còn đủ khả năng chi trả và NLĐ cịn có u cầu giúp đỡ (khi nào cịn ở trong tình
trạng thất nghiệp thì NLĐ cịn cần được nhận trợ cấp BHTN).
b. Công ước số 102
Công ước số 102 (gọi tắt là “Cơng ước về An tồn xã hội (quy phạm tối
thiểu), 1952”) được Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua
ngày 28/6/1952, tại “phần IV - Trợ cấp thất nghiệp” quy định: “Mọi nước thành
viên chịu hiệu lực của Phần này trong Công ước phải đảm bảo cho những người
được bảo vệ được nhận trợ cấp khi thất nghiệp” (Điều 19). Công ước quy định rõ
về các trường họp được bảo vệ (Điều 20); Những người được bảo vệ (Điều 21)
cũng như đưa ra các khuyến nghị về mức chi trả cho các đối tượng. Theo đó: nếu
người được bảo vệ là người làm công ăn lương, trợ cấp là chế độ chi trả định kỳ
một khoản ít nhất bằng 45% so với tổng số tiền lương của NLĐ nam giới thành
niên; nếu người được bảo vệ là người thường trú mà các phương tiện sinh sống khi
trường họp bảo vệ xảy ra khơng vượt q giới hạn quy định, thì trợ cấp là chế độ
chi trả định kỳ một khoản được ấn định theo một bảng tính quy định hoặc theo bảng
tính do các cơ quan có thẩm quyền quyết định theo những quy tắc nhất định.
c. Công ước sổ 168
Công ước này được Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế thông
qua ngày 21/6/1988, trên cơ sở:
- Nhấn mạnh vai trò quan trọng của nghề nghiệp và việc làm, sản xuất trong
xã hội không chỉ là nguồn tạo ra của cải cho xã hội mà còn đem lại thu nhập cho
NLĐ, vai trò xã hội được củng cố và lòng tự trọng của NLĐ cũng được nâng cao;
- Xét thấy tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm phổ biến đang ảnh hưởng
tới nhiều nước trên thế giới ở tất cả thời kỳ phát triển;



11

-

Ghi nhận những quy định vê trợ câp thât nghiệp trong Cơng ước vê An tồn

xã hội (những tiêu chuẩn tối thiểu), 1952, đã giảm mức độ bảo vệ của hầu hết các hệ
thống bồi thường hiện có tại các nước công nghiệp, và những tiêu chuẩn đang được
thảo luận có thể vẫn tạo thành mục tiêu đối với các nước phát triển vì những nước
đỏ đang ở thời điểm thiết lập một hệ thống bồi thường thất nghiệp.
Tại Phần I Công ước đặt ra những quy định chung đối với các nước thành
viên: “Mọi nước thành viên sẽ thực hiện từng bước phù hợp để phổi hợp với hệ
thống bảo vệ chổng thất nghiệp và chính sách việc làm. Cuối cùng, điều này đảm
bảo rằng hệ thống bảo vệ chống thất nghiệp và những biện pháp đặc biệt bảo đảm
trợ cấp thất nghiệp, góp phần khuyến khích đầy đủ việc tự do lựa chọn việc làm có
hiệu quả và không ngăn cản NSDLĐ được yêu cầu và NLĐ được tìm kiếm việc làm
hiệu quả ” (Điều 2 Phần I).
Cơng ước cũng đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể đối với các nước thành viên
để thưc hiện các nội dung về xúc tiến việc làm và chống lại thất nghiệp: Trường họp
được bảo vệ (Điều 10); Những người được bảo vệ (Điều 11); Phương pháp bảo vệ
(Điều 12); Mức trợ cấp (Điều 14, 15); Điều kiện hưởng trợ cấp (Điều 17); Thời gian
trợ cấp (Điều 19); Các trường hợp không được hưởng hoặc bị cắt giảm trợ cấp
(Điều 20, 21, 22); v ấ n đề chăm sóc y tế cho người thất nghiệp; Những quy định đặc
biệt cho người mới xin việc (Điều 26); Quyền khiếu nại (Điều 27)...
Như vậy, quyền được hưởng BHXH, quyền được làm việc là một trong
những quyền cơ bản của con người đã được ghi nhận và đề cao trong pháp luật
BHTN quốc tế. Sự ra đời của chế độ BHTN là một biện pháp hữu hiệu góp phần tạo
điều kiện cho các quyền cơ bản của con người, quyền công dân trở thành hiện thực.
1.1.3.2. Pháp luật BHTN của các quốc gia

Hiện đã có rất nhiều quốc gia có hệ thống BHXH đã ban hành và thực hiện
chế độ BHTN (69/153 quốc gia). Tuy nhiên, quan điểm của các nước về vị trí của
chế độ BHTN trong hệ thống pháp luật quốc gia khơng hồn tồn giống nhau. Đa số
các nước cho rằng BHTN là một bộ phận của hệ thống BHXH và được quy định
trong Luật BHXH của quốc gia (Anh, Mỹ, Thuỷ Điển...). Một số ít các quốc gia (Ba
lan, Nhật Bản, Hàn Quốc...) [56, tr.204] xuất phát từ quan điểm không coi BHTN là
biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, nhấn mạnh vai trò chủ
động của BHTN trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất
nehiệp, tìm và tạo việc làm cho NLĐ...đã ban hành luật về việc làm, trong đó có
quy định về trợ cấp thất nghiệp. Tại các nước này, các quy định về BHTN không


12

thuộc hệ thống pháp luật về BHXH mà là một chế định trong hệ thống pháp luật về
việc làm.
Một sổ nước sau khi tham gia các Công ước quốc tế đặc biệt là phê chuẩn
các Công ước quốc tế của ILO nhằm đảm bảo cuộc sống cho người thất nghiệp thì
áp dụng trực tiếp các quy định trong Cơng ước đó đồng thời với các quy định của
luật quốc gia về BHTN. Trong trường họp này, các Công ước quốc tế có giá trị
pháp lý cao hơn các văn bản pháp luật do quốc gia ban hành (trừ những điều khoản
bảo lưu). Một số nhà nước trong đó có Việt Nam của chúng ta không áp dụng trực
tiếp các văn bản quốc tế mà chuyển hóa các nội dung vào pháp luật trong nước
trước khi tham gia Công ước. Việt Nam hiện nay tuy chưa phê chuẩn Công ước số
102 của ILO nhưng trong pháp luật nước mình hầu hết các dạng trợ cấp quan trọng
ghi trong công ước (trong đó có trợ cấp thất nghiệp), ở những mức độ khác nhau, đã
được áp dụng. Điều này chứng tỏ rằng an sinh xã hội của Việt Nam đã bước đầu
tiếp cận được các tiêu chuẩn về an toàn xã hội hiện đại và tiến bộ của thể giới.
Để phù hợp với các cơng ước của ILO, đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ
của hệ thống pháp luật lao động, phù hợp với mục đích của BHTN, trong định

hướng xây dựng chế độ BHTN ở Việt Nam, BHTN được coi là một chế độ của
BHXH.
Đáp ứng những yêu cầu khách quan về việc phải có một chính sách quốc gia
mang tính tổng thể để huy động sức mạnh của NLĐ và Nhà nước trong vấn đề giải
quyết thất nghiệp, ngày 29/7/2006, Quốc hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thơng qua Luật BHXH, trong đó điều 2, điều 80 đến Điều 87 và các
điều 102 đến 105 quy định về những vấn đề như đối tượng bắt buộc tham gia
BHTN, điều kiện hưởng BHTN, các chế độ BHTN...Cũng theo quy định tại Luật
BHXH từ ngày 01/01/2009 pháp luật về BHTN đã chính thức có hiệu lực thi hành ở
Việt Nam.
Cùng với Luật BHXH, để triển khai thực hiện BHTN, các văn bản hướng
dẫn và các văn bản có liên quan đã được ban hành và đưa vào thực hiện, như: Nghị
định của Chính phủ số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN; Thông tư số
32/2010/TT - BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
127/2008/NĐ-CP; Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg về việc hỗ trợ đối với NLĐ mất
việc làm trong doanh nghiệp eặp khó khăn do suy giảm kinh tế; Quyết định số
101/2007/QĐ-TTg ngày 6/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt


13

chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm đến năm 2010, Luật dạy nghề năm
2006...
Như vậy, với những quy định trong Hiến pháp, Luật BHXH và các văn bản
hướng dẫn, văn bản có liên quan nêu trên, có thể khẳng định rằng cơ sở pháp lý cho
việc tổ chức, thực hiện BHTN ở nước ta đã được định hình tương đối rõ nét, bảo
đảm cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm này trên thực tế, bảo vệ quyền lợi của NLĐ
bị thất nghiệp và củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống an sinh xã hội ở nước ta.
BHTN là một chế độ trong hệ thống BHXH. Đây là một trong những chính

sách xã hội cơ bản thể hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hướng
vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
Việc xây dựng, ban hành và triển khai tổ chức thực hiện BHTN ở nước ta là cần
thiết, tuy nhiên đây là cơng việc khó khăn và phức tạp địi hỏi chúng ta phải có
những bước đi thận trọng và phù hợp với thực tiễn khách quan, góp phần giải quyết
có hiệu quả các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA PHÁP LUẬT BHTN
Để làm tốt vai trò và đạt được các mục đích về kinh tế, chính trị, xã hội đã
đặt ra, trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật BHTN, càn chú ý tuân thủ
những nguyên tắc chung của BHXH, bên cạnh đó, cũng cần lưu ý những nguyên tắc
riêng sau đây:
1.2.1.

BHTN kết họp chế độ trợ cấp tạm thời vói chế độ giải quyết việc

làm cho người thất nghiệp.
BHTN có hai chức năng cơ bản là trả trợ cấp thất nghiệp và xúc tiến việc làm
cho NLĐ. Kết họp hài hoà và đảm bảo thực hiện hai chức năng này được coi là
nguyên tắc cơ bản chỉ đạo hệ thống các quy định và quá trình tổ chức thực hiện
BHTN.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, bên cạnh việc quy định các mức trợ
cấp thất nghiệp, điều kiện và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ trợ thu
nhập cho NLĐ bị mất việc làm, BHTN còn phải thực hiện các biện pháp nhằm tạo
cơ hội cho NLĐ tiếp tục tham gia quan hệ lao động. Cung cấp thông tin về thị
trường lao động, đào tạo lại nghề, môi giới việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp nhận
người thất nghiệp...là những biện pháp được BHTN hỗ trợ kinh phí hoặc trực tiếp
triển khai trong thực tế nhằm tạo cơ hội làm việc cho NLĐ, hạn chế tỉ lệ thất nghiệp
trong xã hội.



14

Với mục đích đảm bảo quyền cho người thất nghiệp, việc giúp họ tiếp tục
tham gia thị trường lao động thông qua các hoạt động xúc tiến và tạo việc làm nhiều
khi cịn có ý nghĩa hơn việc trợ cấp thất nghiệp. Do đó, chế độ BHTN phải tạo hành
lang pháp lý thơng thống, giúp đỡ các doanh nghiệp tạo việc ỉàm cho người thất
nghiệp, hỗ trợ NLĐ tự tìm việc làm hoặc học nghề. Trong thời gian chưa tìm được
việc làm, NLĐ có thể được hỗ trợ thu nhập thông qua khoản trợ cấp thất nghiệp.
Đây được coi là giải pháp tạm thời tháo gỡ khó khăn cho người thất nghiệp,

về lâu

dài, giải pháp quan trọng vẫn là vấn đề tìm và giải quyết việc làm gắn với ổn định
thu nhập cho họ.
1.2.2.

BHTN phải vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động lực tích cực cho

ngưịi thất nghiệp chủ động trở lại làm việc
Một trong các vai trò quan trọng của BHTN là hỗ trợ cuộc sống cho NLĐ khi
bị mất thu nhập do thất nghiệp. Giống như các chế độ BHXH khác, quỹ BHTN phải
chi trả cho người đủ điều kiện thụ hưởng một khoản tiền trợ cấp thay lương khi họ
thuộc trường hợp được hưởng BHTN. Để đảm bảo ý nghĩa này, mức trợ cấp thất
nghiệp không nên quy định quá thấp, ít nhất cũng phải đảm bảo sinh hoạt tối thiểu
cho NLĐ trong thời gian chưa tìm được việc làm. Thơng thường, mức BHTN được
tính theo tỷ lệ % lương và được trả hàng tháng cho người thất nghiệp trong một thời
hạn nhất định. Mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng không thấp hơn mức lương tối
thiểu (được xác định trên cơ sở nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của NLĐ) và được cân
đối với mức đóng góp BHTN trước đó của NLĐ.

Khi xác định mức trợ cấp thất nghiệp, ngoài việc căn cứ vào khả năng chi trả
của quỹ BHTN, cịn phải khuyến khích NLĐ chủ động tìm kiếm việc làm để thốt
khỏi tình trạng thất nghiệp. Đây là điểm khác trong việc xác định mức trợ cấp thất
nghiệp so với các loại trợ cấp BHXH thông thường. Nếu quy định mức trợ cấp thất
nghiệp cao, thời hạn hưởng trợ cấp kéo dài sẽ gây tâm lý trông chờ vào sự trợ giúp
của BHTN, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp xã hội của người thất
nghiệp. Đây là thực tế đã xẩy ra ở một số nước phát triển. Nhằm hạn chế tình trạng
này, thời hạn trợ cấp thất nghiệp phải được quy định hợp lý, vừa đủ thời gian để
NLĐ tìm việc làm hoặc học nghề, nâng cao tay nghề, mức trợ cấp hàng tháng vừa
đủ đảm bảo cuộc sống tạm thời cho NLĐ nhưng vẫn buộc họ phải tích cực tìm việc
làm, sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu để có thu nhập ở mức cao hơn, ổn định
hơn so với khoản tiền trợ giúp của BHTN.


15

1.2.3. Quỹ BHTN được hình thành theo nguyên tắc ba bên cùng có trách
nhiệm
Đối với NLĐ và NSDLĐ, việc đóng góp BHTN là nghĩa vụ bắt buộc, xuất
phát từ mối liên quan của BHTN với quan hệ lao động, tầm quan trọng và những ý
nghĩa to lớn mà BHTN đem lại cho các bên. NLĐ thất nghiệp kéo theo một loạt hệ
quả tác động đến cả bản thân NLĐ lẫn NSDLĐ và an ninh xã hội:Vềphía NLĐ thất
nghiệp, vì khơng có nguồn sống nên họ thấy rằng cần phải liên kết sự đóng góp lại,
từ đó hình thành một quỹ chung để chia sẻ rủi ro trong cộng đồng. Quỹ này sẽ được
sử dụng cho những người đã đóng quỹ, khơng có việc làm ngồi ý muốn trong thời
gian tìm việc, về phía NSDLĐ, trong các trường họp giảm thiểu lao động hoặc bị
phá sản họ không thể gánh nổi việc tự mình phải chi trả cho nhiều NLĐ mất việc
làm. Từ đó, họ thấy cần phải hợp lực với nhau vừa là để phịng tình huống xấu có
thể xảy ra, vừa để chia sẻ gánh nặng rủi ro đó. Họ tự nguyện nộp một khoản tiền
nhất định vào một quỹ tập trung và khi bất trắc xẩy ra thì sẽ có nguồn để giải quyết.

Đây là sự cụ thể hoá của nguyên tắc cùng nhau chia sẻ rủi ro khi thực hiện
chế độ BHTN. Do thất nghiệp là hiện tượng khách quan trong nền kinh tế thị
trường, các bên của quan hệ lao động và các quốc gia đều phải đối mặt cho nên hình
thức tham gia BHTN là bắt buộc. Với các ưu thế của loại hình bảo hiểm bắt buộc,
quỹ BHTN sẽ có nguồn thu đều đặn và ổn định tính theo tỷ lệ % lương của NLĐ
trích từ lương hàng tháng và doanh thu của các doanh nghiệp để chi trả cho các
trường hợp thụ hưởng và thực hiện các chức năng khác nhau của BHTN. Đây là
nguồn thu cơ bản tạo thành quỹ BHTN, là nguồn tài chính mà quỹ BHTN có thể
chủ động nhằm hỗ trợ những NLĐ khi bị mất việc làm theo phương châm “lấy số
đơng bù số ít”.
Bên cạnh nghĩa vụ đóng góp bắt buộc của các bên trong quan hệ lao động,
nhà nước cũng cần có sự hỗ trợ cần thiết cho hoạt động của BHTN. Đối với Nhà
nước, chính sách BHTN là một trong những cơng cụ quản lí Nhà nước sử dụng để
bảo vệ, che chắn cho NLĐ trước rủi ro mất việc làm. Thơng qua chính sách này,
tình trạng thất nghiệp và hậu quả của chúng khơng những được hạn chế, mà cịn góp
phần thực hiện cơng bằng xã hội và giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Chính phủ các nước ban hành và tổ chức triển khai chính sách BHTN đều nhằm
mục đích chung là đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi NLĐ
lâm vào tình cảnh thất nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm việc iàm, đào tạo nghề cho NLĐ để
họ sớm quay lại thị trường lao động, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội.


16

Ở nước ta, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân mà nền tảng là giai cấp
cơng nhân, nơng dân và trí thức xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ln có trách
nhiệm trong việc hình thành quỳ BHTN để đảm bảo đời sống cho NLĐ và giải
quyết các vấn đề chung của xã hội như lập dữ liệu thông tin, giải quyết việc làm,
phát triến thị trường lao động.. .và giảm thiểu các rủi ro xã hội khác.
1.3. NỘI DUNG C ơ BẢN CỦA PHÁP LUẬT BHTN

1.3.1. Đối tượng tham gia BHTN
Xác định đối tượng áp dụng BHTN (những người có trách nhiệm tham gia
BHTN và cần được bảo vệ khi thất nghiệp) là một trong những vấn đề có tính
ngun tắc được đặt ra khi thiết kế nội dung của BHTN. Để ấn định ranh giới của
sự bảo vệ xã hội chống thất nghiệp, người ta thường xem xét các yểu tố: Nhu cầu
bảo vệ, khả năng tài chính của người tham gia và khả năng quản lý của nhà nước
thông qua tổ chức BHTN.
Điều 2, Công ước 44 quy định: Chỉ những người làm cơng ăn lương mới
được hưởng BHTN; cịn những NLĐ độc lập thì khơng thuộc đối tượng BHTN. Tại
Điều 2 cũng chỉ rõ: Tuy nhiên, tùy hồn cảnh mỗi nước có thể đặt thêm các trường
hợp ngoại lệ đối với một số đối tượng. Sở dĩ có các trường hợp ngoại lệ này là vì
nguyên tắc chung xác định đối tượng cần được bảo vệ là tìm cách đạt được sự cân
bằng giữa các yếu tổ kể trên mà các yếu tố này lại không được quan tâm giống nhau
ở các quốc gia khác nhau nên mỗi quốc gia có thể xác định những quy định riêng
phù hợp.
Thứ nhất, đối với những người giúp việc nhà: Đây là loại lao động mà sự
tham gia bảo hiểm đặt ra nhiều vấn đề nan giải nhất về mặt quản lý cũng như về mặt
tài chính. Việc quản lý đối tượng này rất khó khăn, tốn kém chi phí và khó xác định
thời điểm bắt đầu thất nghiệp thực sự của họ. Hơn nữa những người giúp việc nhà
thường hưởng phần lớn thù lao dưới dạng hiện vật, do đó khơng thuận tiện cho việc
tính số đóng góp như trường hợp thù lao bằng tiền. Nhưng những người giúp việc
nhà lại có nhu cầu bảo vệ chống lại thất nghiệp khẩn thiết hơn những loại lao động
khác vì so với các nghề nghiệp khác, việc làm của những người này không ổn định
bằng, họ lại thường bị thôi việc một cách đột ngột và đồng lương của họ cũng rất
khiêm tốn nên khơng có khả năng dành dụm cho những ngày không may bị thất
nghiệp. Như vậy, trên khía cạnh nhu cầu bảo vệ, người giúp việc nhà cần được đưa
vào là đối tượne áp dụng của BHTN. Nhưng trên khía cạnh quản lý của các nước
mới thiết lập BHTN thì việc mở rộne đối tượng áp dụng BHTN cho những người



17

TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN j
TRƯỜNG 0ẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHÒNG ĐỌC —5 1 6 3 . _____

giúp việc nhà có thể tạm hỗn cho đến khi hệ thống BHTN được hoàn thiện và điều
kiện cho phép.
Thứ hai là đổi với những lao động làm việc tại nhà: Những lao động làm việc
tại nhà là những người nhận của người ủy nhiệm các nguyên vật liệu, dụng cụ để
hoàn thành cơng việc được giao tại nhà mình hoặc một nơi nào khác mà họ không
chịu sự đôn đốc, kiểm soát trực tiếp của người ủy nhiệm. Như thế, họ được gần như
tự do làm việc cho chính mình, nhưng cũng đặt dưới sự kiểm tra của người ủy
nhiệm nên họ ờ vào thế vừa là người làm công ăn lương, vừa là NLĐ độc lập. Họ
cũng đứng trước nguy cơ mất việc làm, do đó mất thu nhập và có nhu cầu được bảo
vệ chống thất nghiệp.
Thứ ba, cơng chức Nhà nước có việc làm thường xuyên hoặc theo hợp đồng
dài hạn do đó cơng việc khá ổn định và khơng có nhu cầu khẩn thiết tham gia
BHTN.
Thứ tư, đối với NLĐ làm cơng CQ thu nhập cao có thể tự mình phịng chống
rủi ro thất nghiệp. Nhưng người ta cũng cho rằng việc làm có thu nhập cao thường
không ổn định bằng các việc làm khác. Hơn nữa, khơng phải tồn bộ những người
có thu nhập cao đều có khả năng dành dụm để tự bảo vệ khi mất việc làm. Xét trên
khía cạnh quản lý thì nếu loại trừ khơng cho những người có thu nhập cao tham gia
BHTN thì chi phí quản lý khơng được cắt giảm nhiều. Xét trên khía cạnh tài chính,
số đóng góp của những người có thu nhập cao thường giúp cho BHTN tăng thu và
thuận lợi cho sự cân đối tài chính của quỹ. Do đó cần cân nhắc xem có nên loại trừ
những người làm cơng có thu nhập cao khỏi phạm vi áp dụng của BHTN hay
không.
Thứ năm, đối với lao động làm việc theo mùa vụ: Việc làm theo mùa là

những công việc thực hiện mỗi năm vào một thời kỳ hầu như nhất định, kéo dài từ
vài tuần đến vài tháng. Như vậy, họ chỉ bị coi là thất nghiệp và được BHTN nếu vào
lúc đang mùa mà không được thuê mướn làm việc. BHTN không chấp nhận bảo
hiêm cho lao động mùa vụ khơng có việc làm trong những thời kỳ khác khơng
thuộc mùa vụ đó và khi thực hiện BHTN, nhiều nước trên thế giới không áp dụng
với NLĐ theo mùa vụ.
Thứ sáu, đối với những lao động trẻ sát cận tuổi lao động theo quy định: Đa
số những người trẻ tuổi khi chưa đạt tới một độ tuổi nào đó thường chưa bắt đầu lao
động hoặc khơng có đều đặn một việc làm đầy đủ thời gian. Những người này lại
thưòng sống với gia đình và chưa phải là người trụ cột. Do vậy, việc xác định một


18

thiếu niên khơng có việc làm có phải bị thất nghiệp hay khơng là điều khá khó khăn.
Vả lại những lao động này cũng chưa có nhu cầu khẩn thiết được bảo vệ chống thất
nghiệp. Thêm vào đó, những lao động trẻ chỉ được trả thù lao một cách khá khiêm
tốn, do đó đóng góp BHTN đối với những đối tượng này có thể là một gánh nặng tài
chính. Với các lý do này, các quốc gia cần nghiên cứu kỹ trước khi chấp nhận hay
loại trừ khỏi đối tượng áp dụng của BHTN những lao động trẻ chưa đạt đến một độ
tuổi nhất định.
Thứ bảy, đối với những lao động đã vượt quá tuổi quy định, nghỉ hưu; năng
lực làm việc thường giảm đi và nguy cơ bị thất nghiệp tăng. Do đó, nếu khơng thận
trọng quỹ BHTN sẽ phải chi một phần lớn trong tổng số trợ cấp cho những người
già mà do thể trạng, họ khó có thể kiếm và giữ được việc làm. Vì vậy nên loại trừ
khỏi BHTN những người đã vượt trên một hạn tuổi nhất định.
Thứ tám, đối với lao động làm việc tùy dịp và phụ trợ: Công việc tùy dịp và
phụ trợ (ngồi hoạt động nghề nghiệp bình thường) là những công việc làm không
thường xuyên, đầy đủ thời gian do đó thường bị loại trừ khỏi BHTN vì việc mất thu
nhập sẽ không gây ảnh hưởng lắm (do họ đã có thu nhập từ hoạt động nghề nghiệp

chính), vả lại nhu cầu bảo vệ cũng khơng khẩn thiết.
Thứ chín, đối với người làm cơng là thành viên trong gia đình của chủ nhân:
Những người này có liên hệ thân thuộc, gần gũi với chủ nhân nên sẽ khó khăn trong
việc kiểm tra tình trạng thất nghiệp, và cũng dễ xảy ra lạm dụng. Thêm vào đó, việc
mất thu nhập cũng khơng gây khó khăn trầm trọng cho họ; do đó hầu hểt các nước
trên thế giới đều loại trừ những người này ra khỏi đối tượng áp dụng của BHTN.
Lao động nông, lâm, ngư nghiệp, thủy thủ cũng bị loại trừ khỏi đối tượng áp
dụng BHTN do gây khó khăn cho việc quản lý và tài chính của quỹ BHTN. Sản
xuất phân tán nên việc đăng ký tham gia, thu tiền đóng góp.. .là khó; Việc làm mang
tính mùa vụ khơng thường xun, do đó để xác định xem họ có bị thất nghiệp thực
sự hay khơng là điều khơng hề dễ.
Theo kinh nghiệm của các nước, đối tượng áp dụng BHTN là những NLĐ đã
có thời gian lao động nhất định, ở lĩnh vực ngành nghề nào đó và làm trong cơ sở có
quy mơ lao động theo quy định. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, về nguyên tắc tất cả
những NLĐ làm việc theo hợp đồng như: công nhân, nhân viên hoặc những người
đang đi học cũng như chủ của họ, không phụ thuộc vào mức thu nhập đều là đối
tượng bắt buộc tham gia BHTN. Ở Trung Quốc, Điều lệ BHTN áp dụng đối với tất
cả lao động ở thành thị, lao động trong các doanh nghiệp nhà nưóc, doanh nghiệp tư


×