Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.43 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ YẾN

SỰ HỖ TRỢ CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. Khái quát chung về trọng tài, cơ quan tư
pháp và sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động
trọng tài thương mại


5

1.1. Khái quát về trọng tài thương mại

5

1.2. Khái quát về cơ quan tư pháp tham gia hỗ trợ hoạt động

16

trọng tài
1.3. Sự cần thiết phải có hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với
hoạt động trọng tài thương mại
Chng 2: Các quy định pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ
của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trng ti thng mi

21

32

2.1. Sự hỗ trợ của Toà án đối với hoạt động trọng tài

32

2.2. Sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án đối với hoạt động trọng
tài

53

Chng 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong

hoạt động hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối vi trng ti
thng mi

62

3.1. Những hạn chế trong hoạt động hỗ trợ của cơ quan tư pháp
đối với trọng tài thương mại

62

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả trong hoạt
động hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với trọng tài thương mại

68

KT LUN

72

DANH MC TI LIỆU THAM KHẢO

74


1

PHN M U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp trong hoạt
động thương mại phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có nền

kinh tế thị trường phát triển. Các nhà kinh doanh trên thế giới rất ưa chuộng
hình thức trọng tài, vì trọng tài có những ưu điểm không thể phủ nhận như:
Giải quyết nhanh và hiệu quả các tranh chấp, đảm bảo bí mật và uy tín của
các nhà kinh doanh, giữ được quan hệ bạn hàng của họ với nhau để có thể
tiếp tục các quan hệ mới trên thương trường... Tuy nhiên, ở Việt nam, mặc
dù trọng tài thương mại (hay Trọng tài phi Chính phủ) đà tồn tại khá lâu
trong nền kinh tế, nhưng các tranh chấp được các nhà kinh doanh đưa đến
trọng tài giải quyết còn khá khiêm tốn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên, nhưng có một nguyên nhân căn bản, đó là thiếu sự hỗ trợ từ phía
Nhà nước đối với hoạt động trọng tài. Chính vì vậy, đà không đảm bảo tính
hiệu quả trong hoạt động trọng tài, làm cho các nhà kinh doanh không thể
tin tưởng, lựa chọn trọng tài như một hình thức giải quyết tranh chấp tối ưu.
Do đó, sự hỗ trợ hay sự phối hợp từ phía các cơ quan Nhà nước đối với hoạt
động trọng tài đà được Pháp lệnh trọng tài thương mại (2003) quy định là
hết sức cần thiết và rất có ý nghĩa. Cũng từ đó, việc nghiên cứu những quy
định mới của pháp luật về sự hỗ trợ này là một đòi hỏi khách quan. Xuất
phát từ lý do này, tác giả chọn vấn đề: Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối
với hoạt động của trọng tài thương mại làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao
học Luật của mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện đà có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài
thương mại như: Trọng tài với tính chất là một hình thức giải quyết tranh
chấp; Trọng tài trong mối quan hệ so sánh với Toà án; hoàn thiện cơ chế
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài v.v.. Tuy nhiên, sự hỗ
trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài thương mại là một chế
định mới nên cho đến nay, cũng chưa có công trình nào nghiên cứu một


2
cách đầy đủ, thoả đáng. Do vậy, tác giả đà mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề

này, để làm sáng tỏ vai trò quan trọng của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối
với hoạt động trọng tài cũng như những tác động tích cực của nó đối với
hoạt động trọng tài
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phù hợp với tên đề tài đà chọn, luận văn không nghiên cứu toàn bộ
hoạt động của trọng tài với tính chất là một hình thức giải quyết tranh chấp,
mà chỉ đi sâu nghiên cứu về một chế định của trọng tài, đó là sự hỗ trợ của
cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài. Luận văn giải thích về sự cần
thiết phải hỗ trợ hoạt động trọng tài của cơ quan tư pháp; phân tích về nội
dung, vai trò, ý nghĩa của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động
trọng tài. Đồng thời, để làm rõ hơn những quy định của pháp luật Việt Nam
về sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài, tác giả có
nghiên cứu, so sánh, đối chiếu với pháp luật trọng tài của một số nước trên
thế giới, để thấy sự tương đồng và khác biệt của pháp luật Việt Nam và
pháp luật một số nước về vấn đề này. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của sự hỗ trợ đó trên thực tế và tạo ra sự tương
thích giữa pháp luật Việt nam với pháp luật thế giới
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đà sử dụng
các phương pháp như:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được tác giả sử
dụng để mô tả tiến trình phát triển của các vấn đề về trọng tài nói chung và
sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với trọng tài nói riêng trong điều kiện
kinh tế xà hội của Việt nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để khái quát
hoá, đánh giá và nhận định về các vấn đề pháp lý liên quan đến sự hỗ trợ
của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tµi;


3

- Phương pháp so sánh phá luật được tác giả sử dụng để đối chiếu với
pháp luật trọng tài của một số nước trên thế giới, để thấy sự tương đồng và
khác biệt của pháp luật Việt Nam so với pháp luật một số nước về vấn đề
này
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài:
+ Giải quyết một số vấn đề lý luận về bản chất trọng tài để giải thích
cần phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài;
+ Phân tích sâu sắc những quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ
trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài; so sánh, đối chiếu với
những quy định trước đây của pháp luật Việt nam cũng như những quy định
của pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề này
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi của quy
định này
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
+ Tiếp cận cơ sở lý luận của việc cần phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư
pháp đối với hoạt động trọng tài, đó chính là từ bản chất của trọng tài;
+ Tiếp cận những quy định của pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của
cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài;
+ Từ những quy định này, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng
tài, từ đó góp phần đưa hình thức trọng tài đến gần hơn nữa với các nhà
kinh doanh, để họ yên tâm lựa chän träng tµi nh­ mét sù lùa chän tèi ­u
cho mình.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu về bản chất của trọng tài với tính chất là một hình thức
giải quyết tranh chấp tồn tại song song với Toà án, từ đó chỉ ra cần phải có
sự hỗ trợ của Toà án, của cơ quan thi hành án đối với hoạt động trọng tài.



4
- Nghiên cứu chi tiết các quy định về sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp
đối với hoạt động trọng tài, điều mà các công trình nghiên cứu về trọng tài
trước đây chưa hề đề cập hoặc chỉ đề cập dưới khía cạnh là sự hạn chế của
hình thức trọng tài.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi
của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1. Khái quát chung về trọng tài, cơ quan tư pháp và sự hỗ trợ
của cơ quan tư pháp đối với hoạt động trọng tài thương mại;
Chương 2. Các quy định pháp luật hiện hành về sự hỗ trợ của cơ quan
tư pháp đối với hoạt động trọng tài thương mại;
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động
hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với trọng tài thương mại.


5

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI, CƠ QUAN TƯ PHÁP VÀ
SỰ HỖ TRỢ CỦA CƠ QUAN TƯ PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về trọng ti thng mi
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lí, trọng tài được nghiên cứu dưới những bình
diện khác nhau và cũng chính vì vậy mà hiện có nhiều quan niệm khác
nhau về trọng tài.
Theo cuốn Đại từ điển kinh tế thị trường: Trọng tài là một phương

thức giải quyết một cách hoà bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương
sự tự nguyện ®em nh÷ng sù viƯc, nh÷ng vÊn ®Ị tranh chÊp giao cho người
thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này
đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên [39, tr.1989].
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số
người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng,
có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành [28, tr.3].
Theo cuốn Đạo đức và kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị
trường định hướng xà hội chủ nghĩa do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ
biên: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc
nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể
này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá
trình đó [29 tr.183].
Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003: Trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên
thoả thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này
quy định (khoản 1 điều 2)
Như vậy, Trọng tài nói chung và trọng tài thương mại nói riêng tuy
được hiểu dưới nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung lại có thể được nh×n


6
nhận với tư cách là hình thức giải quyết tranh chấp hoặc là cơ quan tài phán
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xà hội.
Trong phạm vi bản luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu
bản chất của trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là Trọng tài) dưới hai góc
độ đó.

Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp

Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của
trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột
bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thoả thuận của các bên tranh
chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với mỗi bên [33, tr 343]
Trọng tài là hình thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại, tồn tại song song với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác như thương lượng, hoà giải, toà án và các phương thức giải
quyết tranh chÊp lùa chän ADR (Alternative Dispute Resolution) nh­: tè
tông mini (Mini - trial), Uû ban xem xÐt tranh chÊp/ Uỷ ban phân xử tranh
chấp (DRB/ DAB), hợp danh, giám định kĩ thuật. [34, từ tr.70 đến tr.76]
Trọng tài và các phương thức ADR, nói chung là các phương thức
giải quyết ngoài Toà án, không cạnh tranh với Toà án mà Toà án, trọng tài và
ADR là các phương thức bổ sung lẫn nhau. Thực tế, trọng tài không thể phát
triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng của các toà án quốc gia.
Trọng tài đà trở thành phương thức được sử dụng phổ biến để giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế và hiện tại là phương thức bắt buộc phải thi
hành và ràng buộc về mặt pháp lí duy nhất có thể thay thế cho Toà án.[34,
tr.24]
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:

Một là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của bên thứ ba - các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất. Trọng tài do
chính các bên đương sự thoả thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp. Trọng tài là người cầm cân nảy mực, hoàn toàn độc lập với các bên,


7
đứng giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc để
bảo vệ quyền lợi của các bên.


Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ
tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp tại trọng tài, trọng tài viên và các
bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài,
Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.

Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết
do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của
trọng tài vừa kết hợp yếu tố thoả thuận (các bên đương sự có thể thoả thuận về
nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ
tranh chấp...), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành với các
bên).
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp được nhiều ưu
điểm của các hình thức giải quyết tranh chấp khác như: đảm bảo sự tự do
thoả thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ được quan hệ giữa các
bên sau khi giải quyết như hình thức thương lượng, hoà giải; đảm bảo sự
chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán như hình thức Toà án. Lựa chọn
trọng tài, các bên tranh chấp có thể yên tâm vì tranh chấp sẽ được trọng tài
giải quyết nhanh chóng, dứt điểm, tránh lÃng phí về thời gian và tiền bạc.
Do vậy trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở những nước
có nền kinh tế thị trường phát triển, được các nhà kinh doanh sử dụng như
một hình thức tối ưu để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại.

Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết các tranh chấp
Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được
luật pháp các nước có nền kinh tế thị trường thừa nhận là một cơ quan tài
phán độc lập, tồn tại song song với toà án. Pháp luật tôn trọng quyền tự lựa
chọn đó của đương sự, khi có tranh chấp trong thương mại phát sinh, các

chủ thể có thể lựa chọn hoặc toà án, hoặc trọng tài giải quyết cho mình.
Nếu các bên đà có thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài và


8
thoả thuận có hiệu lực mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu toà án giải
quyết, toà án sẽ trả lại đơn kiện cho nguyên đơn.
Tuy là hai cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, nhưng xuất phát từ bản
chất vốn có, Trọng tài có những đặc trưng riêng khác hẳn với Toà án. Cụ
thể:

Thứ nhÊt, Träng tµi lµ tỉ chøc x· héi - nghỊ nghiệp do các trọng tài
viên tự thành lập nên để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà
nước, không do Nhà nước thành lập nên và cũng không hoạt động bằng
ngân sách Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là các viên chức nhà
nước, không do Nhà nước bổ nhiệm và cũng không hưởng lương từ ngân
sách. Khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết.

Thứ hai, quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có mà xuất phát
từ sự thoả thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Trong tố tụng
trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên
tranh chấp có thoả thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thoả
thuận trước hoặc sau khi x¶y ra tranh chÊp vỊ viƯc lùa chän trọng tài giải
quyết tranh chấp cho mình, hoặc có nhưng thoả thuận trọng tài vô hiệu thì
trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Chính các chủ thể tranh chấp, với
việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đà trao quyền lực xét
xử cho trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân
danh ý chÝ tèi cao cđa c¸c chđ thĨ tranh chÊp mà không nhân danh quyền

lực Nhà nước.

Thứ ba, phán quyết trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thoả
thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét
xử. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như
Toà án nên phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán
quyết trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không
có giá trị ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một hoặc các bên tranh
chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán
quyết thì trọng tài cũng không có cơ quan cưỡng chế của riêng mình để


9
cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi
hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước để cưỡng chế thi hành.

Tóm lại, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập,
song song với Toà án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được
các bên đương sự lựa chọn.
1.1.2. Hình thức Trọng tài
Trọng tài ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng được tổ chức
dưới các dạng khác nhau với các tên gọi khác nhau, nhưng chủ yếu tồn tại
dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc vµ träng tµi th­êng trùc.

Träng tµi vơ viƯc (Träng tµi Ad-hoc, Hội đồng trọng tài do các bên
thỏa thuận thành lập)
Trọng tài vụ việc là Hội đồng trọng tài được lập ra theo yêu cầu của
các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh
chấp đó đà được giải quyết.
Trọng tài vụ việc tồn tại chỉ có tính chất lâm thời, không có trụ sở và

bộ máy cố định, trọng tài viên do các đương sự thoả thuận lựa chọn. Thông
thường, trọng tài viên có thể được chọn từ các thương gia có tu nghiệp pháp
lí hay các luật sư làm việc tại các công ti. Các trọng tài viên không chỉ nắm
vững về luật pháp mà còn rất am hiểu về hoạt động thương mại. Hoạt động
của Hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc xét xử nào,
cũng không bị ràng buộc bởi các quy định của pháp luật tố tụng; chỉ đảm
bảo nguyên tắc: xét xử khách quan, vô tư, đúng pháp luật.
Do việc thành lập dễ dàng, quy chế hoạt động đơn giản nên trọng tài
vụ việc có khả năng giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém các tranh chấp, đặc
biệt đối với các tranh chấp ít tình tiết phức tạp, cần và có thể giải quyết
nhanh chóng, các bên tranh chấp lại có hiểu biết pháp luật và có kinh
nghiệm tranh tụng. Nhưng cũng do tính không ổn định và không có quy chế
hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết các vụ tranh chấp không cao.
Về bản chất, lịch sử hình thành, cách thức tổ chức, hoạt động cũng
như ưu thế của trọng tài vụ việc được Luật sư Trần Hữu Huỳnh thể hiện khá
rõ nét trong bài viết: "Các hình thức tổ chức trọng tài với việc xây dựng


10

Pháp lệnh trọng tài thương mại tại Việt Nam" trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 2/2001 [43, từ tr.53 ®Õn tr.61].
Ở ViƯt Nam, trong nỊn kinh tÕ kÕ hoạch hoá tập trung, chưa từng có
trọng tài vụ việc. Năm 1987, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam cho phép các
bên tranh chấp được lựa chọn hình thức trọng tài vụ việc để giải quyết tranh
chấp (xem điều 25 Luật đầu tư nước ngoài năm 1987). Các văn bản pháp
luật về đầu tư nước ngoài kế tiếp thừa nhận trọng tài vụ việc là một trong
những phương thức giải quyết tranh chấp mà các nhà đầu tư có thể lựa chọn
(xem các điều 53 NĐ139/HĐBT ngày 05/09/1988, điều 102 NĐ12/CP ngày
18/02/1997 điều 122 NĐ24/200/NĐ-CP ngày 31/07/2000).

Những quy định trên đáp ứng được nguyện vọng của các nhà đầu tư
trong vµ ngoµi n­íc vỊ viƯc lùa chän mét tỉ chøc trọng tài thích hợp để yêu
cầu giải quyết tranh chấp cho mình, đảm bảo quyền tự do lựa chọn các hình
thức và cách thức giải quyết tranh chấp cho các đương sự. Tuy nhiên, trên
thực tế về quy chế trọng tài, lại không có một quy chế pháp lí, một văn bản
pháp luật nào quy định cụ thể để trọng tài vụ việc có thể hoạt động. Do đó,
trên thực tế, trọng tài vụ việc hầu như không tồn tại.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại đà quy định tương đối cơ thĨ vỊ
träng tµi vơ viƯc, cho phÐp träng tµi vụ việc giải quyết tất cả các tranh chấp
phát sinh, kể cả tranh chấp quốc tế và trong nước, miễn là được các bên
đương sự thoả thuận lựa chọn. Pháp lệnh quy định về việc chọn trọng tài
viên thành lập Hội đồng trọng tài; thủ tục tố tụng; việc huỷ quyết định trọng
tài; việc thi hành quyết định của trọng tài vụ việc tương tự như trọng tài
thường trực. Điều này là cơ sở pháp lí vững chắc để trọng tài vụ việc hoạt
động song song với trọng tài thường trực và Toà án.

Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Trọng tài thường trực là trung tâm trọng tài, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ
riêng, được thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại.


11
Trọng tài thường trực tồn tại dưới hình thức các trung tâm trọng tài,
có trước khi tranh chấp xảy ra, tồn tại độc lập, hoạt động một cách thường
xuyên, sẵn sàng giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương
mại khi các đương sự yêu cầu.
Trọng tài thường trực có một số đặc trưng cơ bản sau:


Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức
Với tư cách là một cơ quan tài phán thương mại, Trọng tài thường
trực được tổ chức với mô hình đa dạng. Đó có thể là các trung tâm trọng tài
đặt bên cạnh một cơ quan hay tổ chức khác, ví dụ, Viện trọng tài Stockhom
nằm bên trong Phòng Thương mại Stockhom, hoặc đó có thể là các trung
tâm trọng tài độc lập, thành lập dưới hình thức công ti hoặc hiệp hội có
đăng kí, ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế Singapo, Trung tâm trọng tài
quốc tế Hongkong... Tuy nhiên, dù tổ chức dưới các hình thức khác nhau,
các trung tâm trọng tài đều có những đặc trưng về cơ cấu tổ chức, giúp
chúng ta phân biệt với Toà án là cơ quan tài phán của Nhà nước. Đó là:
- Các trung tâm trọng tài tồn tại dưới hình thức các tổ chức xà hội nghề nghiệp, không do Nhà nước thành lập và không nằm trong hệ thống
các cơ quan nhà nước. Các trung tâm trọng tài do các trọng tài viên thành
lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại. Hoạt động trọng tài không chịu sự chi phối đáng kể nào từ phía Nhà
nước về tổ chức, nhân sự, tài chính... mà chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp
luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Điều đó thể hiện sự khác biệt
giữa trung tâm trọng tài với Toà án và Trọng tài kinh tế Nhà nước trước đây.
- Bên cạnh sự độc lập với cơ quan tài phán của Nhà nước, các trung
tâm trọng tài còn độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không hề
có quan hệ trực thuộc về tổ chức và tài chính mà chỉ có sự cạnh tranh lẫn
nhau để tạo uy tín và thu hút khách hàng. Đây cũng là điểm khác biệt giữa
các Trung tâm trọng tài so với Toà án - là hệ thống cơ quan xét xử có sự
ràng buộc chặt chẽ với nhau và có sự phân cấp giữa Toà án cấp trên và Toà
án cấp dưới. Do đó, các Trung tâm trọng tài đều xét xử theo nguyên tắc xét


12
xử một lần, phán quyết của trọng tài là chung thẩm và không thể kháng
cáo.
- Cơ cấu tổ chức của các trung tâm trọng tài rất linh hoạt và gọn nhẹ.

Bộ máy quản lí của Trung tâm trọng tài thường chỉ bao gồm một Chủ tịch,
một vài Phó chủ tịch và Ban thư kí thường trực; còn hoạt động xét xử được
đảm nhiệm bởi một đội ngũ trọng tài viên hoạt động kiêm nhiệm và hưởng
lương theo vụ việc. Trung tâm trọng tài hoạt động theo cơ chế hạch toán
độc lËp, tù chđ vỊ tµi chÝnh, lÊy thu bï chi. Ngn thu chđ u cđa Träng
tµi lµ tõ lƯ phÝ trọng tài khi được yêu cầu giải quyết các tranh chấp.
- Đội ngũ trọng tài viên của các trung tâm trọng tài là những người có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn cao và có uy tín nghề
nghiệp. Thông thường, họ được lựa chọn từ các thương gia có tu nghiệp
pháp lí hay các luật sư làm việc tại các công ti. Tức là họ không chỉ có kiến
thức pháp luật vững vàng mà còn là những người rất am hiểu hoạt động
thương mại. Cũng vì là những người kiêm nhiệm nên so với thẩm phán ở
các Toà án, các trọng tài viên ở các trung tâm trọng tài hoạt động linh hoạt
hơn; ngoài hiểu biết về luật pháp thì những hiểu biết về hoạt động kinh
doanh của họ cũng phong phú hơn, sát thực hơn. Vì vậy, độ chính xác của
các phán quyết trọng tài là rất cao, làm tiền đề đảm bảo cho tính khả thi của
phán quyết trọng tài.
- Mỗi trung tâm trọng tài đều xây dựng một bản Điều lệ hoạt động và
Quy tắc tố tụng riêng trên cơ sở những quy định của pháp luật trọng tài. Mỗi
trung tâm đều cố gắng xây dựng bản Điều lệ hoạt động và Quy tắc tố tụng thật
đơn giản và hiệu quả, bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt của đương sự để tạo
sức hấp dẫn cho trung tâm trước khách hàng là các chủ thể đang có các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Đây cũng là điểm rất khác biệt với
Toà án - là cơ quan tài phán xét xử các tranh chấp theo quy định của pháp
luật tố tụng
- Việc thành lập và hoạt động của các trung tâm trọng tài phải đặt
dưới sự quản lí cũng như sự hỗ trợ hiệu quả của Nhà nước nói chung và các
cơ quan tư pháp nói riêng.



13
Sự quản lí của Nhà nước thể hiện ở việc Nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài, trong đó đặc biệt quan trọng
phải kể đến Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25/02/2003 (ở những phần
sau xin được viết tắt là Pháp lệnh Trọng tài thương mại).
Sự hỗ trợ của Nhà nước nói chung và của các cơ quan tư pháp nói
riêng thể hiện ở việc Toà án trợ giúp Trọng tài trong hoạt động tố tụng, cơ
quan thi hành án trợ giúp Trọng tài thông qua việc cưỡng chế thi hành các
phán quyết trọng tài (những quy định cụ thể sẽ được trình bày ở chương II
của Luận văn).
So với trọng tài vụ việc, trọng tài thường trực có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên, điều lệ hoạt động và quy
tắc tố tụng riêng. Các quy tắc này thường xuyên được các tổ chức trọng tài
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của trọng tài
thương mại. Hơn nữa, trọng tài thường trực được điều hành bởi những trọng
tài viên là các chuyên gia trọng tài có nhiều kinh nghiệm, vững vàng về
chuyên môn và am hiểu hoạt động kinh doanh, do đó có thể hạn chế tối đa
các sai sót có thể xảy ra. Các hoạt động hành chính, văn phòng, các hoạt
động dịch vụ khác như: phiên dịch, cho thuê văn phòng xét xử, thông tin
liên lạc... đều được tổ chức chu đáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên
tham gia hoạt động tố tụng trọng tài. Các quy định về phí hành chính, phí
trọng tài... cũng được thông báo trước để các bên đương sự cân nhắc lựa
chọn.
Tuy nhiên, trọng tài thường trực cũng có những điểm hạn chế nhất
định. Đó là: chi phí trọng tài cao hơn so với trọng tài vụ việc do phải duy trì
một bộ máy thường trực; quy tắc tố tụng được xây dựng sẵn đôi khi không
phù hợp với từng tranh chấp cụ thể; trọng tài viên chỉ là những người trong
danh sách mà không được chọn người ngoài... Điều đó cũng hạn chế phần
nào quyền tự định đoạt của đương sự so với trọng tài vụ viƯc.
Ở ViƯt Nam, ngay tõ khi träng tµi phi ChÝnh phủ ra đời, trọng tài phi

Chính phủ đà tổ chức dưới hình thức trọng tài thường trực. Đó là: Hội đồng
Trọng tài Ngoại thương được tổ chức theo NĐ 59/CP ngày 30/04/1963 và
Hội đồng Trọng tài Hàng hải được tổ chức theo NĐ 153/CP ngày


14
05/10/1964 của Hội đồng Chính phủ. Đến năm 1993, theo Quyết định
204/TTg ngày 28/04/1993, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên
cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam được thành lập trên cơ
sở hợp nhất hai Hội đồng trọng tài trên. Đồng thời, với việc Chính phủ ban
hành Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của
Trọng tài kinh tế, cũng đà cho ra đời các Trung tâm trọng tài là những tổ
chức trọng tài thường trực. Chỉ đến khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại ra
đời thì trọng tài vụ việc mới được chÝnh thøc ghi nhËn ë ViƯt Nam, tån t¹i
song song với trọng tài thường trực và các hình thức giải quyết tranh chấp
khác. Như vậy, trọng tài thường trực là hình thức trọng tài được pháp luật
ghi nhận trước do những đặc thù riêng về kinh tế xà hội ở nước ta và cũng là
những tổ chức trọng tài ra đời đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn nền kinh
tÕ ViƯt nam.

Thø hai, vỊ tè tơng träng tµi
- VỊ thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, Trọng tài nói chung và
trọng tài thường trực nói riêng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa
các chủ thể kinh doanh với nhau phát sinh trong hoạt động thương mại.
Điều này có nghĩa là trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết khi tranh chấp
đó là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại và chủ thể tranh
chấp là các chủ thể kinh doanh (điều 2 NĐ25/2004/NĐ-CP ngày
15/01/2004). Nhìn chung, thẩm quyền của trọng tài trong việc giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại tương đối khác so với
thẩm quyền của Toà án. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định

theo cấp, không phân định theo lÃnh thổ, cũng không theo sự lựa chọn của
nguyên đơn, mà trong mọi trường hợp, đều phải phụ thuộc vào sự thoả
thuận lựa chọn của cả hai bên về việc sẽ đưa vụ tranh chấp ra trọng tài giải
quyết. Trong lúc đó, thẩm quyền của Toà án không chỉ phân định theo vụ
việc như trọng tài, mà còn phân ®Þnh theo cÊp, theo l·nh thỉ, theo sù lùa
chän cđa nguyên đơn (điều 29, 30, 33, 34, 35, 36 Bộ luật tố tụng dân sự
15/06/2004).
- Về nguyên tắc giải quyết tranh chÊp, Träng tµi nãi chung vµ träng
tµi th­êng trùc nói riêng giải quyết tranh chấp theo các nguyên tắc cơ bản


15
như: trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên phải có thoả thuận trọng
tài; trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật
và tôn trọng sự thoả thuận của các bên; xét xử một lần, phán quyết của
trọng tài là chung thẩm và không thể kháng cáo; xét xử không công khai
v.v.. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài có thể bảo đảm được bí
mật và uy tín của các chủ thể đang có tranh chấp, đồng thời làm cho quá
trình giải quyết tranh chấp được nhanh gọn, dứt điểm; đảm bảo tối đa quyền
tự định đoạt cho các chủ thể tranh chấp. Đây cũng là những ưu ®iĨm rÊt nỉi
bËt cđa träng tµi, lµm cho träng tµi có sức hấp dẫn hơn các hình thức giải
quyết tranh chấp khác, nhất là Toà án.
- Về thủ tục tố tụng, do nguyên tắc xét xử một lần nên thủ tục tố
tụng trọng tài đơn giản, nhanh chóng hơn so với tố tụng Toà án. Các bước,
các thủ tục tố tụng cũng linh hoạt, mềm dẻo hơn, tạo điều kiện để các chủ
thể tranh chấp dễ dàng trong việc giải quyết tranh chấp. Đồng thời, một
điểm mới quan trọng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại so với các văn
bản pháp luật trước đây về trọng tài, đó là cơ chế thi hành phán quyết trọng
tài đà được quy định tương đối đầy đủ và chi tiết. Hiện nay, nếu bên phải thi
hành không tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài, bên được thi hành có

quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành. Quy định này đÃ
khắc phục được điểm hạn chế lớn nhất của tố tụng trọng tài trước đây, làm
cho hoạt động trọng tài thực sự có hiệu quả, đảm bảo tính khả thi của phán
quyết trọng tài.

Tóm lại, với những đặc trưng riêng về tổ chức và tố tụng, Trọng tài là
một hình thức giải quyết tranh chấp vừa mang yếu tố thoả thuận, vừa mang
yếu tố tài phán. Vì vậy, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp được các
nhà kinh doanh trên thế giới, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển sử dụng như một hình thức giải quyết tranh chấp tối ưu khi
họ không thể tự thương lượng và hoà giải. Còn ở Việt Nam, vì nhiều lí do
mà Trọng tài vẫn chưa phải là hình thức giải quyết tranh chấp được các nhà
kinh doanh chú trọng, trong đó, lí do thiếu sự hỗ trợ hay sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước đối với hoạt động trọng tài là lí do căn bản.


16
1.2. Khái quát về cơ quan tư pháp tham gia hỗ trợ hoạt động
trọng tài
Trong khoa häc ph¸p lÝ ViƯt Nam cũng như trên thế giới, khái niệm
tư pháp được giải thích theo nhiều nghĩa khác nhau và việc xác định cơ
quan nào là cơ quan tư pháp cũng chưa có sự thống nhất. Trong phạm vi
luận văn, chúng tôi không đề cập đến cơ sở lí luận để xác định cơ quan nào
là cơ quan tư pháp và cũng không đi sâu tìm hiểu chi tiết về các cơ quan tư
pháp đó, mà chỉ tìm hiểu về ba cơ quan tư pháp tham gia hỗ trợ hoạt động
trọng tài thương mại theo Pháp lệnh trọng tài thương mại (2003). Đó là cơ
quan Tòa án, cơ quan kiểm sát và cơ quan thi hành án - những cơ quan lần
đầu tiên được pháp luật quy định thêm chức năng hỗ trợ hoạt động trọng tài.
1.2.1. Cơ quan Tòa án
Toà án là hệ thống cơ quan có chức năng đặc thù trong bất kỳ bộ máy

nhà nước nào. Tính đặc thù của Tòa án thể hiện ở chỗ, Tòa án là cơ quan
quyền lực nhà nước duy nhất được thực hiện chức năng xét xử và ra các
phán quyết buộc các bên thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Theo điều 127 Hiến pháp 1992: To ỏn nhõn dõn tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định
là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xó hi ch ngha Vit Nam.
Trong hoạt động xét xử, Toà án phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản như:
khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật (điều 130 Hiến pháp 92); toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường
hợp luật định; toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số (điều
131 Hiến pháp 92)...
Không phải tất cả các Toà án được thành lập trên lÃnh thổ Việt Nam
đều tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ có Toà kinh tế - Toà án
chuyên giải quyết các tranh chấp về thương mại mới tham gia hỗ trợ hoạt
động trọng tài. Bởi vì, xuất phát từ tính chất của vụ tranh chấp được trọng
tài giải quyết là tranh chp phỏt sinh trong hoạt động thương mại mà các
bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh (®iỊu 2 Nghị
định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/01/2004) và hoạt động thương mại được định
nghĩa trong Pháp lệnh trọng tài thương mại là vic thực hiện một hay


17
nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký
gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư;
tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dị, khai thác; vận chuyển hàng hố,
hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và
các hành vi thương mại khác theo quy định của phỏp lut. Cho nên, có thể
khẳng định rằng, chỉ có Toà kinh tế với thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp có tính chất tương tự như Trọng tài mới tham gia hỗ trợ hoạt động

trọng tài. Còn các Toà án khác như: Toà hình sự, Toà dân sự, Toà lao động,
Toà hành chính không tham gia vào hoạt động hỗ trợ này, vì hoạt động của
các Toà trên khác cơ bản so với hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng
tài thương mại.
To kinh t To ỏn nhõn dõn tnh, thành phố trực thuộc trung ương
có những nhiệm vụ và quyền hạn quan träng nh­: Sơ thẩm những vụ án
kinh tế theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm những vụ án kinh tế
mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tồ án cấp
dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng; giải
quyết việc phá sản theo quy định của pháp luật (®iỊu 30 Lt tỉ chøc Tòa
án nhân dân ngày 02/04/2002).
Đối với Toà cấp huyện cũng như Toà kinh tế Toà án nhân dân tối
cao, chức năng nhiệm vụ cũng được Luật tổ chức Toà án nhân dân quy định
tương đối cụ thể (xét xử sơ thẩm; phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm).
Như vậy, căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân, Toà kinh tế
không có chức năng hỗ trợ hoạt động trọng tài, mà chỉ quy định chức năng
xét xử các tranh chấp và giải quyết phá sản.
Tuy nhiên, căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự (2004) thì Toà kinh tế lại có
thẩm quyền giải quyết: Yờu cu liờn quan n việc Trọng tài thương mại
ViÖt Nam giải quyết các vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật về
Trọng tài thương mại; yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định kinh doanh, thương mại của Trọng ti nc ngoi (khoản 1, 3
điều 30). Hơn nữa, trong Pháp lệnh trọng tài thương mại, nhiều quy định về
sự hỗ trợ của cơ quan toà án đối với hoạt động trọng tài đà được ghi nhận


18
(xem các điều 26, 27, 30, 33, 34 Pháp lệnh Trọng tài thương mại). Đó là cơ
sở pháp lí để trọng tài và các đương sự yêu cầu toà án hỗ trợ khi cần thiết.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật hiện hành đà có những quy định

về nhiệm vụ, quyền hạn của toà án trong việc hỗ trợ đối với hoạt động
trọng tài.
1.2.2. Cơ quan kiểm sát
Theo điểm 23 điều 1 Nghị quyết 58/2001 ngày 25/12/2001 về việc
sửa ®ỉi bỉ sung mét sè ®iỊu cđa HiÕn ph¸p 1992 sửa điều 137 Hiến pháp
1992: Vin kim sỏt nhõn dõn tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các
Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật nh.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/04/2004, Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng nhiệm vụ bằng công tác: kim sỏt
vic gii quyt cỏc v án dân sự, hơn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế,
lao động và những việc khác theo quy định ca phỏp lut (khoản 4 điều 3
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02/04/2004).
Như vậy, Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đều
không có quy định về sự hỗ trợ của cơ quan kiểm sát đối với hoạt động của
trọng tài thương mại. Trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại, sự hỗ trợ của
cơ quan kiểm sát cũng được thể hiện khá khiêm tốn so với cơ quan toà án
và cơ quan thi hành án. Tựu trung lại, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nơi
Hội đồng trọng tài đang thụ lí giải quyết vụ tranh chấp có quyền kiểm tra,
giám sát quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án hỗ trợ
hoạt động trọng tài; kiểm sát việc huỷ quyết định trọng tài của Toà án khi
đương sự yêu cầu...( điều 34, điều 53, 55, 56 Pháp lệnh Trọng tài thương
mại). Tức là, Viện kiểm sát không kiểm tra, giám sát trực tiếp hoạt động
của trọng tài mà chỉ kiểm tra, giám sát hoạt động hỗ trợ của Toà án đối với
trọng tài. Điều này thể hiện đúng bản chất của hoạt động kiểm tra, giám sát
của cơ quan kiểm sát cũng như không làm mất đi bản chất cđa träng tµi.



19
Trọng tài vẫn là tổ chức giải quyết các tranh chÊp cã tÝnh chÊt “qun lùc
t­”, thĨ hiƯn ý chÝ tự định đoạt tối đa của các đương sự mà không bị sự can
thiệp quá sâu từ phía các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan kiểm sát
nói riêng.
1.2.3. Cơ quan thi hành án
Cơ quan thi hành án là cơ quan có trách nhiệm đưa các bản án, quyết
định đà có hiệu lực pháp luật của Toà án áp dụng vào thực tiễn. Vì vậy, thi hành
án có ý nghÜa hÕt søc quan träng trong viƯc “cđng cè được hiệu quả pháp luật,
tăng cường pháp chế, bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công
dân và bằng cách đó nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước (mà đại diện là các
cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án) [31, tr.14]. Bởi vì, một bản án hay quyết
định của Toà án dù được xử đúng đến đâu thì quyền lợi của các bên bị xâm
phạm cũng chưa được bảo đảm trên thực tế; chỉ khi bản án, quyết định đó được
thi hành thì chủ thể bị xâm phạm quyền lợi của mới thực sự được bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Việt Nam, công tác thi hành án dân sự được thực hiện theo Pháp
lệnh thi hành án dân sự ngày 14/01/2004. Theo điều 11 Pháp lệnh thi hành
án d©n sù, các cơ quan thi hành án dân sự gồm có: Cơ quan thi hành án dân
sự cấp tỉnh, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện, cơ quan thi hành án
quân khu và tương đương. C¬ quan thi hành án cấp tỉnh là Phòng thi hành
án thuộc Sở Tư pháp tỉnh, cơ quan thi hành án cấp huyện là Đội thi hành án
thuộc Phòng Tư pháp huyện, cơ quan thi hành án trong quân đội là Phòng
thi hành án quân khu và tương tương. Hệ thống cơ quan thi hành án được
quản lí thống nhất bởi Cơ quan quản lí thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp.
Pháp lệnh thi hành án dân sự đà có quy định rất rõ về những bản án,
quyết định dân sự được cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Điều 1 Pháp
lệnh thi hành án dân sự (1993) quy định: Những bản án, quyết định dân sự
của Toà án nói trong Pháp lệnh này bao gồm bản án, quyết định về dân sự,

hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết
định hình sự và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định. Còn theo
điều 1 Pháp lệnh thi hành án dân sự (2004), ngoài những bản án, quyết


20
định kể trên, còn bổ sung thêm các bản án, quyết định dõn s ca Tũa ỏn
nc ngoi; quyt nh của Trọng tài nước ngồi được Tịa án Việt Nam
cơng nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định ca Trng ti thng
mi Vit Nam.
Đây là những quy định mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
hoạt động trọng tài. Bởi vì, xuất phát từ bản chất cđa mét tỉ chøc x· héi
nghỊ nghiƯp, do c¸c träng tài viên thành lập nên, trọng tài hoạt động không
nhân danh quyền lực nhà nước và cũng không có sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhân danh ý chí của các
bên và mang tính quyền lực tư nhiều hơn. Vì vậy, việc thi hành phán
quyết trọng tài trở thành điểm yếu nhất của tố tụng trọng tài. Phán quyết
trọng tài trước đây nếu không được một bên tự nguyện thi hành thì bªn kia
“có quyền u cầu Tồ án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải
quyết các vụ ỏn kinh t (điều 31 Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994) hay
“sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy nh ca phỏp lut (điều 31
Quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam). Nhưng trên
thực tế, không có quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành phán quyết
trọng tài.
Hiện nay, với những quy định mới trong Pháp lệnh Trọng tài thương
mại, Pháp lệnh thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án sẽ thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại Việt Nam và trọng tài nước ngoài như một
bản án, quyết định dân sự của Toà án. Các chủ thể khi đưa tranh chấp ra
Trọng tài giải quyết đà yên tâm, bởi vì phán quyết trọng tài đà được thi
hành bởi một cơ quan nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước, nhân danh

Nhà nước cưỡng chế thi hành.

Tóm lại, các cơ quan tư pháp tham gia hỗ trợ hoạt động trọng tài theo
Pháp lệnh Trọng tài thương mại bao gồm: cơ quan Toà án, cơ quan kiểm sát
và cơ quan thi hành án. Tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng
cơ quan đó mà pháp luật quy định có sự hỗ trợ khác nhau đối với hoạt động
trọng tài. Sự trợ giúp của ba cơ quan này đà giúp cho hoạt động trọng tài
thực sự khởi sắc, làm cho các nhà kinh doanh yên tâm khi lựa chän träng


21
tài, góp phần bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, ổn định và
lành mạnh môi trường đầu t­ kinh doanh ë ViÖt Nam.
1.3. Sự cần thiết phải có hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hot
ng trng ti thng mi
1.3.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối
với hoạt động trọng tài
Hoạt động trọng tài luôn cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước
nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Điều đó xuất phát từ cơ sở lí luận
và thực tiễn sau:

ã Cơ sở lí luận
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài
Trọng tài là cơ quan tài phán phi ChÝnh phđ cã qun lùc b¾t ngn
tõ “qun lùc hợp đồng hay còn gọi là quyền lực đại diện, do các bên
tranh chấp giao phó, uỷ nhiệm. Phán quyết trọng tài không mang tính
quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí Nhà nước mà đại diện cho ý
chí của các bên tranh chấp. Vì vậy, trong quá trình giải quyết tranh chấp,
trọng tài gặp rất nhiều khó khăn, những khó khăn này vượt ra ngoài sự kiểm
soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của các cơ quan tư pháp. Cụ thể là:

- Trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài, nếu bị đơn không chọn
được trọng tài viên cho mình, hay các trọng tài viên được chọn không chọn
được trọng tài viên thứ ba, hay các bên không chọn được trong tài viên duy
nhất;
- Khi một bên tranh chấp yêu cầu bác bỏ thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài vì không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu;
- Nếu có một bên tranh chấp tẩu tán tài sản, làm thất thoát khối tài
sản của mình nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia thì
trọng tài cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với
các hành vi đó;


22
- Khi trọng tài đà ra phán quyết, nếu một trong các bên không tự
nguyện thi hành, thì bản thân trọng tài cũng không có cơ quan cưỡng chế
của riêng mình để cưỡng chế thi hành v.v..
Điều đó đặt ra vấn đề cần phải có sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp cho
hoạt động của trọng tài để khắc phục những điểm yếu và phát huy những
mặt mạnh của trọng tài. Có như vậy, mới đảm bảo cho quá trình giải quyết
tranh chấp tại trọng tài được thông suốt và hiệu quả; đảm bảo quyền tự do
kinh doanh của công dân (cụ thể là quyền lựa chọn hình thức và cách thức
giải quyết tranh chấp) được thực hiện trên thực tế, đảm bảo môi trường đầu
tư kinh doanh lành mạnh và hấp dẫn tại Việt Nam.
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại (2003), cơ quan tư pháp được
lựa chọn hỗ trợ hoạt động trọng tài bao gồm: Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, cơ quan Thi hành án dân sự. Đây là những bộ phận rất quan trọng
trong bộ máy nhà nước; được tổ chức theo những nguyên tắc luật định và có
những chức năng, nhiệm vụ riêng. Nhìn chung, hệ thống các cơ quan tư pháp
này là những cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
cơ bản của công dân, bảo đảm cho pháp luật được thực thi một cách nghiêm

chỉnh.
Trong nền kinh tế thị trường, các tranh chấp trong thương mại được
trọng tài giải quyết là những tranh chấp mang tính chất "tư". Bởi vậy, khi
các bên đương sự lựa chọn trọng tài giải quyết thì hoạt động tố tụng trọng
tài mang tính chất phân xử tranh chấp bởi một quyền lực tư. Hoạt động tố
tụng trong tài mang tính "quyền lực tư", nhưng đó vẫn là hoạt hoạt động
tương tự hoạt động phân xử tranh chấp bởi toà án (mang tính quyền lực
công). Do đó, trọng tài có quan hệ hữu cơ và tự nhiên với các cơ quan tư
pháp hơn là với hệ thống cơ quan hành pháp. Điều đó lí giải tại sao Pháp
lệnh Trọng tài thương mại (2003) quy định, Toà án, Viện kiểm sát và cơ
quan thi hành án là những cơ quan hỗ trợ hoạt động trọng tài mà không phải
là các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu quản lí nhà nước đối với hoạt động trọng
tài


23
Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có quyền
quản lí hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xà hội trong đó có trọng tài.
Với tư cách của một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, trọng tài thương mại hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và chịu sự quản lí của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật trọng
tài đà thể hiện sự quản lí của mình đối với trọng tài, đồng thời tạo hành lang
pháp lí cho trọng tài hoạt động. Pháp luật trọng tài là cơ sở pháp lí cho
trọng tài ra đời, tồn tại, phát triển. Sự phù hợp hay không phù hợp của pháp
luật trọng tài tác động mạnh mẽ đến sự thịnh, suy của trọng tài.
Ngoài việc ban hành pháp luật, Nhà nước còn thông qua các cơ quan
nhà nước như: Cơ quan cấp giấy phép thành lập, cơ quan đăng kí kinh

doanh, cơ quan thuế... để quản lí hoạt động trọng tài. Các cơ quan nhà nước
cũng đồng thời phê chuẩn Điều lệ và Quy tắc tố tụng của các Trung tâm
trọng tài, qua đó tạo hành lang pháp lí để các trung tâm trọng tài hoạt động,
cũng như là cơ sở để Nhà nước quản lí hoạt động trọng tài.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt
Nam
Việt Nam đang phát triển một nền kinh tế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước, theo định hướng xà hội chủ nghĩa, trong đó các quan hệ kinh tế
đang phát triển hết sức phong phú và sôi động. Do ®ã, c¸c tranh chÊp ph¸t
sinh trong thùc tiƠn kinh doanh cũng ngày một nhiều hơn, đa dạng về chủng
loại và phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có nhiều phương thức
giải quyết tranh chấp để đáp ứng các yêu cầu khác nhau của các chủ thể
kinh doanh, đồng thời các phương thức giải quyết tranh chấp đó cũng phải
thực sự hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp trong
nền kinh tế thị trường.
Như đà trình bày ở trên, Trọng tài phi Chính phủ là hình thức giải
quyết tranh chấp rất được ưa chuộng ở những nước có nền kinh tế thị trường
phát triĨn. ë ViƯt Nam, träng tµi phi ChÝnh phđ cịng đà có lịch sử tồn tại
tương đối dài, tuy nhiên chưa phải là hình thức được các nhà kinh doanh ­a


×