Tải bản đầy đủ (.pdf) (240 trang)

Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (29.93 MB, 240 trang )


BÔ G IÁ O DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯ ỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN TH Ị THANH M AI

GIÁM ĐỐC THÁM
TRONG lồ ' TỤNG HlNH s ự VIỆT NAM
C huyên ngành: L uật hình sụ
M ã số: 62.38.40.01

LUẬN ÁN TIÊN Sĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRAN VÃN ĐỘ
PGS.TS. LÊ T H Ị SƠN
ÍU

' J\

HÀ NỘI - 2007


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu này là của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Các kết
luận khoa học trong luận án chưa từng được cơng bố trong
m ột cơng trình khoa học nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

,ií Ui c
Phan Thị Thanh Mai


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1
Chương 1

8

NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM Đ ốc THAM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH s ự
1.1.

Khái niệm giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự

9,

1-2-

Ý nghĩa của giám đốc thẩm

35

1.3.


Khái quát pháp luật TTHS Việt Nam về giám đốc thẩm trước khi ban
hành BLTTHS năm 2003

42

Chương 2

i'

\fv

NHŨNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT Tố TỤNG HÌNH SựNẢM 2003
VỀ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ THỤC TlỄN th i h à n h
2.1.

Những quy định của BLTTHS năm 2003 về giám đốc thẩm

2.2.

Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật TTHS về giám đốc thẩm
Chương 3

61
/
'
61
104
138


MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁM ĐỐC THẨM TRONG Tố TỤNG HÌNH s ự
3.1.

Phương hướng, yêu cầu đối với giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc
thẩm và tiêu chí đánh giá hiệu quả giám đốc thẩm

138

3.2.

Hoàn thiện pháp luật TTHS về giám đốc thẩm

143

3.3

Một số giải pháp khác

176

KẾT LUẬN

186

DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG Bố

190

DANH MỤC TÀÍ LIỆU THAM KHẢO


191

PHỤ LỤC


NHŨNG T ừ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đổng xét xử

HLPL

Hiệu lực pháp luật

KSV

Kiểm sát viên

TAND


Toà án nhân dân

TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

TAQS

Toà án quân sự

TAQSTƯ

Toà án quân sự Trung ương

TATC

Toà án tối cao

TNHS

Trách nhiộm hình sự

TTHS

Tơ' tụng hình sự

VKS

Viên kiém sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối

VKSQS

Viện kiểm sát quân sự

VKSQSTƯ

Viện kiểm sát quân sự Trung

XHCN

Xã hội chủ nghĩa




DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1.

Sô' lượng kháng nghị giám đốc thẩm và tỉ lệ kháng nghị

105


giám đốc thẩm trên tổng số án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
Bảng 2.2.

Tình hình kiểm tra án đã có hiệu lực pháp luật ở VKSNDTC

109

Bảng 2.3.

Tình hình phát hiộn bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

110

pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
Bảng 2.4.

Kháng nghị giám đốc thẩm khơng được Tịa án chấp nhận

117

Bảng 2.5.

Chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát

118

tính theo số vụ án
Bảng 2.6.


Chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát

119

tính theo sơ' bị cáo
Bảng 2.7.

Số lượng án giám đốc thẩm và tỉ lệ án giám đốc thẩm trên

120

tổng số án đã xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
Bảng 2.8.

Tình hình các loại tội phạm Tịa án đã giám đốc thẩm

121

Bảng 2.9.

Các quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm

126

Bảng 2.10.

Quyết định hủy bản án, quyết đinh đã có HLPL để điều tra

127


lại hoặc xét xử lại và quyết định giảm án của Hội đồng giám
đốc thẩm
Bảng 2.11.

Tinh hình tổn đọng án giám đốc thẩm tính theo số vụ án

130

Bảng 2.12.

Tình hình Tịa án có thẩm quyền giám đốc thẩm thực hiện

130

quy định về thời hạn giám đốc thẩm


MỞ ĐẨU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc đảm bảo tính đúng đắn của các bản án, quyết định đã có HLPL của Tịa
án là một địi hỏi thiết yếu của Nhà nước pháp quyển. Bản án, quyết định đã có
HLPL của Tịa án phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Tuy
nhiên, trong thực tiễn khơng phải mọi bản án, quyết định của Tịa án đều đảm bảo
tính đúng đắn. vẫn cịn có bản án, quyết định đã có HLPL của Tịa án có sai lầm
nghiêm trọng, địi hỏi phải có cơ chế khắc phục. Trong pháp luật tố tụng nói chung
và trong BLTTHS nói riêng đều có quy định thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã
có HLPL theo thủ tục giám đốc hoặc theo thủ tục tái thẩm.
Giám đốc thẩm trong TTHS là thủ tục Tịa án có thẩm quyền xét lại những
bản án hoặc quyết định hình sự đã có HLPL bị người có thẩm quyền kháng nghị vì

phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng
đúng đắn và thống nhất. Đây là thủ tục tố tụng quan trọng đảm bảo cho vụ án hình
sự được giải quyết đúng pháp luật. Thơng qua thủ tục giám đốc thẩm, Tịa án giữ
nguỵên hoặc hủy bỏ hiệu lực của một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định đã
có HLPL của Tịa án bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; khôi phục
tố tụng đối với vụ án khi xét thấy cần thiết để đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân. Giám đốc thẩm trong TTHS góp phần đáp ứng những
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội, củng cố
lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tịa án, góp phần đảm bảo uy tín
của cơ quan tư pháp nói chung và Tịa án nói riêng.
Những quy định pháp luật TTHS của Nhà nước ta về giám đốc thẩm đã được
hình thành từ năm 1959 và ngày càng được hoàn thiộn. BLTTHS năm 1988 là một
bước tiến lớn trong quá trình phát triển của pháp luật TTHS nói chung và chế định
giám đốc thẩm nói riêng. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành, những quy định của
BLTTHS năm 1988 về giám đốc thẩm đã bộc lộ những bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn giám đốc thẩm và cơng tác đấu tranh phịng chống tội
phạm trong tình hình mới. Trong quá trình soạn thảo BLTTHS (sửa đổi) thay cho


2

BLTTHS năm 1988, giám đốc thẩm là một trong mười vấn để lớn mà VKSNDTC
trình Quốc hội cho ý kiến về dự án BLTTHS (sửa đổi). BLTTHS năm 2003 đã có
những sửa đổi, bổ sung trong quy định về giám đốc thẩm nhưng vẫn chưa thể hiện
rõ bản chất của giám đốc thẩm và vẫn còn những vấn đề bất cập chưa được giải
quyết triệt để cần tiếp tục hoàn thiện. Mặt khác, những quy định của BLTTHS về
giám đốc thẩm cịn chưa được các cơ quan có thẩm quyền giải thích một cách đầy
đủ và thống nhất. Do những hạn chế trong quy định của pháp luật và thiếu những
hướng dẫn thi hành cần thiết của cơ quan có thẩm quyền nên vẫn cịn có các quan
điểm khác nhau về bản chất và ý nghĩa của giám đốc thẩm; sự phân biệt thủ tục

giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm chưa rõ ràng; không thống nhất trong nhận thức
và áp dụng các điều luật cụ thể về giám đốc thẩm. Ngồi ngun nhân về mặt pháp
luật, cịn những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác dẫn đến thực tiễn giám
đốc thẩm còn một số hạn chế, vướng mắc cần phải khắc phục. Vì vậy, việc nghiên
cứu thủ tục giám đốc thẩm một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn, xác định
những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn giám đốc thẩm, trên cơ sở đó tìm ra
những giải pháp nhằm khắc phục hạn chế và nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm là
vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề hoàn thiện thủ tục giám đốc
thẩm là một trong các nhiệm vụ cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết sơ'
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị vể Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định
chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng
nghị đối vói bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có HLPL; khắc phục tình trạng
kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua tra cứu website www.nlv.gov.vn của Thư viện quốc gia và website
www.luathinhsu.hoa.org.vn của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hịa, chúng tơi nhận thấy
chưa có luận án tiến sỹ nào nghiên cứu về đề tài này. Tuy nhiên, đề tài giám đốc
thẩm trong TTHS Việt Nam đã được một số tác giả trong nước nghiên cứu ở các
mức độ khác nhau. Có một số cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về giám đốc thẩm,
trong đó phải kể đến luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Trượng với đề tài Giám đốc


3

thẩm trong luật TTHS, năm 1996; cuốn sách của tác giả Đinh Văn Quế Giám đốc
thẩm, tái thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, xuất bản năm 1997;
để tài khoa học cấp Bộ của VKSNDTC Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm do Ths. Nguyễn Thị Bắc chủ biên,
năm 1997 và đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC Nâng cao hiệu quả công tác

giám đốc xét xử các vụ án hình sự do Ths. Đinh Văn Quế chủ biên, năm 2005. Qua
nghiên cứu các tài liệu trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về giám đốc thẩm
của các tác giả đã đạt được các kết quả nhất định nhưng vẫn còn nhiểu vấn đề cần
phải nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn. Trong luận văn thạc sĩ với đề tài Giám đốc
thẩm trong luật TTHS, tác giả Nguyễn Văn Trượng đã xây dựng khái niệm giám đốc
thẩm; sơ lược khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về
giám đốc thẩm từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; phân tích, đánh giá các
quy định của BLTTHS năm 1988 và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về giám đốc thẩm. Tác giả Đinh văn Quế trong cuốn sách Giám đốc thẩm, tái
thẩm về hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn đã phân tích những quy định
của BLTTHS năm 1988 về giám đốc thẩm, xác đinh một số vướng mắc trong thi

hành pháp luật về giám đốc thẩm và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về giám đốc thẩm. Đề tài khoa học cấp Bộ của VKSNDTC Nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm do Ths.
Nguyễn Thi Bắc chủ biên đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về mối quan
hệ giữa VKS và Tịa án trong xét xử hình sự; mối quan hệ giữa chức năng buộc tội,
bào chữa và xét xử trong TTHS; một số quy định của BLTTHS năm 1988 liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn giám đốc thẩm; thực trạng cơng
tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm. Các tác giả của những cơng
trình nói trên đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về giám đốc thẩm và đã có những
kiến nghị, đề xuất có giá trị về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện về giám đốc thẩm. Luận văn thạc sỹ của tác giả
Nguyễn Văn Trượng không xem xét, đánh giá về thực tiễn giám đốc thẩm và không
đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện các quy định pháp luật về giám đốc
thẩm mà chủ yếu xem xét đánh giá pháp luật và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp


4


luật về giám đốc thẩm. Cuốn sách chuyên khảo của tác giả Đinh Văn Quế đề cập rất
ít đến những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm mà nội dung chủ yếu mang tính chất
giải thích pháp luật, liên hệ những quy định của pháp luật với thực tiễn thi hành của
Tòa án để thấy những bất cập trong quy định của pháp luật và đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm. Tác giả cũng không đánh giá về
thực tiễn giám đốc thẩm và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện các quy
định pháp luật về giám đốc thẩm. Đề tài khoa học của VKSNDTC do Ths. Nguyễn
Thị Bắc chủ biên chủ yếu nghiên cứu vể vai trò của VKS trong giai đoạn giám đốc
thẩm, đề cập rất ít đến những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Tịa án trong giai đoạn này và khơng xem xét thực tiễn giám đốc thẩm của Tòa án.
Mặt khác, những cơng trình này được tiến hành trước khi ban hành BLTTHS năm
2003 nên một số phân tích về luật khơng cịn phù hợp; những kết luận về thực tiễn
giám đốc thẩm khơng cịn mang tính thời sự; một số kiến nghị quan trọng của các
tác giả nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 1988 đã
được sửa đổi, bổ sung trong BLTTHS năm 2003. Sau khi BLTTHS năm 2003 ban
hành, năm 2005, TANDTC đã có đề tài khoa học cấp Bộ Nâng cao hiệu quả cơng
tác giám đốc xét xử các vụ án hình sự do Ths. Đinh Vàn Quế chủ biên. Đây là đề tài
mang tính ứng dụng nên các tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của
BLTTHS năm 2003 về giám đốc thẩm; thực tiễn công tác giám đốc việc xét xử và
thực tiễn giám đốc thẩm ở Tòa án; thực trạng công tác kiểm sát các bản án, quyết
định vể hình sự đã có HLPL của Tịa án ở VKS; đề xuất một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác giám đốc viộc xét xử các vụ án hình sự. Trong đề tài này, các tác giả cũng không
nghiên cứu những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm.
Ngoài những nghiên cứu chuyên sâu về giám đốc thẩm trong TTHS Việt
Nam như đã trình bày, cịn có những nghiên cứu đề cập đến những vấn đề lý luận
chung hoặc nghiên cứu những đề tài khác nhưng có một số nội dung liên quan đến
đến giám đốc thẩm như cuốn Nhà nước và pháp quyền của chúng ta trong sự
nghiệp đổi mới của GS. TSKH. Đào Trí ú c (1997); cuốn Hệ thống tư pháp và cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay của Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật do



5

GS. TSKH. Đào Trí ú c chủ biên (2002); cuốn Mơ hình lý luận BLTTHS Việt Nam
của TS. Phạm Hồng Hải (2003); đề tài KX.04.06 Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án
trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do TS. ng Chu Lưu
chủ nhiệm để tài (2006); các bài viết Thẩm quyền xét xử của Tòa án của TS. Nguyễn
Văn Huyên (trong đề tài khoa học cấp cơ sở "Giai đoạn xét xử trong TTHS Việt
Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của trường Đại học Luật Hà Nội, 2003) và
bài Một số vấn đề về tái thẩm của PGS. TS. Trần Văn Độ (tạp chí Luật học, số 3,
năm 1995)... Có những nghiên cứu trực tiếp về giám đốc thẩm nhưng chỉ ỏ mức độ
đại cương như phần viết về giám đốc thẩm trong các cuốn Bình luận khoa học Bộ
luật TTHS năm 1988 của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1992) và
Bình luận khoa học Bộ luật TTHS năm 2003 do PGS. TS. Võ Khánh Vinh chủ biên
(2004); các cuốn giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội,
của Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia và của các cơ sở đào tạo khác. Ngồi ra,
cịn có những bài viết của các tác giả nghiên cứu về một vấn đề hoặc một số vấn đề
riêng lẻ của giám đốc thẩm đã được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như các bài
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003 của Ths. Đinh Văn Quế
(tạp chí TAND, số 22, năm 2004); Thẩm quyền của Tịa án có thẩm quyền giám đốc
thẩm của TS. Nguyễn Đức Mai (tạp chí TAND, số 2, năm 1994); Tiếp tục hoàn
thiện các quy định về giám đốc thẩm và tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả cơng
tác xét xử của Tịa án của TS. Nguyễn Văn Hiện (tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 4,
năm 1998); Bàn về thời điểm phát sinh HLPL của bản án sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị của Hồng Quảng Lực (tạp chí TAND, sơ' 5, năm 1997); v ề chủ thể
của quyền kháng nghị và việc bổ sung, rút kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
của Ths. Nguyễn Văn Trượng (tạp chí TAND, số 11, năm 1996)... Nhìn chung, các
nhà khoa học đã đề cập đến nhiều vấn để của giám đốc thẩm nhưng việc nghiên cứu

về giám đốc thẩm trong TTHS vẫn chưa có được sự quan tâm đúng mức; các tác giả
quan tâm đến đề tài này chủ yếu là các nhà hoạt động thực tiễn nên phần lớn những
nghiên cứu về giám đốc thẩm cũng tập trung vào việc phân tích, đánh giá luật thực


6

định, thực trạng giám đốc thẩm, nêu những bất cập, vướng mắc và để xuất hướng
giải quyết đối với từng vấn đề hoặc một số vấn đề cụ thể; những nghiên cứu mang
tính lý luận về giám đốc thẩm cịn ít; nhiều vấn đề về giám đốc thẩm còn bỏ ngỏ
hoặc cần được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn.
Về tình hình nghiên cứu đế tài giám đốc thẩm ở nước ngồi, trong phạm vi
mà chúng tơi đã nghiên cứu được, có thể đưa ra một số thơng tin: Thủ tục giám đốc
thẩm trong TTHS được đề cập nghiên cứu trong một số tài liệu tiếng nước ngoài
hoậc đã được dịch ra tiếng Việt như cuốn sưu tập chuyên đề Những vấn đề lý luận
vê' luật TTHS và tội phạm học của các tác giả Liên Xô cũ do u ỷ ban KHXH Việt
Nam, Viện thông tin KHXH xuất bản năm 1982; các tài liệu hội thảo TTHS và vai
trị của Viện cơng tố trong TTHS và Pháp luật về tổ chức Tòa án, quản lý Tòa án,
quản lý thẩm phán và cán bộ Tòa án của Nhà pháp luật Việt - Pháp; Hệ thống tư
pháp hình sự của một số nước Châu Ả, bản dịch tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm
sát, VKSNDTC; Criminal procedure của các tác giả w . R. LaFave, J. H. Israel, N.
J. Kinh; Procédure pénale của các tác giả Gaston Stefani, Georges Levaseur,
Bemard Bouloc; yzojio6Hbiủ lĩpoụecc giáo trình của Trường Đại học quốc gia
Matxcơva mang tên Lơmơnơxơp... Do có nhiều khó khăn trong viêc tiếp cận, phân
tích, đánh giá luật nước ngồi nên trong luận án này chúng tôi chỉ sử dụng một sơ
nội dung mang tính chất thơng tin khoa học.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiẽn,
luận án đề xuất những giải pháp khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn giám đốc thẩm và nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm.

Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án phải giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về giám đốc thẩm trong TTHS như bản
chất, khái niệm giám đốc thẩm; ý nghĩa của giám đốc thẩm; khái quát quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật TTHS Việt Nam về giám đốc thẩm cho đến trước
khi ban hành BLTTHS năm 2003.
- Phân tích, đánh giá những quy định pháp luật về giám đốc thẩm trong


7

BLTTHS năm 2003; phản ánh thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật TTHS
về giám đốc thẩm; xác định các hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành và tìm
hiểu nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc.
- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm hình
sự và những giải pháp khác nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn giám đốc thẩm hình sự, nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận chung về giám đốc
thẩm; pháp luật TTHS của Việt Nam và một số nước về giám đốc thẩm; thực tiễn thi
hành các quy định của pháp luật TTHS về giám đốc thẩm ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là nghiên cứu toàn diện các vấn đề về lý
luận và thực tiễn giám đốc thẩm. Tuy nhiên, do điều kiện và thời gian nghiên cứu có
hạn nên luận án tập trung vào những vấn đề sau:
- Tập trung nghiên cứu việc xét lại bản án và một sô' quyết định về nội dung
vụ án trong giai đoạn xét xử của Tịa án đã có HLPL.
- Đối với pháp luật ÍTHS Việt Nam về giám đốc thẩm, tập trung vào nghiên
cứu BLTTHS năm 2003 là Bộ luật đang có hiệu lực thi hành.
- Đối với pháp luật TTHS nước ngoài về giám đốc thẩm, tập trung vào luật
TTHS cùa Pháp và Liên bang Nga là những nước mà hệ thống pháp luật nói chung

và luật TTHS nói riêng có nhiều nét tương đồng với pháp luật Việt Nam và luật
TTHS Việt Nam ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của pháp luật những nước này.
- Thực tiễn giám đốc thẩm được xem xét trên phạm vi cả nước, trong 10 năm
từ 1996 đến 2005. Do luận án được làm trong thời gian thi hành BLTTHS năm 1988
và sau đó thi hành BLTTHS năm 2003 nên luận án có chú ý so sánh thực tiễn giám
đốc thẩm trước và sau khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành.
- Trong các giải pháp nâng cao hiệu quả giám đốc thẩm, luận án tập trung
nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về giám đốc thẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và lý luận về nhận thức của triết học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề cải


8

cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyển. Chúng tôi chú trọng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp hộ thống, phương pháp so sánh, phương pháp
chuyên gia, phương pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn khi
nghiên cứu đề tài này.
6. Những đóng góp mới của luận án về khoa học và thực tiễn
Đây là cơng trình chun khảo đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và
toàn diện về giám đốc thẩm trong TTHS.
Luận án đã làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm trong
TTHS, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, ý nghĩa của giám đốc thẩm và
nội dung của chế định giám đốc thẩm. Những vấn đề lý luận đó là cơ sở cho việc
nghiên cứu, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về giám đốc thẩm và
định hướng cho những kiến nghị của luận án.
Luận án phân tích, đánh giá lịch sử hình thành và phát triển của chế định

giám đốc thẩm trong pháp luật TTHS Việt Nam trước khi ban hành BLTTH năm
2003; nghiên cứu, chọn lọc những quy định pháp luật về giám đốc thẩm của một số
nước trên thế giới. Những nghiên cứu đó là một trong những cơ sở cho những kiến
nghị của luận án nhằm hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm.
Luận án phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật
hiện hành vể giám đốc thẩm và thực tiễn giám đốc thẩm trong những năm gần đây;
xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật về giám đốc thẩm cần phải
được hoàn thiện, những vướng mắc trong việc thi hành pháp luật cần phải khắc phục
và xác định rõ nguyên nhân của thực trạng đó.
Luận án đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 2003
nhằm hoàn thiện những quy định về giám đốc thẩm trong luật TTHS Việt Nam.
Luận án cũng đề xuất được những giải pháp toàn diện nhằm đảm bảo thực hiện
những quy định pháp luật về giám đốc thẩm. Những giải pháp mà luận án đưa ra là
có cơ sở khoa học, góp phần giải quyết những bất cập, vướng mắc hiện nay và nâng
cao hiệu quả giám đốc thẩm.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được chia làm ba chương, 8 mục.


9

CHUƠNG 1

NHỮNG VÂN ĐỂ CHUNG VỂ GIÁM Đ ố c THAM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH s ự

1.1. KHÁI NIỆM GIÁM ĐỐC THAM t r o n g T ố TỤNG HÌNH s ự
Tòa án là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện một trong các lĩnh vực
quyền lực của Nhà nước đó là quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của Tòa án hiểu theo
nghĩa chung nhất là “hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào

pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định pháp lý có
tính chất bắt buộc” [146, tr. 144]. Cụ thể hom, có thể hiểu hoạt động xét xử là “hoạt
động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về
tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi
có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau” [116, tr. 264].
Tịa án có vai trị to lớn trong việc đảm bảo sự ổn định của xã hội. Trong hoạt
động áp dụng pháp luật, Tịa án đóng vai trị hết sức quan trọng và có đặc thù riêng.
Khi xét xử, Tịa án là chủ thể có quyền xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật
của các chủ thể khác, ra bản án hoặc quyết định phán xét hành vi của các chủ thể
đó. Các bản án và quyết định này mang tính quyền lực Nhà nước sâu sắc, được Tòa
án tuyên nhân danh Nhà nước, thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với vụ án,
quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân
và những chủ thể khác. Các bản án và quyết định của Tịa án có ý nghĩa là phán
quyết cuối cùng, bản án và quyết định đã có HLPL của Tịa án có hiệu lực bắt buộc
chung đối với các bên có liên quan cũng như đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác trong xã hội.iMặt khác, hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án (hoạt động xét
xử) cịn có tính đặc thù về phương pháp áp dụng. Tòa án (cụ thể là HĐXX) áp dụng
pháp luật một cách công khai, tất cả mọi người đều có thể tham dự các phiên tịa xét
xử. Như vậy, việc Tòa án áp dụng pháp luật sẽ được sự giám sát trực tiếp không chỉ
của VKS (hoặc Viện cơng tố) mà cịn của nhân dân. Có thể nói "Tòa án là biểu hiện
tập trung nhất của quyền tư pháp - nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố,

V


10

bào chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng theo
luật định để đưa ra những phán quyết cuối cùng có tính chất quyền lực Nhà nước,
nơi phản ánh đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý" [31, tr.l]. Vì vậy,

việc xét xử cơng khai của Tịa án có ảnh hưởng rất lớn về mặt chính trị, xã hội và tác
động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật của nhân dân. Do tầm quan trọng và tính đặc
thù của hoạt động xét xử, đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, cơng bằng và đúng
pháp luật, thể hiện được ý chí, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân đối với hoạt
động xét xử của Tòa án.
Khi tiến hành xét xử, với tư cách là chủ thể áp dụng pháp luật, Tịa án khơng
được xét xử tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật, cả vể nội
dung và hình thức tố tụng. A.F. Konhi (luật gia Liên Xô cũ) đã khẳng định: “Đối với
hoạt động tư pháp, sẽ là một điều bất hạnh khi trong bản án và quyết định phụ thuộc
vào sự tuỳ tiện cá nhân” [146, tr. 168]. Nguyên tắc hoạt động xét xử phải tuân theo
pháp luật là một nguyên tắc có tính truyền thống, tồn tại trong các kiểu Nhà nước và
pháp luật khác nhau. Xixêrôn - một luật sư và là một nhà hùng biện nổi tiếng của
thời Lamã cổ đại từng nói: "Quan tịa đó là một đạo luật biết nói, cịn đạo luật là một
vị quan tòa câm” [146, tr. 170]. Nguyên tắc này đặc biệt được đề cao là ở các nước
theo truyền thống luật dân sự (hệ thống luật thành văn). Vào thế kỷ 18, khi trên thế
giới đang diễn ra các cuộc Cách mạng tư sản và sự ra đời của các Nhà nước dân chủ,
trong cuốn Tinh thần pháp luật được xuất bản vào năm 1748, Montesquieu đã phác
họa những nét cơ bản về xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền, trong đó ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau và tương tác lẫn nhau. Trong
các Nhà nước này, việc xét xử đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật. Montesquieu đã viết:
“Ở cấc nước dân chủ, có Hiến pháp hẳn hoi, phán quan cứ theo đúng lời văn trong
từng điều khoản của Hiến pháp mà xét xử” [42, tr. 75]. Một học giả nổi tiếng khác
của thời kỳ này là Cesare Beccaria trong cuốn v ề tội phạm và trừng phạt xuất bản
năm 1764 cũng đã viết: "Chỉ có pháp luật mới quy định trừng phạt tội phạm; và chỉ
có các nhà lập pháp, những người đại diện cho xã hội mới có quyền đặt ra luật hình
sự. Tội phạm và trừng phạt chỉ có thể được xác lập bởi luật do Quốc hội thông qua"
[142, tr. 2]. Đối với các nước theo hệ thống luật án lệ, việc xác định hành vi nào là


11


tội phạm dựa trên những phán quyết trước đó của Tịa án mà khơng dựa vào luật
thành văn mà dựa vào án lệ. Vì vậy, "có cảm tưởng như tội phạm trong hệ án lệ là do
các thẩm phán lôi ra từ mũ của họ để úp vào đầu kẻ bị kết tội" [50, tr. 102]. Sau đó,
những phán quyết của Tòa án được chuyển đến cộng đồng bằng con đường dân gian.
Với sự tăng nhanh dân số và tính không đổng nhất trong xã hội, các nước theo
truyền thống luật án lệ cảm thấy ngày càng khó khăn trong việc thông báo cho dân
chúng biết hành vi nào là tội phạm để họ được cảnh báo trước và biết vể các bổn
phận của họ. Chính vì vậy, "các nước thuộc hệ án lệ đã và đang chuyển dần sang
luật hình sự và luật tố tụng hình sự thành văn" [50, tr.108] và việc xét xử phải tuân
thủ pháp luật (án lệ hoặc luật thành văn) cũng là nguyên tắc được tôn trọng và đảm
bảo thực hiện. Hiện nay, trong xã hội hiện đại, nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc phổ biến không chỉ được quy định trong
luật của từng quốc gia mà tinh thần của nguyên tắc này cịn được thừa nhận chung
bởi các Cơng ước quốc tế như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyển ngày 10/12/1948
và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội
đổng Liên hiệp quốc.1 Để nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động xét xử và mối
quan hệ giữa hoạt động xét xử với pháp luật, X. X. A-lếch-xây-ép trong cuốn Pháp
luật trong cuộc sống của chúng ta đã nhận định, Tòa án trong hoạt động của mình
“được quyền đánh giá các quyền chủ thể của con người, phán quyết ở cấp cuối cùng
và phán quyết theo cách là các quyết định của nó dù chỉ liên quan đến một vụ việc
cụ thể, nhưng nó có sức manh bắt buộc như là sức manh của chính bản thân pháp
luật” [146, tr. 114].
Do tầm quan trọng của hoạt động xét xử và đặc điểm của hoạt động này nên
việc đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tịa án đúng pháp luật, đảm bảo tính hợp
pháp trong các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu được đặt ra đối với các
quốc gia trên thế giới. Yêu cầu này đặc biệt quan trọng trong TTHS, khi mà Tòa án
1 Điều 11 Tuyên ngôn th ế giới về nhân quyền: "Không ai bị coi là phạm tội về bất cứ hành động hoặc không
hành động nào đã xảy ra vào thời điểm mà theo luật quốc gia hay luật quốc tế không cấu thành một tội hình
sự. Tương tự như vậy, khơng ai bị tuyên phạt năng hơn mức hình phạt được áp dụng vào thời điểm hành vi

phạm tội dược thực hiộn"[26, tr. 23]; Điểu 14, khoản 2 Công ước quốc t ế về các quyền dân sự và chính trị:
"Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội cùa người đó được chứng
minh theo pháp luật"[26, tr. 114]


12

có quyền ra bản án hình sự, quyết định những vấn đề về TNHS, hình phạt và các
biện pháp tư pháp đối với bị cáo, đó có thể là tự do, danh dự, tài sản, nhân thân và
thậm chí cả tính mạng của con người. Việc quy định nguyên tắc xét xử vụ án theo
nhiều cấp và tổ chức Tòa án theo thứ bậc để Tịa án cấp trên có thể xem xét lại phán
quyết của Tòa án cấp dưới là một trong những giải pháp về mặt pháp luật để giải
quyết vấn đề này. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966
của Đại hội đồng Liên hiệp quốc quy định: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội
đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với
mình theo quy định của pháp luật” [26, tr. 115]. Việc xem xét lại vụ án để đảm bảo
tính chính xác trong hoạt động xét xử, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân là cần thiết. Tuy nhiên, việc giải quyết vụ án phải nhanh chóng, khơng thể
kéo q dài. Nếu trình tự tố tụng quá dài và phức tạp sẽ dẫn đến hậu quả các quan hệ
xã hội bị xâm phạm không được khôi phục kịp thời, trật tự xã hội khơng ổn định,
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân khơng được giải quyết nhanh chóng. Để
đáp ứng được cả hai yêu cầu trên, đa số các nước trên thế giới thực hiện nguyên tắc
hai cấp xét xử. Theo nguyên tắc này, pháp luật các nước quy định sau khi xét xử sơ
thẩm, bản án và quyết định sơ thẩm chưa có HLPL và chưa được đưa ra thi hành
trong một thời hạn nhất định. Bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo, cơ quan
cơng tố có quyền kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chưa có HLPL và chưa được đưa ra thi hành.
Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp trên sẽ xem xét cả về tính hợp pháp và tính có căn
cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm đồng thời xét xử lại vụ án về nội dung. Như
vậy, ngoài chức năng xét xử, phúc thẩm là một hình thức giám đốc xét xử của Tịa

án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới. Nguyên tắc hai cấp xét xử cũng có những ngoại
lộ. Một số nước cho phép đối với những vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng có thể xét
xử sơ thẩm đổng thời chung thẩm và bản án hoặc quyết định có hiệu lực thi hành
ngay (Cộng hòa Pháp). Một số nước khác (như Nhật Bản, Thái Lan) lại quy định có
hai cấp phúc thẩm trước khi bản án có HLPL. Bằng nguyên tắc hai (hoặc ba cấp xét
xử), các sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp dưới đã cơ bản được phát hiện và
khắc phục, đảm bảo tính hợp pháp của các bản án hoặc quyết định đã có HLPL.

/


13

Mặc dù đã có cơ chế để đảm bảo tính hợp pháp của các bản án hoặc quyết
định trước khi có HLPL thơng qua thủ tục phúc thẩm nhưng những bản án hoặc
quyết định này vẫn có thể khơng hợp pháp. Khả năng đó hồn tồn có thể xảy ra và
thực tế cũng đã chứng minh điều đó và địi hỏi phải có cơ chế giải quyết. Tuy nhiên,
việc xét lại các bản án và quyết định đã có HLPL nói chung và xét lại về việc
phương diện pháp luật nói riêng khơng phải là một thủ tục có tính truyền thống lâu
đời của TTHS. Trong xã hội phong kiến với kiểu Nhà nước quân chủ chuyên chế,
mặc dù đặt ra nhiều cấp xét xử nhưng khi án đã thành thì khơng xét lại. Một ngun
tắc đã được thừa nhận từ thời La Mã cổ đại “một việc đã xử xong rồi thì được coi là
chân lý, khơng thể xử lại” [45, tr. 22]. Do những hạn chế khách quan và chủ quan
trong việc nghiên cứu, rất khó để khẳng định được chính xác thời điểm cũng như
quốc gia nào đầu tiên quy định thủ tục xét lại các bản án đã có HLPL. Theo các tác
giả w . R. LaFave, J. H. Israel, N. J. King, thủ tục có ý nghĩa như tiển thân cho thủ

tục xét lại bản án đã có HLPL đã được xuất hiện từ thế kỷ 13 ở các nước thuộc hệ
thống luật dân sự. Thủ tục này du nhập vào Mỹ từ năm 1789 và được quy định bởi
một đạo luật tư pháp nhưng cịn rất hạn chế, chỉ đến khi có sửa đổi bởi đạo luật được

Quốc hội Mỹ thông qua vào năm 1867, lần đầu tiên có quy định chính thức về thẩm
quyền của TATC Liên bang có quyền xét lại các bản án của Tịa án các bang nếu có
vi phạm hiến pháp và pháp luật liên bang [148, tr. 1292, 1293]. Các tác giả Michel
Troper và Christophe Grzegocyk khi trình bày về hệ thống Tịa án của Pháp có viết
rằng, vào thời gian bắt đầu của nền Cộng hoà thứ ba (1870 - 1945), hệ thống Tòa án
Pháp chia làm hai hệ thống: Tịa án hành chính và Tịa án thường (Tòa án tư pháp),
đứng đầu hệ thống Tòa án tư pháp là Tòa phá án [149, tr. 103]. Tác giả Jean Claude
Ricci trong cuốn Nhập mơn luật học có trình bày rõ hơn về vấn đề này như sau:
Những nét chính trong cách tổ chức hệ thống tư pháp của Pháp đã
được ấn định trong đạo luật năm 1790. Kể từ đó, mặc dù có rất nhiều cải
cách, đặc biệt là những cải cách trong luật năm 1810, mô hình tổ chức vẫn
khơng hề thay đổi. Hệ thống Tịa án tư pháp là một hình chóp bao gồm hai bộ
phận: ngạch dân sự và ngạch hình sự; hai ngạch này được tổ chức theo chiều
dọc giống nhau (Tòa sơ thẩm, Tòa phúc thẩm, Tòa phá án) [35, tr. 114].


14

Hiộn nay, trên thế giới, quan điểm của các nhà khoa học pháp lý đối với vấn
đề xét lại bản án đã có HLPL khơng giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Tác giả
Tadevasian trong cuốn v ề vấn đề xác định chân lý vật chất trong TTHS Xô-viết đưa
ra quan điểm: “Để đảm bảo uy tín của mình, để duy trì trật tự xã hội, bảo đảm tính
ổn định cho các quyết định của Nhà nước, Nhà nước phải tuyên bô rằng các quyết
định, các bản án khi đã có hiệu lực thì sẽ là chân lý, có tính bắt buộc đối với tất cả
mọi người mà không cần phải kiểm tra hay phủ định” [121, tr. 114]. Ngược lại với
quan điểm trên, Barry Hager (Trung tâm Mansield về các vấn đề Thái bình dương)
lại cho rằng cần phải có cơ chế để xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL và
coi đó là một trong những yêu cầu tối thiểu của một Nhà nước pháp quyền: “Khi cơ
quan tư pháp thực hiện một hành động, một công dân phải được quyền kháng cáo;
nếu quyền kháng cáo đến cấp cao nhất đã hết, phải có một cơ chế nào đó để có thể

có một luật mới có hiệu lực cao hơn luật hiộn có theo cách giải thích và áp dụng của
Tịa án” [65, tr. 200]. Khơng chỉ từ góc độ quan điểm khoa học, pháp luật tố tụng
của các quốc gia trên thế giới hiện nay quy định về vấn đề này cũng không giống
nhau. Qua nghiên cứu BLTTHS của một số nước và những tài liệu khác có liên
quan, có thể thấy những quy định khác nhau về vấn đề này như sau:
- Có những quốc gia không đặt vấn đề xem xét lại các bản án hoặc quyết định
đã có HLPL. Tuy nhiên, ở các nước này vẫn có quy định về việc xem xét lại vấn đề
áp dụng pháp luật nhưng được tiến hành trước khi bản án hoặc quyết định có HLPL.
Ví dụ, luật TTHS Philippines quy định "khi bản án trở thành chính thức (có HLPL),
khơng một Tịa án nào được phép điều chỉnh cho dù có sai sót" [141, tr. 267].
Nhưng trước khi án có HLPL, bị cáo có thể kháng án để yêu cầu xem xét lại cả về
vấn đề sự thật và luật lệ. Khi hình phạt là tử hình thì bản án phải được tự động
chuyển lên TATC cho dù bị cáo có kháng cáo hay không [141, tr. 269]; luật TTHS
Thái Lan cũng quy định thủ tục phúc thẩm Dika được tiến hành khi có vi phạm pháp
luật trong việc xét xử nhưng được tiến hành khi bản án, quyết định chưa có HLPL
[139, tr. 58].
- Có những nơi đã từng quy định việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có
HLPL nhưng hiện nay đã xoá bỏ như Tây úc. Điều 704 BLTTHS Tây ú c quy định:


15

“Nay bãi bỏ thủ tục kháng nghị của Tòa án cấp trên đối với những bản án hoặc
quyết định đã có HLPL của Tịa án cấp dưới” [138, tr. 64].
- Có quốc gia quy định chỉ có một thủ tục để xét lại đối với bản án hoặc
quyết định đã có HLPL kể cả về vấn đề áp dụng pháp luật và cả vấn đề tình tiết mới
như ở Mỹ [148] và Đức (tham khảo ý kiến của TS. Hoàng Thị Minh Sơn, trường Đại
học Luật Hà Nội).
- Một số nước phân biệt hai thủ tục khác nhau: thủ tục xét lại các bản án hoặc
quyết định đã có HLPL khi có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án và thủ tục

xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL khi phát hiện tình tiết mới như Pháp
[45], Nhật Bản [137], Hàn Quốc [143], Nga [144].
- Có nước chỉ quy định thủ tục giám đốc thẩm mà không quy định thủ tục tái
thẩm như Đan Mạch [73, tr. 26], Trung Quốc [44]. Ngược lại, có nước chỉ xét lại
bản án hoặc quyết định đã có HLPL khi xuất hiộn tình tiết mới (tái thẩm) như Na Uy
(tham khảo ý kiến của ơng Iver Huitíeldt, thẩm phán Tòa phúc thẩm Borgarting,
Nonvay trong buổi gặp mặt, trao đổi với giáo viên Khoa Luật hình sự ngày 25-32005 tại trường Đại học Luật Hà Nội).
Tại các quốc gia có quy định về thủ tục xét lại các bản án hoặc quyết định đã
có HLPL khi có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án thì tên gọi thủ tục này
cũng khác nhau. Có nước dùng thuật ngữ giám đốc thẩm do thủ tục này là một hình
thức giám sát và đơn đốc của Tịa án cấp trên vói Tịa án cấp dưới, có nước dùng
thuật ngữ kháng án đặc biệt do hình thức kháng án để làm phát sinh thủ tục này
khơng phải là hình thức kháng án thông thường mà là kháng án sau khi án đã có
HLPL, có nước dùng thuật ngữ thủ tục bổ sung, có nước lại dùng thuật ngữ thủ tục
phá án dựa vào đặc điểm về quyền hạn của Tòa án cấp này. Giải thích cho cách gọi
này, PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Luật Hiến pháp đối chiếu đã viết:
Để cho chắc chắn hơn trong việc áp dụng pháp luật, nhiều quốc gia
đặt thêm một Tòa án ở trên Tòa thượng thẩm để xét lại việc áp dụng pháp luật
của Tòa án cấp dưới. Tòa này sẽ xem xét và quyết định bản án của Tòa án
cấp dưới đã xử là đúng hay sai, nếu sai thì Tịa giám đốc tuyên huỷ bản án đã
xử và cho xử lại và nếu đúng thì cho y án. Chính vì vậy mà Tòa giám đốc


16

thẩm còn được gọi là Tòa phá án. Nhờ thẩm quyển giám đốc thẩm, Tịa phá
án duy trì được sự áp dụng pháp luật thống nhất trong toàn quốc [10, tr. 269].
Điển hình cho mơ hình thành lập Tịa phá án trong hệ thống Tịa án là Pháp.
Ngồi ra cịn một số các nước khác ở châu Âu lục địa cũng quy định vế Tịa phá án
như Anbanie, Cộng hồ Sec, Bulgari [147, tr. 37, 47, 59], Italia (Tòa phá án ở Italia

cũng chỉ xem xét những vấn đề về luật và các thủ tục, không xem xét đến sự việc)
[149, tr. 142]. Ngồi mơ hình Tịa phá án, ở các nước khác, việc xét lại các bản án
đã có HLPL thường là chức năng của Tòa án tối cao như Anh, Mỹ [154, tr. 455].
Tóm lại, thủ tục xét lại những bản án đã có HLPL để khắc phục những sai
lầm trong hoạt động xét xử bằng hình thức này hoặc hình thức khác có thể tìm thấy
trong thực tế tư pháp hình sự của các quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, chế định này
không phải ở mọi nơi, mọi lúc đều được gọi giống nhau và những quy định cụ thể
của chế định này cũng có nhiều điểm khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào hệ
thống pháp luật, truyền thống pháp luật, mơ hình tư pháp hình sự và hình thức tơ'
tụng trong từng thời kỳ phát triển khác nhau của mỗi một quốc gia.
Về khái niộm giám đốc thẩm: Theo Từ điển Pháp - Việt, “cassation” là danh
từ có nghĩa là “sự phá án” [117, ừ. 175]. Trong Từ điển Anh - Việt, “cassation” cũng
là danh từ có nghĩa là “sự huỷ bỏ” [118, tr. 246]. Trong tiếng Nga, thủ tục này được
gọi là "Ha^3opHaa HHCTaHLỉHa”, trong đó từ “Ha,a3op”có nghĩa là “theo dõi, kiểm tra,

giám sát, kiểm sát” và từ “HHCTaHiỊHH” có nghĩa là “cấp, bậc” [36, tr. 335, 481]. Theo
Từ điển Hán - Việt, từ “giám đốc thẩm” khơng có trong từ điển mà phải ghép nghĩa của
hai từ: “ giám đốc” có nghĩa là “xem xét và sai khiến”, “thẩm” có nghĩa là “khảo xét kỹ
càng, biết rõ tình hình, xử đoán” [1, tr. 323, 380]. Trong Từ điển tiếng Việt giải nghĩa
từ “giám đốc" “ là “giám sát và đôn đốc”, từ “thẩm” là “xét kỹ” [119, tr. 374, 890].
Qua việc tìm nghĩa từ trong một số từ điển, có thể thấy rằng, rất khó để có thể tìm ra
một nghĩa chung trong các từ nói trên: Thứ nhất vì lý do các từ không đổng nghĩa
với nhau; Thứ hai, trong trường hợp không phải là từ đơn mà lại là từ ghép thì trong
từ điển khơng có nghĩa ngun của từ ghép đó mà phải ghép nghĩa của từng từ, mà
từng từ đơn có nhiều nghĩa khác nhau nên cách hiểu từ ghép cũng có thể có nhiều
cách hiểu khác nhau - đây cũng là khó khăn của chúng tôi khi tiếp cận khái niệm này.


17


Tuy nhiên, qua nghiên cứu thủ tục giám đốc thẩm được quy định trong BLTTHS của
các nước và các tài liệu khoa học pháp lý, chúng tơi nhận thấy đó chỉ là sự khác
nhau trong việc sử dụng thuật ngữ để chỉ cùng một đối tượng nhận thức đó là thủ tục
xét lại các bản án hoặc quyết định đã có HLPL bị kháng án vì phát hiện vi phạm
pháp luật trong xử lý vụ án (xét lại về phương diện pháp luật).
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, một sô' tác giả đã đưa ra những khái niệm
khác nhau vể giám đốc thẩm. Có thể nêu một số quan điểm như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Giám đốc thẩm là một giai đoạn tố tụng có mục đích
kiểm tra tính hợp pháp và tính có cãn cứ của các bản án và quyết định đã có HLPL
[34, tr. 288].
y Quan điểm thứ hai: Giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, trong đó Tịa án
cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án nhằm khắc phục sai lầm của
Tòa án cấp dưới, bảo đảm viộc áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã
hội, quyển và lợi ích hợp pháp của người bị kết án, những người tham gia tố tụng và
của công dân [109, tr. 23].
y Quan điểm thứ ba: Thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của tố
tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có HLPL bị kháng nghị vì
có vi phạm pháp luật ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án [43, tr. 14].
- Quan điểm thứ tư: Giám đốc thẩm là một cấp xem xét các vụ việc theo
kháng nghị đối với những quyết định, bản án đã có HLPL [153, tr. 385].
- Quan điểm thứ năm: Giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra tính
hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án [116, tr. 734].
Các khái niệm trên rất khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi khái
niệm cũng rộng hẹp khác nhau, tính khoa học và phù hợp thực tiễn của các khái
niệm cũng ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong các quan điểm trên vẫn
thống nhất với nhau ở một số điểm cơ bản, xác định giám đốc thẩm có tính chất đặc
biệt, đó là việc xem xét lại bản án hoặc quyết định đã có HLPL bị kháng nghị để
kiểm tra tính hợp pháp trong các bản án và quyết định của Tòa án.
Quan điểm thứ nhất và thứ hai đều xem xét giám đốc thẩm dưới góc độ là



18

một giai đoạn tố tụng. Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất cịn đơn giản, chỉ đề cập đến
mục đích của giám đốc thẩm mà chưa đề cập đến những dấu hiệu đặc trưng khác
của giám đốc thẩm. Quan điểm thứ hai bao quát đầy đủ hơn về những dấu hiệu đặc
trưng của giám đốc thẩm cả về căn cứ phát sinh, đối tượng, thẩm quyền, thủ tục,
mục đích của giám đốc thẩm. Tuy vậy, quan điểm này vẫn không phản ánh đúng
bản chất của giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có HLPL mà khơng
phải là xét lại vụ án như tác giả đã viết. Mặt khác, quan điểm này xác định thẩm
quyền giám đốc thẩm thuộc vể Tòa án cấp trên trực tiếp chỉ trên cơ sở quy định của
BLÌTHS năm 1988, khơng hồn tồn phù hợp với quy định hiện nay của luật TTHS
Việt Nam (theo quy định tại khoản 4 Điều 279 BLTTHS năm 2003, nếu những bản
án hoặc quyết định đã có HLPL về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám
đốc thẩm của các cấp khác nhau thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm tồn
bộ vụ án). Mặt khác, theo chúng tôi, khi tiếp cận khái niộm giám đốc thẩm dưới góc
độ là một giai đoạn tố tụng cần phải làm rõ những dấu hiệu đặc trưng để xác định đó
là một giai đoạn tố tụng và phân biệt giai đoạn này với giai đoạn khác. Đó là những
dấu hiệu về cơ sở phát sinh, nhiệm vụ, phạm vi chủ thể, quan hệ tố tụng, hoạt động
tố tụng và những quyết định tô' tụng đăc trưng của giai đoạn đó. Các quan điểm thứ
nhất và thứ hai chưa làm rõ được tất cả những dấu hiệu nói trên.
Quan điểm thứ ba xác định thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt
của tơ' tụng tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có HLPL nhưng bị
kháng nghị vì có vi phạm pháp luật ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án. Quan điểm này ngắn gọn nhưng đã bao hàm được một số đặc trưng cơ bản nhất
của giám đốc thẩm. Tuy nhiên, trong tố tụng, trình tự được hiểu là trật tự các giai
đoạn tố tụng hình sự trong quá trình tố tụng, "là sự sắp xếp lần lượt, thứ tự trước
sau" [119, tr. 1001]. Vì vậy, việc coi giám đốc thẩm là một trình tự là chưa hợp lý vì
giám đốc thẩm chỉ là một thủ tục, một bước trong trình tự tố tụng.

Quan điểm thứ tư xác định giám đốc thẩm là một cấp xem xét các vụ việc
theo kháng nghị đối với những quyết định, bản án đã có HLPL. Quan điểm này
khơng xem xét giám đốc thẩm trong trình tự giải quyết vụ án mà xem xét dưới góc
độ tổ chức và hoạt động của Tòa án, coi giám đốc thẩm là một cấp trong hệ thống


19

Tịa án có nhiệm vụ xem xét các bản án, quyết định đã có HLPL. Quan điểm này
quá ngắn gọn nên không phản ánh hết những dấu hiệu đặc trưng của giám đốc thẩm.
Quan điểm thứ năm xác định giám đốc thẩm là hình thức đặc thù để kiểm tra
tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định, bản án của Tòa án. Quan điểm này
chỉ xem xét giám đốc thẩm dưới góc độ là một hình thức đặc thù của Tòa án trong
cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật do Tòa án thực hiện. Vì vậy, quan
điểm này chủ yếu đề cập đến mục đích của giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp hiến
và hợp pháp của các bản án và quyết định đã có HLPL của Tịa án mà khơng đề cập
đến các dấu hiệu khác của giám đốc thẩm.
Ngoài ra, nếu xem xét dưới góc độ hình thức pháp luật, giám đốc thẩm là một
bộ phận của hệ thống pháp luật nói chung và của ngành luật TTHS nói riêng. Giám
đốc thẩm là một chế định pháp luật gồm tổng hợp những quy phạm pháp luật điéu
chỉnh những quan hệ phát sinh trong q trình Tịa án xét lại những bản án, quyết
định có HLPL khi phát hiộn có vi phạm pháp luật nghiêm trong quá trình giải quyết
vụ án. Chế định này có những đặc điểm riêng nhưng khơng tổn tại một cách biệt lập
mà có liên hệ thống nhất với những chế định pháp luật khác trong hệ thống pháp
luật nói chung và ngành luật TTHS nói riêng.
Trong luận án này, chúng tôi tiếp cận giám đốc thẩm dưới góc độ là một thủ
tục tố tụng trong TTHS. .
Theo Logic học, khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy, trong đó phản ánh
các dấu hiệu khác biệt cơ bản của sự vật riêng biệt hay lớp sự vật hiện tượng nhất
định [25, tr. 50]. Những dấu hiệu được phản ánh trong khái niệm là những đặc điểm,

đặc trưng, tính chất hay thuộc tính và các quan hệ của đối tượng, nhờ đó nhận thức
được đối tượng và so sánh nó với các đối tượng khác. Để nắm được bản chất giám
đốc thẩm, từ đó hình thành khái niộm giám đốc thẩm trong dưới góc độ tiếp cận là
thủ tục tố tụng trong TTHS, theo chúng tôi cần xác định những dấu hiệu đặc trưng
sau đây:
- Đối tượng giám đốc thẩm;
- Mục đích giám đốc thẩm;
- Cơ sở phát sinh giám đốc thẩm;


×