Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nguyễn Thị Liên*
lê' giới đang bước vào một thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ,
<i>'một cơn đau đẻ"</i> râ't dữ dội, một cuộc đâu tranh rất quyết liệt
giữa cái cũ và cái mói. Đó là sự chuyển tiếp mang tính tồn cầu từ <i>xã</i>
<i>hội cơng nghiệp</i> sang <i>xã hội trí tuệ,</i> gắn liền với vân đề hiện đại hoá xã
hội. Trong những cuộc chạy đua về khoa học - công nghệ trong thế
giới hiện nay, khi mà tri thức không chỉ là sức mạnh (F.Bacon), mà
còn là động lực cho sự phát triển sản xuâ't và xã hội nói chung, thì
khoa học chính là chiếc chìa khố để mở cánh cửa ở đinh cao nhất,
chinh phục thế giới ở kỷ nguyên này.
Các vân đề cách mạng khoa học, công nghệ, kỹ thuật được đề cập
chủ yếu vào thời kỳ cận - hiện đại, kể từ thế kỷ XVII cho đến nay. Để
hiểu được những lý thuyết khoa học vĩ đại có được như ngày nay,
chứng ta không thể không quay trờ về với các giai đoạn trước đó với tư
cách là những tiền đề cho sự ra đòi của chúng. Đặc biệt, trở về với
những mầm mông của chúng trong thời kỳ cổ đại ở Hy Lạp - La Mã
được ví như "cái nôi" của của nền văn minh phương Tây.
Vấn đề đặt ra trong bài viết này là: Từ thời kỳ Hy Lạp cổ đại,
phong cách tư duy khoa học đã được hình thành như thế nào?
K hoa học là m ộ t h iện tư ợn g x ã hội, có m ầm m ô n g từ rất s ớ m trong
lịch sử xã hội loài người. Một trong những tiển đề của nó là có sự phân
cơng lao động thành lao động chân tay và lao động trí óc, từ đó hình
thành m ột lớp n gư ời ch u y ên lao đ ộ n g trí óc.
<b>Sự </b><i><b>hình thành phong cách tư duy </b><b>khoa học trong thời kỳ...</b></i>
Đ ã có râ't n h iều cách hiểu k h ác nhau v ề thuật n g ữ này. A risto tle
c h o rằng, "k h o a h ọ c ...là sự xác định đơì tư ợ n g " (M . M . R ôđ en tan , 1986 :
8 ) ; H egel lại kh ẳng định:
<i>Khoa học biêu hiện như là một vịng trịn đóng k í n mà phần cuôĩ được</i>
<i>ghép nơi với phần đầu của vịng trịn, căn cứ đơn giản</i>, <i>bằng cách trung</i>
<i>gian hóa, và lại, vịng trịn này đồng thời cũng là một vòng trong của các</i>
<i>vòng tròn...Những vòng khâu của dây chuyền này thể hiện những "môn</i>
<i>khoa học riêng biệt".</i>
(V. I. L ênin, 1 9 8 1 :2 5 2 - 2 5 3 )
C ác nhà triết h ọ c sau K .M arx vẫn tiếp tục đưa ra các ý k iê n kh ác
n h a u . T u y vậy, n h iều ý k iến th ô n g n h ất ở lu ận điểm ch o rằng, k h o a h ọ c
n h ư là m ộ t trong n h ữ n g h ìn h thái ý thức x ã hội. Đ ư ơ n g nh iên , v ó i tính
c á c h là m ột hình thái ý thứ c xã hội, khoa học phải là sự p h ản án h tồ n tại
x ã hội. S ự phản ánh ây lu ô n lu ôn chân thự c, đúng đắn v à k h ách qu an .
Sự phát triển của nền khoa học H y Lạp mang nhiều nét đặc thù. N hu
cầu thực tiễn của nền sản xuất thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương
n g h iệ p và hàng hải ở H y L ạp cổ đại đòi hỏi sự phát sinh và phát triển của
n h ữ n g tri thức về thiên văn, khí tượng, tốn học và vật lý học. C h ín h sự
x u ấ t hiện các tri thức khoa học sơ khai (phát m inh ra lịch; n hữ ng p h át kiến
v ề toán học của Talet; Pitago; hình h ọc của O clit; vật lý h ọc của A csim et...)
đ ã trở thành điều kiện và tiền đ ề cơ bản cho sự hình thành triê't h ọc tự
nh iên . Khoa học lúc đó chưa p hát triển và chưa có sự p h ân ngành. C ác nhà
triế t học đổng thời là các n h à toán học, vật lý học, thiên văn học.
Đ ặc thù của nh ận thức khoa học là ở chỗ: nó khơng chỉ p h ản án h các
sự vật, các thuộc tính và các chứ c năng vôn có của chúng trên cơ sở cách
x á c định và thực tiễn của chủ th ể <i>mà</i>hơn thê' <i>nhận thức khoa học còn là hình</i>
<i>thức phản ánh vượt trước hay sự phát triêh vượt trước về mặt tư tưởng.</i>
<i><b>N guyễn Thị Liên</b></i>
thực tiễn này được xác định không chỉ bởi các quy luật khách quan của
sự biến đổi các đổỉ tượng tự nhiên, mà còn bởi phương thức đặc thù của
con người để đưa các đơì tượng đó vào thực tiễn. Đó là phương thức
nhận thức các đối tượng, tương ứng vói đặc thù của sự cải biến thực
tiễn chúng. Cịn lơgíc riêng của các đơì tượng thế giới bên ngồi chính
là tổng thể các quy luật khách quan của sự biến đổi. Chúng vốn không
chỉ được vạch ra <i>nhờ</i> sự cải biến thực tiễn các đơì tượng, <i>thơng qua lăng</i>
<i>kính thực tiễn con người</i>, mà tự thân cịn có thể làm phương tiện nhận
thức hiện thực khách quan.
Phương thức công nghệ sản xuất tri thức khoa học vói tư cách là sự
phản ánh lơgíc riêng của thế giới bên ngồi, khác với phương thức sản
xuất tri thức thực tiễn vốn đổng thòi cũng là phương thức sản xuất các
sự vật. Nếu tri thức thực tiễn về các sự vật chi được vạch thảo trong tiến
trình sản xuất chính các sự vật, <i>chỉ nhờ vào sự sản xỉ chính các sự vật</i>,
thì tri thức khoa học về các sự vật được thực hiện bằng phương thức
không gắn liền trực tiếp vói phương thức sản xuất các sự vật. Sự sản
xuất các quan niệm khoa học về các sự vật diễn ra trên cơ sở tính khách
quan và tính đặc thù của các sự vật, tương đơì độc lập với phương thức
cải biến "sản xuâ't - thực tiễn", "thực nghiệm - thực tiễn".
Trong q trình đó, x't hiện phong cách nhận thức khoa học đầu
tiên ờ cấp độ lý luận, cho phép hệ thơng hóa tồn bộ nội dung của nhận
<i>Các hình thức và phương pháp của tư duy đúng đắn thì mãi đến cì thời</i>
<i>cổ đại mới được nghiên cứu và tông kết bước đầu (điền hình là</i>
<i>Aristotle). . .Các thao tác tư duy được sử dụng nhiều ở thời kỳ này thiên</i>
<i>vế tôhg hợp, trìm tượng hóa, khái qt hóa</i>,, <i>tạo thành phong cách tư duy</i>
<i>tông hợp"</i>
<i><b>S ự hỉnh thành phong cách tư duy </b><b>khoa học trong thời kỳ...</b></i>
Hay
<i>Các lý thuyết khoa học thời cố Hỵ Lạp tuy cịn thơ sơ nhưng đều mang</i>
<i>tính chất duy vật tự phát. Các triết gia và các nhà bác học cô1 Hy Lạp,</i>
<i>người thì giải thích vủ trụ bằng nước, người thì bằng lửa,, người thì bằng</i>
<i>nguyên tử</i>, <i>nhưng đều ỉẵy vật chất đ ể giải thích vật châĩ, mà khơng căn</i>
<i>dùng đến thần linh</i>, <i>tôn giáo"</i>
(Đ in h Ngọc Lân, 1976 : 19 - 20).
Khiếm khuyết cơ bản của hệ thống sơ khai này là ở chỗ, <i>các khái</i>
<i>niệm trừu tượng thuẫn túy</i> đã được sừ dụng ở quy mô quá lón. Hệ
thống tri thức lý luận sơ khai đẩu tiên trong lịch sừ là kết quả của sự
phân chia các nội dung tri thức khoa học ra các thành phần chuyên
biệt của chúng ở phương diện nhận thức luận vói tính cách các hình
thức, các phương pháp, các cơ sở lơgíc và các nguyên tắc của tư duy
<i><b>Nguỵến Thị Liên</b></i>
thuộc râ't ít vào hoạt động thực tiễn, bởi vì nó không phải chịu áp lục từ
các nhu cầu thực tiên.
Tóm lại, vào thời đại Aristotle, hệ thống tri thức lý luận đầu tiên
trong lịch sử khoa học đã được thiết lập. Tuy vậy, sự phản ánh đó ở
phương diện lý luận chỉ liên quan đến <i>tự nhiên và những dấu âh thực tiễn</i>
<i>xã hội của nó,</i> tức là chi liên quan đên một phân khúc của thế giói vật
châ't với tư cách là khách thể của sự cải biên sản xuâ't - thực tiễn, hoàn
toàn tách biệt với hoạt động thực tiễn của con người.
Tòa nhà khoa học đầu tiên trong lịch sừ (hệ thông tri thức trừu
tượng) Hy Lạp cổ đại đã được xây cất. Phong cách tư duy lý luận đầu
tiên trong lịch sử đã hình thành. Đó là <i>phong cách tư biện triết học tự</i>
<i>nhiên đặc thù.</i> Nó là một sự hình dung mang tính duy lý, giả thuyết -
diễn dịch nhưng vẫn ở mức độ đáng kể lại là sự hình dung ngẫu hứng -
logic, tư biện về bức tranh thế giói.
Sự xác lập phong cách tư duy đó có thể được coi là <i>cuộc cách mạng</i>
<i>khoa học sơ khai đẫu tiên của lịch sử nhân loại</i> mà bản chất của nó là sự
hình thành những hình thức, phương pháp, các cơ sở nhận thức luận
lơgíc, những ngun tắc đầu tiên của tư duy lý luận và sự hệ thơng hóa
tồn bộ tri thức khoa học đã được tích lũy.
Những quan niệm mang tính triết học tự nhiên, lơgíc - tư biện
về thế giói và những phương pháp tư duy lý luận của Hy Lạp cô đại
thường mang lại một bức tranh sai lệch về hiện thực. Tuy nhiên, phong
cách tư duy khoa học đầu tiên ây có thể đảm bảo những khả năng phản
ánh vượt trước nhất định có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho những tìm
tịi cho tồn bộ sự phát triển khoa học và kỹ thuật sau này.
<b>Sự </b><i><b>hình thành phong cách tư duy khoa học trong thời kỳ...</b></i>
khách thể không chi của nhận thức thực tiễn, mà là của nhận thức lý luận
nhờ phong cách tư duy khoa học riêng được hình thành.
Trên thực tế, trong khi chỉ phản ánh thế giới vĩ mô được cải biến
bởi thực tiễn, khoa học Hy Lạp cổ đại đã có khả năng thực hiện phát
kiến giả thiết mang tính lơgíc về thế giói vi mơ, chẳng hạn về nguyên tử
được coi là những phần tử nhỏ cấu tạo nên thế giói. Đây là phát kiến có
ý nghĩa trung tâm to lớn đơì vói sự phát triển tiếp theo của khoa học.
N g a y ở thời kỳ H y L ạp cổ đại đó đã xuâ't h iện n h iều cách đ ặt v ân đ ề
quan trọng, làm tiền đề cho sự hình thành và phát triển của khoa học
thực nghiệm sau này, đặc biệt là khoa học thực nghiệm trong thời kỳ
cận đại. Thế kỷ XVIII có thể coi là thế kỷ hoàn tất sự hình thành của
khoa học thực nghiệm.
Như vậy, trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, phương thức tư duy duy lý,
<i><b>Nguyễn Thị Liên</b></i>
<i>quan lãnh đạo.. .</i> Báo cáo chính trị tại Đại hội IX xác định: <i>"Con đường</i>
<i>CNH - HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi</i>
<i>trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy</i>
<i>những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ</i>
<i>tiên tiêh, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ừng</i>
<i>dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phô’biêh hơn những thành tựu</i>
<i>mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức".</i> Đây
cũng chính là luận điểm mà bài viết mong muốn chia sẻ và được khẳng
định liên quan đến tầm quan trọng của khoa học và tư duy khoa học
mà những mầm mống của nó được nảy nở ngay từ thời kỳ cổ đại, sau
khi con người thoát thai khỏi thế giới động vật và khẳng định mình
trong thế giới../.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Đinh Ngọc Lân, 1976, <i>Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thê'kỷ 20,</i>
NXB. Phổ thơng.
2. V. I. Lêrtin, 1981: <i>Tồn tập,</i> tập 29, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva.
3. GS. PTS. Lê Hữu Nghĩa, PTS. Phạm Duy Hải, 1998, <i>Tư duy khoa</i>
<i>học trong giai đoạn cách mạng khoa học - cơng nghệ,</i> NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
4.