Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay: thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.69 MB, 86 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRƯỜNG ĐAI HỌC KHOA HỌC</b>
<b>XÃ HỘI VÀ NHÂN VÃN</b>


<b>VIỆN TRIẾT HỌC</b>


<b>BÙI THI HỒN</b>


<b>PHÂN HỐ GIÀU - NGHÈO</b>


<b>Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: T H ự C TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP</b>


<b>Chuyên</b>
<b>Mã số:</b>


<b>LUẬN VÃN THẠC s ĩ TRIÊT HỌC</b>


<b>Người hướng dẫn khoa học:</b>
<b>PGS.TS. Đặng Hữu Toàn</b>
<b>ngành: Triết học</b>


<b>60 22 80</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>T ô i x in c a m đ o a n đ â y là cơ n g trìn h n g h iê n cứ u c ủ a riên g tôi.</i>
<i>N ộ i d u n g và cá c tríc h d ẫ n nêu tro n g lu ậ n văn có n g u ồ n g ố c r ỗ ràng</i>
<i>và tru n g thực.</i>


<b>TÁC GIẢ LUẬN VĂN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Trang


<b>MỎ ĐẦU </b> <b>1</b>



<b>Chương 1. </b> <b>8</b>


<b>THỰC CHẤT CIÍA Sự PHẢN HỐ GIÀU- NGHÈO VÀ THựC</b>
<b>TRẠNG PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO ở NƯỚC TA HIỆN NAY</b>


1.1. Thực chất của sự phàn hoá giàu- nghèo 8


1.2. Thực trạng và nguyên nhàn của sự phân hoá giàu - nghèo ở


nước ta hiện nay 21


<i>1.2.1. Những biểu hiện của sự phân hoá giàu- nghèo và tác động của nó</i>


<i>ở nước ta hiện nay</i> 21


7.2.2. <i>Nguyên nhân của sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay</i> 35


<i>/</i>
<b>Chương 2</b>


<b>NHỮNG VẤN ĐỂ ĐẶT RA TỪ s ự PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO</b>
<b>VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO</b>


Ở NƯỚC TA H IỆN NAY 49


2.1. Những vấn đề đặt ra từ sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện


nay " 49



2.2. Một số giải pháp khắc phục sự phân hoá giàu- nghèo ở nước ta


hiện nay 54


2.2.7. <i>Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hốnơng nghiệp</i>, <i>nơng thơn</i> 55


<i>2.2.2. Hồn thiện và thực hiện tốt chính sách xã hội</i> 60


<i>2.2.3. Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ chun</i>


<i>mơn cho người lao động</i> 70


<i>2.2.4. Tăng cườìig vai t r i quản lý của nhà nước và hệ thống pháp luật</i> 73


<b>KÊT LUẬN </b> <b>77</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>


Trong lịch sử nhân loại chưa có thời gian ngắn nào lại tập trung nhiều sự
biến đổi to lớn, đa dạng, phức tạp và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống cúa các
dân tộc và vận mệnh của các quốc gia như hiện nay. Những thay đổi sâu sắc,
rộng lớn về chính trị và xã hội đã quy định chiều hướng phát triển của loài người
trong thời đại ngày nay. Cùng với những mâu thuẫn trên thế giới hiện vẫn đang
tồn tại và phát triển, hiện tượng phân hoá giàu- nghèo với tư cách một vấn đề
mang ý nghĩa kinh tế - xã hội cũng đang trở thành hiện tượng phổ biến, phức tạp
ở hầu hết các nước. Nó là một trong những thách thức lớn mà mỗi quốc gia phải
đối mặt. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau,
tình trạng phân hố giàu - nghèo luôn mang những sắc thái và biểu hiện khác
nhau thể hiện cả mặt tích cực cũng như tiêu cực đối với sự phát triển của xã hội.



Đối với nước ta hiện nay, tình trạng phân hố giàu- nghèo cũng đang là
một thách thức lớn mà chúng ta phải giải quyết. Nội dung và hình thức biểu
hiện của nó đã có nhiều nét mới và có mặt sãu sắc hơn. Chính vì vậy mà yêu
cầu đặt ra cho chúng ta phải xem xét, giải quyết hiện tượng này như thê' nào
để phù hợp với thực tiễn, với quy luật phát triển khách quan của tiến trình đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Chúng ta đều biết, hàng ngàn năm qua, ước mơ của nhân loại nói chung,
của dân tộc ta nói riêng là có một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, mọi
người đều được cơng bằng, bình đẳng trong mọi quan hệ xã hội, trong lao động
và hưởng thụ. Trong tiến trình xây dựng đất nước ở mọi giai đoạn, chúng ta
ln đặt mục đích này lên trên tất cả. Vì thế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu là phấn
đấu xây dựng nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

hình kinh tế - xã hội nước ta đã có nhữns bước phát triển mới, toàn diện hơn.
Kinh tế tăng trưởng khá cao và ổn định, năm sau cao hơn năm trước. Các hoạt
động sản xuất và dịch vụ đều phát triển và tăng trường cao. Song, bên cạnh đó,
một bộ phận dân cư vẫn đang phải chịu cảnh thiếu thốn, chưa đảm bảo được
những điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Sự phân hoá giàu- nghèo vẫn đang
diễn ra và trở thành vấn đề được cả cộng đồng xã hội quan tâm. Tinh trạng
“chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là 11 lần, hệ số chênh
lệch về mức sống giữa đô thị và nông thôn từ 5- 7 lần"[ 10, tr. 18]'*’.


Phân hoá giàu- nghèo là hiện tượng có tính hai mặt: bên cạnh mặt tích
cực, liên quan đến sự phân cơng lao động và có nhiều người lao động làm giàu
hợp pháp, góp phần giúp đỡ người nghèo, cịn có mặt tiêu cực, liên quan đến
bất bình đẳng xã hội, mà nếu để nó diễn ra một cách tự phát trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta thì sẽ dễ dẫn đến những bất ổn định trong sự phát triển
không chỉ về kinh tế, văn hoá, xã hội mà cả lĩnh vực chính trị, thậm chí cịn


dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng
quát mà chúng ta đã xác định trong thời kì quá độ lên chú nghĩa xã hội. Song,
kinh tế thị trường lại làm cho một số bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng,
cịn một bộ phận khác lại có xu hướng lâm vào tình trạn s thiếu tư liệu sản
xuất, rơi vào hồn cảnh khó khăn. Hiện tượng phân hoá giàu - nghèo này
đang có xu hướng tăng lên không chỉ ở các thành phố lớn, thị xã, mà cả ở
những vùng nông thôn và miền núi. Biểu hiện rõ nhất của nó được thể hiện
qua sự chênh lệch về thu nhập, về mức sống giữa các vùna, các nhóm dân
cư, giữa nông thôn và thành thị, giữa các ngành nghề, thậm chí cả trong
nội bộ vùng... Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có những cơng trình nghiên
círu khoa học trên nhiều phương diện khác nhau để luận giải hiện tượng này
nhằm tìm ra phương hướng khắc phục những ảnh hường tiêu cực của nó
trong sự phát triển của đất nước. Vì vậy, làm rõ thực chất của <i>sự phân hoá</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>giàu - nghèo trong nền kinh t ế thị trường ở nước ta hiện nay,</i> từ góc độ triết
học, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, tìm ra các hướng đi,
giải pháp cụ thể, phù hợp nhằm ngăn chặn, khắc phục kịp thời ảnh hưởng
tiêu cực của nó, giữ vững định hướng xã hội chú nghĩa là việc làm vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Với quan niệm đó, chúng
tơi chọn vấn đề <i>“Phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay: Thực trạng</i>
<i>và giải pháp"</i> làm đề tài nghiên cứu.


<b>2. Tình hình nghiên cứu đề tài</b>


Vấn đề phân hoá giàu - nghèo đã được nhiều nhà lí luận có uy tín, nhiều
chuyên gia xã hội học quan tâm tìm hiểu và luận giải trên nhiều góc độ khác
nhau.



Trước hết, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu đã tập trung tìm
hiểu phân hố giàu - nghèo ở các nước trong khu vực để rút ra kinh nghiệm
nhằm khắc phục sự phân hoá giàu - nghèo ở Việt Nam. Tiêu biểu cho
hướng nghiên cứu này có: <i>“Phăn hố giàu- nghèo ỏ một s ố quốc gia khu</i>
<i>vực Châu Á- Thái Bình Dương"</i> do tác giả Dương Phú Hiệp và Vũ Văn Hà
chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, năm 1988. Trong cơng trình này,
các tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phàn hoá
giàu nghèo, xu hướng, nguyên nhân và những chính sách để giải quyết tình
trạng này ở các nước trong khu vực chãu Á- Thái Bình Dương [xem : 26].


Tiếp sau là công trình <i>“Cơ cấu xã hội và sự phân tầng xã hội",</i> Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, năm 1998 của Nguyễn Đình Tấn đã phàn tích một
cách có hệ thống về cơ cấu xã hội - phân tầng xã hội, đưa ra khái niệm và cách
tiếp cận cơ cấu xã hội, các thành tô' cấu thành cơ cấu xã hội, các phân hệ xã
hội và cách quản lí xã hội [54].


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đồng đối với các hộ nghèo [56]. Tiếp đến là cơng trình" <i>Kinh t ế thị trường vù</i>
<i>sự phân hoú giàu- nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta</i> (1999)
cúa Lê Du Phong và Hoàng Văn Hoa đã phân tích ảnh hưởng tiêu cực của nền
kinh tế thị trường đối với sự phân tầng xã hội và phàn hoá giàu - n^hèo ở các
vùng dàn tộc và miền núi phía Bắc nước ta [47].


Trong cơng trình <i>“Giải quyết vấn đề phản hoủ giàu nghèo ở các nước</i>
<i>và Việt Nam "</i>, Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2000, tập thể tác giả Lê Du
Phong, Hoàng Vãn Hoa, Nguyễn Văn Áng đã dựa trên cơ sớ nghiên cứu thực
trạng, các chính sách hạn chế sự phân hóa giàu nghèo ở một số nước trên thế
giới và thực tiễn ờ nước ta trong những năm gần đây để đưa ra những giải
pháp khoa học nhằm góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dàn chủ, văn minh [48].



Đề cập tới thực trạng phân tầng mức sống và tác động cúa chuyển đổi
cơ cấu lao độn£ nghề nghiệp tới phản tầng mức sống cùng những nhân tô' ảnh
hưởng ở vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng được thể hiện trong cơng trình
“T<i>ác động của chuyển đổi cơ cấu lao động nghê nghiệp xã hội đến phân tầng</i>
<i>mức sống</i>"do Đỗ Thiên Kính (chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm
1999 [31].


Trong cơng trình <i>“Phân hoá giàu - nghèo và tác động của yếu tố học</i>
<i>vấn đến nâng cao mức sống cho người dán Việt Nam"( qua hai cuộc điều tra</i>
<i>mức sống dân cư Việt Nam năm 1993, 1998),</i> Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
năm 2003, tác giả Đỏ Thiên Kính đã tập trung làm sáng tỏ nhận thức về thực
trạnơ phân hoá giàu - nghèo ở Việt Nam và chỉ ra vai trị của yếu tơ' học vấn
trong việc nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam nhằm khắc phục phân
hoá giàu - nghèo và thực hiện công bằng xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế [
32].


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

bàn đến trong bài viết này mới chí được xem xét trong mối quan hệ với nhũng
giá trị đạo đức [21].


Ngoài ra, còn nhiều tác giả khác cũng đề cập đến vấn đề này, nhimg chi
tập trung vào vấn đề nghèo, khảng định yêu cầu cấp thiết của việc xố đói
giảm nghèo, như tác giả Nguyễn Thị Hằng trong cơng trình <i>“Vấn đề xố đói</i>
<i>giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay",</i> xuất bản năm 1997, tác giả Trần
Thị Hằng trong cơng trình “ <i>Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh t ế thị trường ở</i>
<i>Việt Nam hiện nay</i>", xuất bản 2001.


Các cơng trình nêu trên đều tiếp cận và dựa trên những số liệu khác
nhau, có những phương pháp sử dụng mẫu điều tra khác nhau, cho nên việc
nhận thức và phàn loại phân hoá giàu- nghèo chưa có sự thống nhất. Các cơng
trình nghiên cứu tình trạng phân hoá giàu - nghèo trong nền kinh tế thị trường


định hướng xã hội chủ nghĩa từ góc độ triết học, có thể nói, cịn rất ít. Những
năm gần đây, thực trạng phân hoá giàu - nghèo cũng đã có sự thay đổi, địi hỏi
phải có sự bổ sung và tìm ra những giải pháp phù hợp với sự biến đổi của
thực trạng đó. Việc nghiên cứu nó từ góc độ triết học, theo chúng tôi, là phù
hợp để xác định hướng giải quyết có hiệu quả, kịp thời tình trạng phân hố
giàu - nghèo ở nước ta hiện nay.


<b>3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn</b>


Mục đích của luận vãn là, từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, làm rõ thực chất của sự phân hóa giàu- nghèo để từ đó luận giải những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phân hố giàu- nghèo ở nước ta hiện nay và
đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng này.


Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Luận giải những nguyên nhàn dẫn đến tình trạng phân hố giàu-
nghèo ờ nước hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế sự phân hố
giàu- nghèo đó.


<b>4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn</b>


Có thể nói, cơ chế thị trường được áp dụng vào thực tiễn nước ta đã
mang lại sự biến đổi lớn trong thu nhập của người dân, nhưng nó cũng làm
cho khoảng cách phân hoá giàu - nghèo của các bộ phận dân cư, nhất là mấy
năm gần đây, ngày càng tăng. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng
tơi khơng có điều kiện để tìm hiểu được toàn bộ thực trạng phân hoá giàu-
nghèo từ trước tới nay hay đi sâu vào từng vùng, từng địa bàn, từng bộ phận
dân cư trên cả nước, mà chỉ có thể tìm hiểu thực trạng đó một cách tổng quát
dựa vào những số liệu thống kê có được qua kết quả của các cuộc điều tra,


khảo sát ở một sơ' thành phố, tính thành trong thời gian gần đây mà một số
cơng trình khoa học đã công bố.


<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu</b>


Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận văn là triết học Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề này. Luận văn cũng kế thừa và sứ dụng kết quả nghiên cứu của các
cơng trình nghiên cứu khoa học mà các tác giả đi trước đã thực hiện.


Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp phàn tích và so
sánh, tổng hợp, kết hợp hệ thống hoá, khái quát hoá, sử dụng tư liệu điều tra
xã hội học, sử dụng quan điểm toàn diện và phát triển,V . V ..


<b>6. Đóng góp mói của luận văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận vãn</b>


Các kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về triết học xã hội, cho các cơ quan, tổ
chức có liên quan đến việc nghiên cứu và giải quyết vấn đề phân hoá giàu-
nghèo ở nước ta hiện nay.


<b>8. Kết câu của luận văn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

C h ư ư n g 1


<b>THỰC CHẤT CỦA S ự PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO VÀ</b>


<b>THỰC TRẠNG PHÂN HOÁ GIÀU - NGHÈO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY</b>



<b>1.1. Thực chất của sự phân hố giàu-nghèo</b>


Phàn hóa giàu - nghèo là hiện tượng xã hội phổ biến kê từ khi xã hội
loài người có sự phân chia giai cấp cho đến nay. Giờ đây, trong kỷ nguyên
toàn cầu hố và đơ thị hoá đang ngày càng phát triển, xã hội loài người nói
chung khá sung mãn về đời sống vật chất và có nhu cầu cao về đời sống văn
hoá, tinh thần, nhưng bên cạnh đó, vẫn phải đối mặt với đói nghèo và vấn đề
phân hoá giàu- nghèo đang ngày càng trở nên bức xúc đối với cả cộng đồng
nhân loại. Khoảng cách về đời sống và chất lượng sống giữa người giàu và
người nghèo ngày càng cách xa. Vấn đề này không chi tổn tại ở những nước
nghèo mà còn ở cả những nước phát triển. Ví dụ ở Mỹ- một nước giàu nhất thế
giới, người giàu chỉ chiếm 0,5% dân số, song họ lại chiếm tới 45% tài sản
quốc gia, họ có 96% cổ phiếu và trái phiếu trên toàn nước Mỹ. Được thừa
nhận là nước giàu, nhimg ở nước Mỹ, người nghèo thất nghiệp vẫn chiếm 16%
tổng dân sơ' (dữ liệu 1995), trong đó người da đen chiếm 40%; 35 triệu người
sống dưới mức nghèo khổ theo chuẩn định của Liên Hợp Quốc (thu nhập 2
đôla/ người/ngày); khoảng 10 triệu người vô gia cư và ở đây hàng loạt nhữno
tệ nạn xã hội khác vẫn thườns xuyên diễn ra [Xem: <i>20.</i> tr.50-51].


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

ở nước ta hiện nay, khái niệm giàu- nghèo cũng chi mang ý nghĩa
tương đối. ở những nơi giàu có, một người dù có xe máy, có nhà đẹp vẫn có
thể thuộc lớp người có thu nhập thấp và vất vả vật lộn với cuộc sống( vì họ có
thể vay tiền để mua). Nhưng ở một nơi nghèo khó khác, họ lại có thể được coi
là người giàu. Giàu- nghèo là tên gọi cụ thể ở thang bậc khác nhau của cuộc
sống . Mặt khác, hiện tượng giàu- nghèo bao giờ cũng là một hiện tượng xã
hội phức tạp, bao gồm nhiều nhân tố: giàu-nghèo về kinh tế, giàu- nghèo về
văn hoá, giàu-nghèo về kiến thức, giàu- nghèo về sức khoẻ,... Để giải quyết
vấn đề phân hoá giàu - nghèo trong xã hội đương đại, chúng ta cần giải quyết
vấn đề giàu- nghèo ớ góc độ kinh tế (thu nhập thực tế trong hộ gia đình). Vì


thu nhập thực tế phản ánh mức sống, mức sinh hoạt và có liên quan đến việc
chi tiêu, đến phong cách sống, kế mưu sinh,... của mỗi gia đình, mỗi người
dân. Tuy nhiên, giàu - nghèo ở đây chỉ được xác định một cách tương đối, vì
ln có sự biến động về tỷ lệ và khoảng cách giàu - nghèo theo thời gian.
Theo tác giả Nguyễn văn Tiêm, để xác định hộ giàu ở nông thôn nước ta(
1992) cần căn cứ vào mức thu nhập tính bình quân 1 nhàn khẩu/1 năm, và
tham khảo các tiêu chuẩn khác như: các tiện nghi phục vụ đời sống vật chất và
tinh thần của các thành viên trong gia đình ( nhà ở, đồ dùng trong nhà); mức chi
tiêu đời sống vật chất tinh thần của chủ hộ; mức tích luỹ hàng năm của hộ. Mặc
dù theo cách tính này con số cụ thể còn chưa cập nhật, nhưng theo cách xác định
hộ giàu này cũng được nhiều nhà khoa học chấp nhận [Xem: 56]. Hơn nữa, tiêu
chuẩn xác định giàu - nghèo cũng thường không thống nhất và không nhất quán
giữa các quan niệm khác nhau. Việc khảo sát thu nhập, mức sống của người giàu
là rất khó, vì những người giàu thường che giấu của cải, mức thu nhập. Theo đó,
chuẩn giàu là rất khó xác định. Vì vậy, có thể dùng chuẩn nghèo để phân biệt
giàu - nghèo trong xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

việc xem xét các diện mạo khác nhau về giàu - nghèo nói chung, rmười ta
thường kết hợp với các yếu tố cải thiện cuộc sống như chi cho ăn uống, học
hành, y tế, sức khoẻ, nhà ở,...


Vậy, người nghèo là người như thế nào? Theo UNDP, sự nghèo khổ của
con người là thiếu những quyền cơ bản như biết đọc, biết viết và được nuôi
dưỡng tạm đủ. Từ quan niệm này, người ta xem xét sự nghèo khổ của con
người từ các góc độ như nghèo về tiền tệ, nghèo khổ cực độ, nghèo khổ chung,
nghèo tương đối, nghèo tuyệt đối.


Định nghĩa chung nhất về người nghèo do Hội nghị chống nghèo đói ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan vào tháng
9/1993 đưa ra là: <i>“Nghèo là rình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng</i>


<i>và rhod mãn những nhu cầu cơ bẩn của con người, mà những nhu cầu này đã</i>
<i>được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh t ế và phong tục tập</i>
<i>quán của địa phương"[23</i>, tr.26J. Như vậy, theo cách xác định này, người
nghèo ở các nước khác nhau sẽ có mức thu nhập khơng giống nhau.


Ớ Việt Nam ta, Tổng cục Thống kê dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo
đầu người để tính tỷ lệ nghèo. Tổng cục Thống kê xác định ngưỡng nghèo dựa
trên chi phí cho một giỏ tiêu dùng bao gồm lương thực và phi lương thực,
trong đó chi tiêu cho lương thực phải đảm bảo 2100 calo mỗi ngày cho một
người. Các hộ được coi là thuộc diện nghèo nếu mức thu nhập và chi tiêu
không đú để đảm bảo giỏ tiêu dùng này. Các ngưỡng nghèo và khống nghèo
được Tổng cục thống kê và Ngân hàng thế giới thống nhất công nhận là
[Xem: I, tr.6]:


Chi tiêu bình quãn đ áu người hàn g năm


1993(nghln đổng, tính vào thời điểm
th án g 1-1993)


1998(nghìn đ ổ n g , tính vào thời
đ iềm th án g 1-1998)


Ngưỡng nghèo vé lirơns


(hục Ihực pham 750 1287(92 USD)


Ngưỡng nghèo ch ung 1 160 1 7SS( 128 USD)


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

nhập tính theo thời gian đủ để mua lương thực, thực phẩm thiết yếu đám bảo
khẩu phần ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng bình quân một người một ngày


là 2100 calo. Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm tính theo thu nhập bình
quân một người một tháng qua các năm [Xem: 3, cập nhật 15/4/2005]:


<b>1999(nghìn đồng)</b> <b>2002(nghìn đổng)</b> <b>2004 (nghìn đồng)</b>


<b>Nơng thơn</b> <b>112</b> <b>115</b> <b>124</b>


<b>Thành thị</b> <b>146</b> <b>150</b> <b>163</b>


Những hộ có mức thu nhập bình quàn nhân khẩu dưới chuẩn trên thuộc
diện hộ nghèo. Như vậy, tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm từ nãm 1999 đến
năm 2004 tuy đã giảm trên phạm vi cả nước, nhưng ở các vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ, Đơng Bắc thì tỷ lệ này còn cao hơn tỷ lệ chung của cả
nước.


Tỷ lệ nghèo chung được tính theo chuẩn nghèo thống nhất với chuẩn
nghèo do Ngàn hàng thế giới đưa ra bao gồm chi tiêu của dân cư về các mặt
hàng lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo khẩu phần ăn được duy trì với
nhiệt lượng tiêu dùng bình quân một người một ngày là 2100 calo, cộng thêm
một lượng hàng hoá thiết yếu phi lương thực, thực phẩm. Chuẩn nghèo chung
tính theo chi tiêu bình quân một người một tháng chung cho cả hai khu vực
thành thị, nông thôn năm 1998 là 149 nghìn đồng; 2002 là 160 nghìn đồng;
2004 là 178 nghìn đồng. Những người có mức chi tiêu bình quân một tháng
dưới chuẩn trên được coi là nghèo. Tỷ lệ nghèo chung từ năm 1998 đến năm
2004 đã giảm nhưng vẫn còn cao ở các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Bắc [Xem: 3, cập nhạt 15/4/20051 ■


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, trong vòng 5 năm gần đãy, tỷ lệ
nghèo đói ở Việt Nam đã giảm đáng kể, từ 19% năm 1996 xuống còn 11%
năm 2000. Trong khi đó, theo cách tính của Ngân hàng thế giới dựa trên số


liệu điều tra mức sống năm 1993, 1998 và áp dụng chuẩn nghèo chung, thì tỷ
lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998 [
Xem: 8, tr.67-68].


Theo tiêu chí mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra vào năm
1997( trong Thông báo số 175/LĐ- XH ngày 20/5/1997) thì hộ đói là hộ có
thu nhập bình quân đầu người 1 tháng quy ra gạo dưới 13 kg (hay 45000đ) đối
với mọi vùng; hộ nghèo là hộ có thu nhập bình qn đầu người một tháng quy
ra gạo dưới 15 kg (hay 55000đ) đối với nông thôn miền núi, hải đảo; dưới 20
kg( hay 70000đ) đối với nông thôn đồng bằns, trung du; dưới 25kg (hay
90000đ) đối với thành thị. Theo tiêu chí này, nãm 1999 cả nước có 13,03% số
hộ nghèo [xem: 28. trl8J.


Theo Quyết định 1143/2000/LĐTBXH ngày 1/1/2000 của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội thì hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người
một tháng dưới 80.000 ĐVN (hay 960 ĐVN/người/năm) ở khu vực miền núi,
hải đảo; dưới 100.000 ĐVN (hay 1.200.000 ĐVN/ người/ năm) ở nông thôn
đồng bằng; dưới 150.000 ĐVN (hay 1.800.000 ĐVN/ người/năm) ở thành thị.
Theo tiêu chí này, đầu năm 2001 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ
khoảngl7,8% tổng số hộ trên cả nước [xem: 9, tr. 11 ].


Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội nước ta còn đưa ra chuẩn nghèo
tính theo thu nhập cho giai đoạn 2001- 2005 là: Vùng đô thị là 150 ngàn
VNĐ/ tháng/người (1,8 triệu đồng/năm/người). Vùng nông thôn đồng bằng là
100 ngàn VNĐ/ tháng/ người (1,2 triệu đồng/ người/ năm). Vùng nông thôn
miền núi là 80 ngàn VNĐ/tháng/ người (0,69 triệu đồng/năm/người).


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

người một tháng từ 260.000 đồng trở xuống. Theo chuẩn nghèo này, ước tính
cuối năm 2005 cả nước có khoảng 4,6 triệu hộ nghèo, chiếm 26-27% số hộ
tồn quốc.



Với những tiêu chí trên, có thể nói khi bàn tới nghèo đói, người ta
thường ngụ ý chỉ sự thiếu thốn về những nhu cầu cần thiết cho sinh tồn. Người
nghèo là người có mức sống dưới mức trung bình của cộng động. Trong đó,
khái niệm nghèo dựa trên thu nhập đã cho thấy sự đa dạng của tình trạnơ
nghèo đ ó i.


Vậy, thực chất của sự phân hoá giàu - nghèo là gì? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta cần phải xem xét mối quan hệ của nó với vấn đề phán tầng xã hội.


Trong các xã hội có giai cấp, phân tầng xã hội là hiện tượng tất yếu và
luôn gắn liền với bất bình đẳng xã hội. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã
hội được xem là hệ quả tất yếu của nhau. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
trên thế giới hiện nay cho thấy, phân tầng xã hội, phân hoá giàu- nghèo là vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp. Do vậy, bản thân sự phân hoá giàu- nghèo cũng
phải được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

phàn phối quyền lực được thể chế hố, cịn nguồn gốc cứa sự phân chia giai
cấp gắn liền với sự phân chia giữa những người có sở hữu và người khơng có
sở hữu. M.Vâybơ cịn khhảng định rằng, khi xem xét vấn đề phân tầng xã hội,
cần phải chú ý đến cả sự hình thành các nhóm xã hội trên cơ sở của sự tín
nhiệm, bởi các nhóm xã hội này được xác nhận không phái bởi vị trí của họ
trong sản xuất, mà chính là bởi lối sống của họ. Theo ơng, bản thân người có
tư liệu sản xuất chưa hẳn đã là người có quyền lực và uy tín, mà có thể do
nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như giáo dục, trình độ vãn hố,.. Coi thị trường
cũng là một trong những nguyên nhân đđu tiên dẫn đến bất bình đẳng xã hội
hơn, M. Vâybơ cho rằng trong nền kinh tế thị trường, vấn đề tiếp cận thị trường
là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến số phận các cá nhân, vì khả năng tiếp cận
thị trường của mỗi người là không giống nhau. Ngoài yếu tố tài sản, các nhân
tố tự nhiên, bẩm sinh, nhân tô' xã hội tác động đến khả năng tiếp cận này, mỗi


người đều có sự khác nhau về năng lực, trí tuệ và do vậy, khả năng tiếp cận thị
trường của họ cũng khác nhau. Những sự không đồng đều này là nguồn gốc tự
nhiên đầu tiên của sự bất bình đẳng xã hội và của sự phàn hoá giàu- nghèo
[xem: 48, tr.8].


Tổng hợp các quan niệm khác nhau về phân tầng xã hội, một sổ nhà
nghiên cứu xã hội học ở nước ta đã đưa ra một quan niệm về phân tầng xã hội
như sau: “Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của mọi xã
hội loài người, trừ những tổ chức xã hội sơ khai (thời kì đầu cúa xã hội công
xã nguyên thuỷ). Phân tầng xã hội là sự phân chia, sự sắp xếp các thành viên
trong xã hội thành các tầng xã hội khác nhau. Đó là sự khác nhau về địa vị
kinh tế hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín
cũng như khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp, phong cách sinh
hoạt, cách ăn mặc, kiểu nhà ở, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, trình độ tiêu
dùng,v.v."[54, tr.7].


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Từ đó, C.Mác khảng định, có thể phân chia các tầng lớp xã hội trong xã hội tư
bản thành giai cấp vô sản và giai cấp tư sản dựa trên cơ sở nền tảng là mối
quan hệ của họ với tư liệu sản xuất.


Theo C.Mác, sở hữu tư liệu sản xuất hay quyền sớ hữu tài sản là cái
đóng vai trò quyết định trong sự phân chia xã hội thành các giai cấp và các
tầng lớp khác nhau. Chính quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất là cơ sở, là yếu
tô' quyết định quan hệ phân phối và từ đó, dẫn đến sự khác biệt về thu nhập,
làm cho xã hội phân hoá thành nsười giàu, người nghèo. Do vậy, để xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, khắc phục sự phân hoá giàu - nghèo nói riêng,
phân tầng xã hội nói chung cần thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất [xem: 48, tr.7]. Trong tác phẩm <i>Bản thảo kinh t ế - triết học năm</i>
<i>1844,</i> C.Mác đã khẳng định chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất là cơ sò xã hội của mọi sự tha hoá và sự tha hoá này là nguyên


nhân dẫn tới phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Từ đó, C.Mác cho rằng, việc
xoá bỏ chế độ tư hữu này là tiền đề cơ bản cho việc xoá bỏ mọi sự tha hoá, cho
sự nghiệp xây dựng một chế độ xã hội mới khơng cịn tha hố, cho sự nghiệp


<i>“giải phóng cơng nhãn</i>", “ giải phóng tồn thể lồi người"[36? tr. 168, 143]
Tiếp thu tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ rõ, nguồn gốc phát sinh
giai cấp, phàn tầng xã hội trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định là do
mối quan hệ khác nhau đối với tư liệu sản xuất; phân hoá xã hội là do con
người có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất nhất định, có vai trò
khác nhau trong tổ chức lao động xã hội và có sự khác nhau về phương thức
và quy mô thu nhập trong xã hội [ xem: 33, Ir. 17-181.


Như vậy, có thể nói cả V.I.Lênin và M.Vâybơ đều cho rằng, phân tầng
xã hội, một mặt, gắn với bất bình đẳng xã hội; mặt khác gắn với phân công lao
động xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

thái động, là quá trình mà một xã hội nào đó từ trạng thái tương đối thuần nhất
ban đđu chuyển dđn sang thành những nhóm khác nhau, trái ngược nhau về lợi
ích, mức sống, và các định hướng về giá trị" "[54, tr.80]. Sản phám của phân
hoá giàu- nghèo chính là phân cực xã hội, xã hội chia làm hai nhóm nằm ớ
hai cực của một trạng thái xung đột và mâu thuẫn xã hội, và do vậy những cá
nhân và các nhóm xã hội buộc phải lựa chọn chỗ đứng hoạc bị sắp xếp vào
cực này hay cực kia của xã hội.


Phân hoá giàu- nghèo và phàn tầng xã hội có liên quan nhau nhưng
không đồng nhất. Bởi lẽ, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là đặc trưng chủ
yếu của phân hoá giàu- nghèo, phàn chia giai cấp mà theo đó, những đặc trưng
khác như vai trò tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm, quyền thống trị hay bị
trị, sự chiếm đoạt hay bị chiếm đoạt tài sản...cũng được hình thành. Còn phân
tầng xã hội không chỉ được đặc trưng bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,


mà cịn có liên quan tới địa vị kinh tế và những yếu tố khác như thu nhập, tài
sản, mức độ tiêu dùng, quyền lực chính trị, uy tín xã hội..., từ đó dẫn đến sự
khác nhau hay giống nhau về hoàn cảnh xã hội giữa những người trong cùng
một giai cấp, và giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau.


Chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ảngghen sáng lập đã khẳng
định: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất quyết định
sự vận động và phát triển của xã hội nói chung. Vì vậy, nếu phân tích đến
cùng thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chính là nhân tổ cốt lõi của vấn đề
phân chia tài sản, địa vị trong kinh tế của một giai cấp nhất định. Chính C.Mác
đã coi “chế độ sở hữu đó là nguyên nhân của hiện tượng phân hoá giàu -
nghèo trong xã hội mà giai cấp vô sản - những người đã bị chế độ sở hữu đó
biến thành nhĩms người vơ sản- có sứ mệnh phải xoá bỏ sự phân hố đó" [57.
tr. 212|.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Phân tầng xã hội trong xã hội đẳng cấp thể hiện ở ranh giới giữa các tầng lớp
xã hội và được duy trì một cách nghiêm ngặt, địa vị của mỗi người được ấn
định ngay từ đầu, bị quy định ngay lúc mới sinh bởi nguồn gốc, dòng dõi của
cha mẹ mình. Điển hình cho kiểu phân tầng này là ở Ân Độ trước đây. ở nước
ta cũng có hiện tượng này trong thời kì phong kiến, nó được biểu hiện qua câu
ca dao “ Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa". Phân tầng xã
hội trong xã hội có giai cấp là hiện tượng phổ biến trên thế giới hiện nay. Theo
kiểu phàn tầng này thì địa vị của con người trong xã hội chủ yếu phụ thuộc
vào địa vị cúa họ trong nền kinh tế; ngoài ra, địa vị của các cá nhân trong xã
hội còn phụ thuộc trực tiếp vào nghề nghiệp và thu nhập của họ [xem: 54,
tr.82].


ở Mỹ, người ta sắp xếp các thành viên trong xã hội thành những giai
cấp khác nhau trên cơ sở thu nhập và nghề nghiệp của họ. Đa sô' các nhà xã
hội học đều thừa nhận ở Mỹ có các giai cấp sau: Giai cấp thượng lưu (1% ->


3% dân số), trung lưu lớp trên(10 ->15%), trung lưu lớp dưới (30 -> 35%),
giai cấp lao động (40 -> 45%), giai cấp hạ lưu (20 -> 25%).


ở Việt Nam, từ thời kì dựng nước Văn Lang - Âu Lạc đến thời kì đầu
độc lập (thế kỉ X), xã hội vẫn thuộc loại hình <i>cơng xã nơng thơn</i> (hay còn gọi
là phương thức sản xuất châu Á) xã hội Việt Nam khi đó bao gồm 3 tầng lớp
chính: Tầng lớp thống trị (quý tộc, quan lại và một sô' hào trưởng); tầng lơp
nông dàn công xã (đây là nhóm người giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu
trong xã hội, họ có nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước thông qua tầng lớp
thống trị ở công xã và là những người tương đối' tự do); tầng lớp nơ tỳ (nhóm
người phục vụ trong các gia đình quý tộc, hào trưởng) [xem: 32, tr.21- 24].


Vào thời kì phong kiến, từ thế kỉ XI-XV, bức tranh toàn cảnh của sự
phân tầng xã hội ở Việt nam gồm 2 mảng chính là vua - quan và bình dân.
Vua quan là đẳng cấp bên trên, cầm quyền và thống trị. Đại bộ phận còn lại là
đảng cấp bình dân bị trị ở bẽn dưới (họ vừa là thần dàn vừa là những người bị
bóc lột). Đó là những người làm ruộng nơi làng xã và nộp tô thuế, là nông dân
tiểu tư hữu và địa chủ bình dàn là thríthíi r n n» và thương nhân.


P i a i Ũ n r ' ẽ i n<i>f ị ( r -</i> í a i A U À M(~1I


<b>ĐẠI HỢỌ </b>

<i><b>ouăẽ</b></i>

<b> ©IA HÀ NỌI</b>


<b>TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Từ thế kỉ XVI đến giữa XIX (1858), bức tranh toàn cảnh của sự phán
tầng xã hội ở Việt Nam được nhìn nhận theo hai góc độ cơ cấu là <i>giai cấp</i> và


<i>đẳng cấp,</i> bao gồm:



Xét theo cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam khi đó thì giai cấp
phong kiến (địa chủ) và nông dân là 2 giai cấp trung tâm của xã hội. Còn xét
theo cơ cấu đảng cấp (tiêu chuẩn để phàn biệt đẳng cấp là sự kết hợp các yếu
tố về chức tước, tuổi tác và địa vị) thì ở nơng thơn có 3 đắng cấp chính: quan
viên (quan lại văn võ, nho sĩ), dân chính cư (dân đinh) và dân ngụ cư; cịn ở đơ
thị được phân chia thành tầng lớp quan liêu (vua quan thuộc triều đình trung
ương và chính quyền địa phương), thợ thủ công- thương nhàn (bộ phận đông
đảo và là đẳng cấp bị trị) và nho sĩ.


Như vậy, các cơ cấu giai tầng (giai cấp và tầng lớp ) trong xã hội Việt
Nam ở thời kì phong kiến ln có sự đan xen và chồng chéo nhau, thể hiện
tính đa chiều rất rõ. Sự phàn chia các cơ cấu này dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau: chức tước, địa vị, quyền lực, tài sản, nghề nghiệp, tuổi tác, học vấn.
Những tiêu chí này, xét đến cùng, cũng đều do quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất quyết định.


Trong xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc (1858 - 1945), cơ cấu giai tầng
xã hội cũ vẫn giữ nguyên và xuất hiện thêm một số tầng lớp mới là giai cấp
công nhân và giai cấp tiểu tư sản dân tộc (nho sĩ và trí thức mới). Như vậy, bổ
sung vào tính đa chiều trong phân tầng xã hội ở giai đoạn trước, trong thời kỳ
này đã xuất hiện thêm chiều cạnh phân tầng xã hội theo lý thuyết giai cấp cúa
C.Mác. Sự bổ sung đó đã làm cho tính đa chiều trong phân tầng xã hội ở Việt
Nam ngày càng phức tạp thêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

cấp thời kỳ này là chế độ công hữu duy nhất. Đa số dãn cư trong các giai tầng
xã hội đều sống trong tình trạng nghèo đói, mặc dù vẫn có sự chênh lệch mức
sống vật chất giữa các tầng lớp, nhưng sự chênh lệch đó khơng lớn. Kết cấu
hình thức này được xây dựng theo lý thuyết hướng tới một xã hội không còn
giai cấp (chủ nghĩa cộng sản). Như vậy, chiều cạnh phân tầng xã hội theo lý
thuyết giai cấp của các nhà sáng lập Mác- Lênin là cái giữ địa vị thống trị


tuyệt đối.


Có thể nói, khi đất nước ta chưa bước vào thời kỳ đổi mới, xã hội Việt
Nam là một xã hội nông nghiệp trồng lúa nước, nơng nghiệp ln đóng vai trò
cơ sở của nền kinh tế quốc dân, gia đình nơng dân là tế bào, là đơn vị nền tảng
của xã hội. Quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, kể cả khu vực nông thôn
và thành thị, là sự phát triển dựa trên trục cơ bản là kinh tế tiểu nông, nên xã
hội mang nặng “tính bình qn"[ 32, tr.29]. Trong xã hội vẫn ln diễn ra tình
trạng phân hoá giàu- nghèo, phân tầng xã hội, nhưng ranh giới giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội không rạch rịi và mang tính tương đối. Trong thời
kỳ đổi mới hiện nay, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường và thừa
nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế nên các giai cấp hình thức trước đổi mới đã có sự biến đổi. Cùng
với đó, tình trạng phân hố giàu nghèo trong xã hội ta cũng có nhiều thay đổi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

và phàn hoá giàu- nghco. Họ thường sử dựng khái niệm phân hoá giàu- nghèo
theo mức sống để thể hiện trạng thái phàn tầng xã hội hiện nay và sử dụng các
tiêu chí như mức sống (thu nhập, chi tiêu, tài sản) để nghiên cứu phân hoá xã
hội. Mặt khác, trong nhận thức của đa số dân cư và trên báo chí hàng ngày,
khi nói về sự phân hoá giàu- nghèo, chúng ta thường thấy xuất hiện những
thuật ngữ, như khác biệt giàu - nghèo, phân cực giàu - nghèo, phán hoá giàu -
nghèo, phân tầng xã hội, phân tầng mức sống... Điều đó cho thấy, trong xã hội
ta hiện nay đã xuất hiện sự phân chia thành các bộ phận rạch ròi trong cuộc
sống và sự khác biệt về chất giữa các bộ phận đó. Sự phân hố giàu - nghèo
trong đời sống dân cư Việt Nam hiện nay là một thực tế [ xem:3i& tr 33]. Do
vậy, việc đánh giá sự phân hoá giàu- nghèo trong xã hội ta hiện nay theo chiều
cạnh phân tầng xã hội được coi là hợp lý. Song, cũng cần phải nhìn nhận, đánh
giá thực trạng phàn hố giàu- nghèo đó theo những yếu tố khác cho phù hợp
với thực tiễn lịch sử - cụ thể ở nước ta hiện nay.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

trong nội dung của nó, trong sự phát sinh, phát triển của nó. Và ở mỗi thời
điểm, mỗi vùng, mỗi nước khác nhau, chi sô' đánh giá giàu, nghèo cũng có sự
khác nhau và đó là một vấn đề mà chúng ta cần phải tính đến khi phân tích
thực trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.


<b>1. 2. Thực trạng và nguyên nhân của sự phân hoá giàu - nghèo ở</b>
<b>nước ta hiện nay</b>


<i>1.2.1. </i> <i>Những biểu hiện và sự tác động của phân hoá giàu- nghèo ở nước</i>
<i>ta hiện nay.</i>


<i>1.2.1.1 Những biểu hiện của phân hoá giàư-nghèo ở nước ta hiện nay.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<i>Thứ nhất, khoảng cách về thu nhập và mức sống giữa cúc khư vực dân</i>
<i>cư có xu hướng ngày càng gia tăng.</i> Xu hướng này thể hiện rõ giữa thành thị
và nông thôn. Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu của các hộ trong hai khu
vực đều có chiều hướng gia tăng. Sự chênh lệch về mức sống đựơc thể hiện rõ
giữa thành thị và nông thôn.


Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khoảng cách về thu nhập bình
quàn đầu người/ tháng giữa dân cư khu vực thành thị và nơng thơn có xu
hướng gia tăng: từ 2,55 lần (1994) lên 2,63 lần (1995); từ 2,7 lần (1996) lên
3,7 lần (1999) và xuống 2,3 lần (2002). Khoảng cách chênh lệch về chi tiêu
giữa 2 khu vực này dao động ở mức 2,5 lần đến 3 lần trong những năm gần
đây. Cụ thể, năm 1995 là 2,5 lần, 1996 là 2,57, 1999 là 3,1 và 2002 là 2,2 lần [
Xem: 53, tr.43- 44].


Khoảng cách về thu nhập và chi tiêu cúa các hộ trong hai khu vực
khơng những cao, mà cịn có xu hướng tăng dần theo thời gian do tốc độ tăng
thu nhập dân cư thành thị hàng năm thường cao hơn dân cư nông thôn. Tính


ổn định của dân cư nơng thơn cịn thấp, nhất là nơng dân, vì nguồn thu của họ
phụ thuộc rất nhiều vào thòi tiết và giá cả nông sản. Trong những năm qua và
hiện nay thòi tiết diễn biến rất phức tạp, bão lũ, hạn hán, sâu bệnh xảy ra
thường xuyên đã có ảnh hưởng xấu đến kết qủa sản xuất nông, lâm nghiệp và
thuý sản. Giá nông sản không ổn định và có xu hướng giảm dần, trong khi giá
vật tư nông nghiệp và hàng hoá ở thị trường nông thôn đều cao hơn khu vực
thành thị, kể cả những mặt hàng, sản phẩm do Nhà nước quản lý như điện,
nước, thuỷ lợi... Mặc dù những năm gần đây, Nhà nước đã ban hành một số
chính sách nhằm thu hẹp khoảng cách này, nhưng vẫn chưa khắc phục được
tình trạng ngày càng giãn ra giữa các mặt hàng nông sản và cổng nghiệp, bất
lợi vẫn ở phía người nơng dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

15 lần. Tính riêng trong khu vực nông thơn, khoảng cách đó là 6,3 lần, riêng
Bắc Trung bộ là 6,9 lần. Nhìn chung, sự giãn cách về thu nhập ở nước ta trong
những năm qua có xu hướng tăng nhanh so với thời kì trước đổi mới [xem: 15,
tr. 112-113].


Chương trình khảo sát mức sống của các hộ gia đình được Tổng cục
thống kê tiến hành năm 2004 có kết quả sơ bộ như sau [65, cập nhật
2/04/2005]:


Về thu nhập của dân cư, năm 2003-2004, thu nhập bình quân đầu người
/tháng theo giá hiện hành đạt 484.000đ, tăng 36% so với 2001-2002.


Ở khu vực thành thị, thu nhập đạt 795.000đ, tăng 27,8%.


Khu vực nông thôn đạt 377.000đ, tãng 36,9% so với năm 2001-2002.


Nhờ vậy, tỷ lệ hộ nghèo về lương thực, thực phẩm của cả nước đã giảm từ
9,9% xuống còn 7,8%. Mức chi tiêu cho đời sống năm 2003-2004 của cả nước đạt


370.000đ/người/tháng theo giá hiện hành, góp phần giảm số hộ nghèo trong cả
nước xuống còn 24,1%. Tuy nhiên, cũng theo kết quả khảo sát, hệ sô' chênh lệch
về thu nhập bình qn một người/tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo
nhất thời kì 2003-2004 so với các năm trước là 13,5 lần (2001-2002 là 12,5 lần) (
cuộc khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 được cải tiến trên cơ sở những nội
dung của cuộc điều tra mức sống hộ gia đinh năm 2002, có bổ sung hai nội dung
mới là đất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và các ngành nghề phi nông, làm nghiệp,
thuỷ sản).


<i>Thứ hai, sự phân hoá thu nhập và đời sôhg trong nội bộ dân cư tìữig khu</i>
<i>vực, tìữig vùng vẫn cịn lớn và có xu hướng tăng nhanh.</i> Kết quả điều tra của tổng
cục Thống kê trong những năm gần đày cho thấy, khoảng cách về thu nhập và chi
tiêu giữa nhóm hộ giàu (gồm 20% số hộ có thu nhập cao nhất) và nhóm hộ nghèo
( gồm 20% số hộ có thu nhấp thấp nhất) có xu hướng gia tăng cách biệt.


Bảng: Hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ
nghèo từ năm 1994 đến năm 2002 [xem: 53, tr.45].


<b>Đơn vị tính: lần</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>Cả nước</b> <b>6,5</b> <b>7,0</b> <b>7,3</b> <b>8,9</b> <b>8,14</b>


<b>Khu vực Thành thị</b> <b>7,0</b> <b>7,7</b> <b>8,0</b> <b>9,8</b> <b>8,1</b>


<b>Khu vực Nông thôn</b> <b>5,4</b> <b>5,8</b> <b>6,1</b> <b>6,3</b> <b>5,96</b>


<b>Vùng Đồng bầng sõng Hồng</b> <b>5,6</b> <b>6,1</b> <b>6,6</b> <b>7,0</b> <b>6,73</b>


<b>Vùng Đông Bắc</b> <b>5,2</b> <b>5,71</b> <b>6,1</b> <b>6,8</b> <b>6,01</b>



<b>Vùng Tây Bắc</b> <b>5,2</b> <b>5,71</b> <b>6,1</b> <b>6,8</b> <b>5,96</b>


<b>Vùng Bắc Trung Bộ</b> <b>5,2</b> <b>5,7</b> <b>5,9</b> <b>6,95</b> <b>5,82</b>


<b>Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ</b> <b>4,9</b> <b>5,5</b> <b>5,7</b> <b>6,31</b> <b>5,83</b>


<b>VùngTây Nguyên</b> <b>10,1</b> <b>12,7</b> <b>12,8</b> <b>12,9</b> <b>6,75</b>


<b>Vùng Đông Nam Bộ</b> <b>7,4</b> <b>7,6</b> <b>7,9</b> <b>10,32</b> <b>8,73</b>


<b>Vùng Đồng bằng sông Cửu Long</b> <b>6,1</b> <b>6,4</b> <b>6,4</b> <b>7,86</b> <b>7,14</b>


Nếu so sánh thu nhập của 10% số hộ có thu nhập cao nhất với 10% số
hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch giữa 2 nhóm này nãm 2001-
2002, chung trong cả nước là 13,86 lần, trong đó khu vực thành thị là 14,22
lần. khu vực nông thôn là 9,4 lần. Sự chênh lệch về thu nhập như trèn dẫn đến
gia tăng tình trạng bất bình đẳng giữa nhóm giàu và nhóm nghèo trong xã hội,
thể hiện qua hệ số GINI. ở nước ta, năm 1999 là 0,39; năm 2002 tăng lên
0,42. ( Hệ sô' GINI là thước đo xác định sự bất bình đẳng nhận giá trị trong
khoảng từ 0 (khi tất cả mọi người có mức chi tiêu hoặc thu nhập như nhau)
đến 1 ( khi 1 người nắm giữ mọi thứ của xã hội). Hệ số GINI càng tiến gần 1
thì sự bất bình đẳng trong phân phối càng lớn. Đối với hầu hết các nước đang
phát triển, hệ sô' GINI chi tiêu hoặc thu nhập thường nằm trong khoảng từ 0,3
đến 0,6. Hệ số này bằng 0 là không có bất bình đẳng). Như vậy, cùng với sự
tăng thu nhập của tầng lớp dân cư trong những năm đổi mới, sự bất bình dẳng
về thu nhập vẫn có xu hướng gia tăng. Đây chính là vấn đề mà chúng ta cần
quan tâm giải quyết để thu hẹp khoảng cách giàu- nghèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

phương tiện đi lại, sinh hoạt tốt hơn nhiều so với nhóm hộ nghèo. Năm 2002,
tỷ lệ chi tiêu ngoài ăn uống của nhóm hộ giàu là 50,5%, cịn nhóm hộ nghèo


là 29,8%. Chỉ tiêu cho ăn uống của nhóm hộ giàu đã cao hơn nhiều so với
nhóm hộ nghèo, nhưng tốc độ tăng lại còn nhanh hơn. Nãm 2002, mức chi
tiêu của nhóm hộ giàu cao gấp 4,5 lần nhóm hộ nghèo so với 4,2 lần năm
1999. Tốc độ tăng chi tiêu của nhóm hộ giàu năm 2002 so với năm 1998 là
18%, trong khi đó nhóm hộ nghèo chỉ tăng 11%.


<i>Trong nội bộ khu vực nông thôn, sự chênh lệch thu nhập bình quân đẩu</i>
<i>người cũng biểu hiện rõ.</i> Chẳng hạn như thu nhập bình quân đầu người của
nông dân ở Thái Bình và Hà Nội [xem: 11, tr. ] 85J:


<b>Năm</b> <b>1990</b> <b>1995</b> <b>2000</b>


<b>Hà Nội</b> <b>97,8</b> <b>112,5</b> <b>437</b>


<b>Thái Bình</b> <b>94</b> <b>169</b> <b>284,15</b>


<b>(Nghìn đổng)</b>


Thành tựu nổi bật trong quá trình đổi mới của đất nước kể từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đến nay là: mức sống của đa số nhãn dãn
được nâng lên đáng kể, thu nhập bình quân đầu người tăng, một bộ phận nhân
dân trở nên giàu có. Theo kết quả điéu tra hộ gia đình đa mục tiêu, nếu chia
toàn bộ số hộ trong cả nước thành 5 nhóm có số hộ bằng nhau, mỗi nhóm
20% tổng số hộ thì thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của từng nhóm tăng
lên qua các nãm như sau [ xem: 48, lr.89]:


Thu nhập bình quân đầu người / tháng của từng nhóm:


<b>Nhóm</b> <b>1994</b> <b>1995</b> <b>1995so với</b>



<b>1994(%)</b>


<b>1996</b> <b>1996 so với</b>


<b>1995(%)</b>


<b>lOOOd</b> <b>lOOOđ</b> <b>lOOOđ</b>


<b>Nhóm 1</b> <b>63,0</b> <b>74,3</b> <b>117,9</b> <b>78,6</b> <b>105,8</b>


<b>Nhóm 2</b> <b>99,0</b> <b>124,7</b> <b>126,0</b> <b>134,9</b> <b>108,2</b>


<b>Nhóm 3</b> <b>133,2</b> <b>166,7</b> <b>125,2</b> <b>184,4</b> <b>110,6</b>


<b>Nhóm 4</b> <b>186,0</b> <b>227,6</b> <b>122,4</b> <b>250,2</b> <b>109,9</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

GDP bình quân đầu người/ năm Thời kỳ 1991 - 1999 [xem: 48. lr.90j:


<b>1991</b> <b>1992</b> <b>1993</b> <b>1994</b> <b>1995</b> <b>1996</b> <b>1997</b> <b>1998</b> <b>1999</b>


<b>tính theo tiền</b>
<b>VN(lOOOđ)</b>


<b>1.131</b> <b>1.593</b> <b>1.92. 2.348</b> <b>3.011</b> <b>3.430</b> <b>3.830</b> <b>4.760</b> <b>5.180</b>


<b>Quy </b> <b>USD</b>


<b>(USD/người)</b>


<b>122</b> <b>143</b> <b>181</b> <b>214</b> <b>271</b> <b>310</b> <b>321</b> <b>340</b> <b>370</b>



<i>Bên cạnh đó, là sự chênh lệnh vê đời sống văn hoá, nhà ở , tiện nghi</i>
<i>trong gia đình.</i> Sự chênh lệch này thể hiện ở chỗ, những người nghèo thường
sống trong những căn nhà tồi tàn. Bảng dưới đây cho thấy, có tới 37% người
giàu sống trong các nhà kiên cố thì chi có 4% người nghèo được sống trong
căn nhà kiểu này, người nghèo sống trong các căn “nhà tạm" là 44%, con số
này ở người giàu chỉ có 9% [xem: 60. tr.43-44]:


<b>Chất lương nhà ở của 2 nhóm giàu và nghèo,1998</b>


<b>% trong nhóm</b> <b>% chia theo mỗi nhóm</b>


<b>Nghè</b>0<b> giữa </b> <b>giàu</b> <b>tổng</b>


<b>Nghèo</b> <b>Giàu</b> <b>(1)</b> <b>(2,3,4) </b> <b>(5)</b> <b>l->5</b>


<b>Nhà kiểu biêt thư</b> <b>0,0</b> <b>0,4</b> <b>0,0</b> <b>100,0</b> <b>100</b>


<b>Nhà nhiều tầng/căn hộ cao</b> <b>0,4</b> <b>22,0</b> <b>1,2</b> <b>71,5</b> <b>100</b>


<b>tầng kép kín</b>


<b>Nhà một tầng/căn hộ kép kín</b> <b>3,6</b> <b>15,0</b> <b>8,3</b> <b>34,6</b> <b>100</b>


<b>Nhà bán kiên cố</b> <b>52,6</b> <b>53,6</b> <b>17,8</b> <b>18,1</b> <b>100</b>


<b>Nhà tam</b> <b>43,5</b> <b>9,0</b> <b>33,5</b> <b>7,0</b> <b>100</b>


<b>Chung cả nước</b> <b>100,0</b> <b>100,0</b> <b>20,0</b> <b>60,0 </b> <b>20,0</b> <b>100</b>



Một căn cứ nữa để khẳng định khoảng cách giàu - nghèo là sự chênh
lệch về tiện nghi sinh hoạt hiện đại. Hầu hết người nghèo khơng có tủ lạnh, xe
máy và điện thoại. Đó là sự tương phản rõ nét với người giàu. Tỷ lệ người
giàu có xe máy là 55%, tủ lạnh là 35% và điện thoại là 27%. Như một quy
luật chung, người nghèo thường có các loại đồ dùng có giá trị thấp như xe đạp,
Rađiơ/ casset khơng có các đồ dùng đắt tiền như ti vi màu [xem: 60. tr.44 -
451.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

<b>Nghèo</b> <b>Gi ưa</b> <b>Giàu</b>


<b>(1)</b> <b>( 2,3,4)</b> <b>(5)</b>


<b>TV màu</b> <b>6,5</b> - <b>76,4</b>


<b>TV đen trắng</b> <b>15,0</b> - <b>9,4</b>


<b>Radio/ casset</b> <b>12,9</b> - <b>57,6</b>


<b>Tủ lạnh, tủ đá</b> <b>0,1</b> <b>35,3</b>


<b>Xe máy</b> <b>1,0</b> <b>55,4</b>


<b>Xe đạp</b> <b>61,9</b> - <b>76,7</b>


<b>Điện thoại</b> <b>0,0</b> - <b>26,8</b>


<b>Những hoat động văn hố của các hị 1998</b>


<b>Nghèo</b> <b>Giầu</b>



<b>(1)</b> <b>(5)</b>


<b>Mua sách báo, tạp chí</b> <b>1,0</b> <b>45,5</b>


<b>Mua tranh ảnh, cây cảnh</b> <b>5,6</b> <b>18,1</b>


<b>Giải trí (xem phim, video, TDTT)</b> <b>4,5</b> <b>24,3</b>


<b>Mua đồ chơi cho trẻ em</b> <b>3,8</b> <b>17,1</b>


<b>Mua đồng hổ đeo tay, đồ trang sức, phấn son</b> <b>5,5</b> <b>32,3</b>


<b>Cắt tóc, làm đầu</b> <b>63,5</b> <b>92,2</b>


<b>Chi phí mỹ viện tập thể hình</b> <b>0,2</b> <b>1,2</b>


<b>Tham quan nghỉ mát</b> <b>0,8</b> <b>18,5</b>


<b>Ma chay, cúng lẻ</b> <b>35,6</b> <b>37,2</b>


<b>Mua quà mừng, (tặng, biếu, h ỉ )</b> <b>88,0</b> <b>98,3</b>


<b>Thuê người phục vụ</b> <b>0,1</b> <b>2,2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Sự phân bỏ' hộ giàu và hộ nghèo theo mơ hình địa lý là: hầu hết hộ
nghèo sống ờ nông thôn (96%), trong đó gần 1/3 (32%) cư trú ở nóng thơn
miền núi và trung du phía Bắc. Cịn một sơ' lượng đáng kể người nghèo tập
trung ở vùng nông thôn và đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và đồng bằng
sông Cửu Long. Gần 2/3 (63%) số người giầu sốnơ ở các vùng đơ thị, trong đó
1/3 sống ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Nói cách khác, 4/5 dân số của


hai thành phố lớn nhất trong nước thuộc nhóm giàu, trong khi chí có dưới 10%
dàn sổ của các vùng nông thôn thuộc nhóm này. Khoảng cách chênh lệch giàu
- nghèo giữa 7 vùng của cả nước cũng có xu hướng tăng lên do tốc độ tãng
trưởng ở các vùng này là khác nhau: Vùng tăng trưởng nhanh nhất là vùng
Đông Nam Bộ, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh. Vùng nghèo nhất là vùng
Trung du phía Bắc, vùng giàu nhất là vùng Đông Nam Bộ [xem: 60, tr. 48j.


Qua những biểu hiện trên có thể thấy rằng, cốt lõi của sự gia tăng tình
trạng phân hố giàu - nghèo ở Việt Nam hiện nay là sự gia tăng khoảng cách
về mức sống giữa nông thôn và thành thị, và do sự phát triển không đồng đều
giữa các vùng.


<i>Chênh lệch thu nhập giữa các vùng trong cả nước cũng có xu hướng</i>
<i>tăng lên:</i> Nếu lấy mức thu nhập của cả nước là 100% thì hệ sô' giữa các vùng
khác so với cả nước trong hai nãm 2002 và 2004 như sau: So sánh 10% số hộ
có mức thu nhập cao nhất so với 10% số hộ có mức thu nhập thấp nhất thì hệ
sổ chênh lệch đã tăng lên qua các năm. Nếu xét hệ số GINI thì bất bình đảng
cũng tăng lên, năm 1999 là 0,390; năm 2002 là 0,420; năm 2004 là 0,413.
Nếu xét theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới thì tỉ trọng thu nhập của 40%
dân số có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập cúa toàn bộ dàn cư cùa nước
ta năm 1999 là 18,7%; 2002 là 17,98%; 2004 là 17,8%, tức là bất bình đẳng
dù cịn ở mức lớn hơn 17% (nhỏ hơn 12% là bất bình đẳng, từ 12-17% là bất
bình đẳng, vừa và lớn hơn 17% là tương đối bình đẳng) nhưng đã biểu hiện sự
bất bình đẳng tăng lên [3, cập nhật 15/4/2005].


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

quả điều tra của Tổng cục Thống kẽ (theo chuẩn nghèo cũ), nếu so sánh 20%
nhóm hộ có thu nhập cao nhất (nhóm 5) với 20% nhóm hộ có thu nhập thấp
nhất ớ vùng nông thôn (nhóm 1) thì sự chênh là 7,3 lần (1996) đã tãng lẽn


11,23 lần (1998). Chênh lệch về mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn


hiện nay khoảng 5,7 lần [xem: 22, tr.2].


Cuộc khảo sát mức sổng hộ gia đình 2004 do tổng cục Thống kê tiến
hành với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc và Ngàn hàng thế giới mà kết quả sơ
bộ đã được công bô' cho thấy: thu nhập thực tế bình quân năm thời kì 2002-
2004 tăng 11%, cao hơn so với các thời kì trước. Tuy nhiên, nếu tính bằng đơ-
la theo tỷ giá hối đoái trên thị trường thì thu nhập bình quân nhân khẩu 1 ngày
của năm 2002 mới đạt 0,77 đô-la (thấp xa so với chuẩn nghèo cũ của thế giới)
thì năm 2004 đã đạt trên 1 đô-la. Nếu so với chuẩn nghèo mới (2 đơ-la/ngày)
thì chưa có khu vực nào và vùng nào đạt được, ngay cả thành thị (1,64 đô-la)
và Đông Nam Bộ (1,69 đô-la) [3, cập nhật 15/4/2005]. Qua đó, có thể nói, thu
nhập của dân cư có tăng lên nhưng tỷ lệ nghèo đói vần cao.


Theo Báo cáo phát triển con người nãm 2004, với sự khảo sát ở 177
quốc gia, UNDP đã xếp Việt Nam vào hàng thứ 112 với chỉ số HDI là 0,691,
trong đó chỉ số thu nhập là 0,52, chỉ số giáo dục là 0,82 và chỉ sô' tuổi thọ là
0,73. Còn về chỉ sổ HPI, từ năm 1997 đến nay đã có những thay đổi lớn. Năm
2004, Việt Nam đứng thứ 41/95 trong bảng xếp hạng HPI-1 với giá trị là
20,0% [ xem: 52, tr.23-24].


Kết quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004 của
Tổng cục Thống kê tính tốn tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo
chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006-2010 (200 nghìn đổng/người/tháng cho khu
vực nông thôn, 260 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) là:


<b>Năm 2002</b> <b>Năm 2004</b>


<b>Cả nước</b> <b>23,0</b> <b>18,1</b>


<b>Chia theo khu vực</b>



<b>Thành thị</b> <b>10,6</b> <b>86</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

<b>Chia theo vùng</b>


<b>Đổng bằng sông Hổng</b> <b>18,2</b> <b>12,9</b>


<b>Đông Bắc</b> <b>28,5</b> <b>23,2</b>


<b>Tây Bắc</b> <b>54,5</b> <b>46,1</b>


<b>Bắc Trung Bộ</b> <b>37,1</b> <b>29,4</b>


<b>Duyên Hải Nam Trung Bộ</b> <b>23,3</b> <b>21,3</b>


<b>Tây Nguyên</b> <b>43,7</b> <b>29,2</b>


<b>Đông Nam Bộ</b> <b>8,9</b> <b>6,1</b>


<b>Đồng bằng sống Cửu Long</b> <b>17,5</b> <b>15,3</b>


Qua những chí số trên, chúng ta nhận thấy hộ nghèo tập trung nhiều
nhất ờ vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, thấp nhất ở vùng Đông Nam Bộ.


ở thành thị, trong khu vực quốc doanh, nhóm những người giàu bao
gồm một bộ phận cán bộ trung, cao cấp có quyền chức và đội ngũ giám đốc
các xí nghiệp làm ăn phát đạt. Đa số có tuổi đời trên 40, phần lớn có học vấn
đại học, năng động, tháo vát và được đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật. Một sô'
giàu không phải là cán bộ có chức quyền, nhưng làm việc ở một sơ' ngành
nghề có thu nhập cao, như thương nghiệp, ngoại thương, hàng không, dịch vụ


du lịch, dầu khí, bưu điện, tàu viễn dương, hải quan, công an kinh tế, phịng
thuế, V .V .. Đương nhiên, nhóm những người giàu ở khu vực nhà nước không


chỉ là do lợi thế nghề nghiệp, mà còn là do biết làm ăn, liên doanh, liên kết với
bèn ngoài và những nguyên nhân khác nữa.


Nhóm người giàu có ở khu vực ngoài quốc doanh bao gồm nhiều thành
phần khác nhau: giới kinh doanh tư nhân, bn bán, đại lí sản xuất. Đặc đièm
nổi bật của nhóm này là khả năng tiếp thị tốt, số đông làm nghề buôn bán,
buôn bán kết hợp với dịch vụ hoặc dịch vụ thuần tuý. Nhìn chung, đây là
nhóm xã hội năng động, có trình độ học vấn phổ biến là phổ thông trung học,
tron° đó có một sơ' có trình độ đại học. Đa số có vị trí bn bán thuận tiện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

xuàt, kinh doanh tông hợp, đa năng, da phương, ở nơng thơn, cịn xuất hiện
cac nhóm trội vượt . Các nhóm xã hội “trội vượt" này thường xuất hiên ớ
những địa bàn cư trú thuận tiện cho sản xuất, kinh doanh, chẳng hạn như ven
đô thị, ven cảng, ven sông, ven đường quốc lộ, ven tụ điểm lớn về kinh doanh,
dịch vụ, ven thị trấn, thị tứ hoặc gần điểm nút giao thông (ngã ba, ngã tư); hay
ở những địa phương có nghề truyền thống, “có bí quyết", “bí truyền" và những
nghề gia truyền đặc biệt,...[xem: 50, tr.57-59].


Các hộ gia đình giàu có ở nơng thơn chủ yếu là nhờ phát huy được ưu thế
về đất đai, lao động, tiền vốn, điều kiện sản xuất, kinh nghiệm lao động, trình độ
kĩ thuật, địa bàn cư trú, khả năng tiếp thị, sự nhạy bén về thị trường, V .V ..


Người nghèo chủ yếu là những nông dân có trình độ học vấn thấp, khả
năng tiếp cận thông tin, kĩ năng chuyên môn bị hạn chế. Người nghèo thường
có ít đất, hoặc khơng có đất. Hộ nghèo thường là các hộ có nhiều con hoặc có
ít lao động. Nghèo do bị tách biệt về địa lí và về xã hội, dễ bị tổn thương bởi
những khó khăn mang tính thời vụ hay những bất thường xảy ra đối với gia


đình. Những người dân nhập cư thành thị khơng có hộ khấu và gặp nhiều khó
khăn.


Trong thực tế, công nhân làm việc trong các xí nghiệp tư nhân hoặc liên
doanh với nước ngồi thì giàu hơn làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước.
Trí thức có tham gia các dự án, chương trình hợp tác quốc tế thì thu nhập cao
hơn trí thức khác, nơng dân có ngành nghề phụ gắn với thủ cơng nghiệp thì
giàu hơn nơng dân thuần nông. Công nhân các doanh nghiệp nhà nước (nhất là
doanh nghiệp làm ăn khó khăn), những hộ nơng dân, đặc biệt là đồng bào
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng đời sống gặp khó khăn,
được hưởng thành quả của công cuộc đổi mới ở mức thấp. Điều đó càng cho
chúng ta thấy tính đa dạng của phân hố giàu-nghèo ở nước ta hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

địa bàn, ờ mọi tầng lớp, nhóm xã hội, trong mọi nghề nghiệp, trong suốt quá
trình phát triển. Với kết luận này, cho phép ta khẳng định rằng, tình trạng
nghèo và phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay đã trở thành vấn đề nổi
cộm, cần được quan tâm và tìm ra hướng giải quyết với những giải pháp hĩru
hiệu.


<i>1.2.1.2. Tác động của phân hoá giàu-nghèo ở nước ta hiện nay</i>


Với những biểu hiện trên, sự phàn hoá giàu- nghèo hiện nay tác động
như thế nào trong sự phát triển của đất nước? Trước hết, chúng ta cần phân định
rõ xem người giàu và người nghèo có những ảnh hưởng ra sao?


Nhìn lại lịch sử xã hội loài người, chúng ta thấy, khi xã hội tồn tại hai
cực giàu và nghèo trong cùng một hình thái kinh tế- xã hội nhất định thì trong
xã hội đó, người giàu và người nghèo bao giờ cũng đối lập nhau về quyền uy
và lợi ích thiết thân nhận được từ những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Nghèo đã từng bám theo gót chân phát triển của nhân loại qua các thời đại.


Giàu có thể đưa con người ta tới đỉnh vinh quang nhất, nhưng cũng có thể là
nguyên nhân dẫn tới những cuộc đấu tranh phi nghĩa. Đói nghèo đã từng cướp
đi mạng sống của nhiều người như lịch sử đã từng diễn ra ở nước ta năm 1945
(khoảng hai triệu người đã chết vì đói). Ngày nay, nghèo đói khơng gây nên
sự chết chóc của nhiều người nhưng nó tạo nên cuộc sống bất hạnh cho nhiều
người, tạo nên sự nghèo hèn, tụt hậu về kinh tế đối với cả một đất nước, một
dân tộc.


Khi người giàu ngày càng nhiều nên không phải là một hiện tượng xấu,
tài sản của người giàu có thể là một phần tài sản để cải thiện cuộc sống cho
người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo thoát khỏi nghèo hèn khi người
giàu đầu tư tài sản vào sản xuất và qua đó, giải quyết việc làm cho người
nơhèo giúp người nghèo cải thiện cái nghèo hiện tại. Song, đày là con đường
đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và mang nặng tính chủ quan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

độ tuổi từ 40 đến 45, người trẻ nhát 30 tuổi, người già nhất ở độ tuổi 70 [xem:
61, tr.202]. Trong các nhà tý phú đó, có một số sáng nghiệp ở nước ngồi, cịn
phần lớn ià ớ trong nước; họ bao gồm đủ các thành phần, có trình độ vãn hoá
từ trung cấp đến giáo sư, tiến sĩ. Cịn ở nước ta thì sao?


Những năm gần đây, tầng lớp người giàu đã có ảnh hưởng khá lớn đối
với xã hội ta. Họ có đú nhà lầu, xe hơi, bất động sản và tham gia đủ các hoạt
động xã hội, giữ những vị trí quan trọng trong kinh doanh và điều hành các cơ
cấu xã hội; họ trở thành động lực cho việc thúc đẩy sức bán và mua của xã
hội, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Theo đà đi lên của kinh tế thị
trường, những người tài, có trình độ sẽ có cơ hội làm giàu nhiều hơn. Lớp
người giàu xuất hiện ngày càng nhiều đã thể hiện sự thay đổi một phần nào đó
tiêu chí đánh giá sự phát triển của xã hội. Thậm chí đã có người coi tầng lớp
người giàu là nhàn tố tích cực tạo nên sự phồn vinh, hưng thịnh của đất nước,
cúa dàn tộc. Những chân lý mà triết học Mác đã khẳng định là: Con người


trước hết phải đảm bảo ăn, mặc, ở, sau đó mới có thể làm chính trị, khoa học,
nghệ thuật, V .V .; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; cơ sờ hạ tầng quyết


định kiến trúc thượng tầng; lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất...
đều nói lên vai trị của vật chất nói chung, của sự giàu có về của cải nói riêng.
Và như vậy, một khi trong xã hội ngày càng nhiều lên sô' lượng người giàu sẽ
đưa cuộc sống con người đến một chất lượng sống tốt hơn và ngược lại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Còn mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ: bất cứ quốc gia nào, sự phán hoá giàu -
nghèo theo nghĩa là sự bất công xã hội đều trở thành một lực cản lớn đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó cịn được xem là một nhân tổ dẫn đến xung
đột xã hội. Một xã hội tiến bộ không thể thiếu sự công bằng (công bằng được
hiểu theo nghĩa là mọi người được đôi xử ngang nhau khi có cùng cống hiến).


Bên cạnh đó, khi sự chênh lệch giàu - nghèo quá lớn sẽ dẫn tới mâu
thuẫn giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo, thậm chí có thể gây nên
sự bất ổn về chính trị. Người giàu vì mục đích giàu thèm, có thể bất chấp
phương tiện để làm giàu, còn người nghèo vì mục tiêu thốt khỏi nghèo, vì
mong muốn có cuộc sống bằng những người giàu, họ có thể làm bất cứ điều
gì, kể cả phạm pháp. Điều này luôn dẫn đến sự gia tăng các tệ nạn xã hội và
làm suy giảm giá trị đạo đức, lối sống của con người, làm giảm niềm tin cùa
nhân dân đối với chú nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.


Phàn hoá giàu- nghèo làm cho xã hội phân thành hai cực - người giàu
và người nghèo. Đó là mầm mống của sự chia rẽ trong nội bộ tầng lớp dân cư.
Phân hoá giàu - nghèo, một mặt thúc đẩy cả người giàu lẫn người nghèo đều
phải cô' gắng nâng cao trình độ học vấn, tay nghề chuyên môn và rèn luyện
phẩm chất để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Nhưng mặt khác, nó
cũng dẫn đến tình trạng chênh lệch về học vấn, về tay nghề chuyên môn và
khiến cho tình trạng suy thối về phẩm chất, đạo đức ở một số người ngày


càng trở nên trầm trọng hơn.


Phân hoá giàu - nghèo không chi tạo ra sự chênh lệch về mức sống, về
trình độ học vấn, về sức khoẻ giữa các nhóm dân cư, ảnh hưởng đến chất lượng
nguồn lực con người, mà nó cịn gây tác động xấu đến môi trường xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Đứng trẽn góc độ cúa chủ nghĩa duy vật biện chứng để xcm xét vấn đé
này, có thể khẳng định chắc chắn rằng, tình trạng phân hố giàu - nghèo là
một trong những mặt trái của nền kinh tế thị trường, có những ảnh hưởng lớn
tới đời sống xã hội của con người, nhất là tính bình đẳng trona; xã hội - một
mục tiêu của tất cả các lực lượng tiến bộ trên thế giới cũng như của nhân dân ta.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng
khẳng định rằng, cơng bằng và bình đẳng là một mục tiêu của sự nghiệp xây
dựng chế độ xã hội mới, xã hội mà trong đó “ mọi người dân được ấm no, hạnh
phúc và học hành tiến bộ” [42.tr.97], rằng “ chủ nghĩa xã hội làm sao cho dân
giàu, nước mạnh” [41.tr. 226]. Theo đó, với bản chất của chú nghĩa xã hội, thì về
cơ bản chúng ta khơng được phép để cho tình trạng phân hoá giàu- nghèo diễn ra
với mức ngày càng tăng, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn.


Chúng ta cần phải làm gì khi mà sự giàu có là một khối nam châm mà
sức hút của nó là khơng thể nào cưỡng lại; cịn sự nghèo khó là một “chất gáy
ô nhiễm" [14, tr. 16], có tiềm năng tàn phá dữ dội mà người ta khơng thể cách
ly nó ra. Đó là điểu mà chúng tôi muốn đề cập tới trong phần những vấn đề
đặt ra và nêu ra giải pháp để khắc phục tình trạng phân hoá giàu - nghèo trong
nền kinh tế thị trường ớ nước ta hiện nay.


<i>1.2.2. Nguyên nhân của sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay</i>


Gần đây, sự phàn hoá giàu- nghèo ở một số nước trên thế giới cũng đã
được khảo sát trong nhiều cơng trình nghiên cứu và các nhà nghiên cứu đã rút


ra những kết luận về nsuyẽn nhân của sự phân hoá giàu- nghèo là: Do thiếu
n<mồn lực và công nghệ; do sự tập trung phần lớn đất đai và công nghệ vào
một số ít người thuộc tầng lớp giàu có; do trình độ giáo dục và kĩ năng nghề
nghiệp không đồng đều; sự di dân từ nông thôn ra đô thị; do chính sách thiên
về thành phố. Còn đối với nước ta thì sao? Với thực trạng phân hoá giàu -
n°hèo nói trên, có thể khẳng định do một số nguyên nhân sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Trong những năm trước đổi mới, chúng ta chủ trương tồn tại chê độ
công hữu về tư liệu sản xuất với hai hình thức là sờ hữu toàn dân và sở hữu tập
thể. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hầu như bị triệt tiêu. Nền kinh tế miền
Bắc nước ta (từ sau năm 1954) được vận hành theo mơ hình kế hoạch hố tập
trung. Trong mơ hình đó, tồn bộ hoạt động kinh tế, từ sản xuất đến phân phối
và tiêu dùng, được quyết định bởi một cơ quan trung ương. Việc sản xuất cái
gì, như thế nào và cho ai là do Nhà nước quyết định. Sự khác biệt về khả năng
của con người phụ thuộc vào các hình thức giáo dục và đào tạo nghề nghiệp.
Tuyệt đại đa số lao động có việc làm. Do đó, sự phân hố giàu - nghèo ở nước
ta thời kỳ này biểu hiện không rõ nét.


Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, trong quá trình đổi mới đất nước,
Đảng ta đã xác định nền kinh tế mà chúng ta cần xây dựng là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế ấy đòi hỏi phải có những
chủ sở hữu thật sự, cụ thể. Với một xã hội có những đặc điểm như Việt Nam
hiện nay, việc thực hiện một mơ hình kinh tế mà trong đó có nhiều hình thức
sờ hữu khác nhau, trong đó bao gồm cả sở hữu tư nhân, là một phương án tối
ưu, có khả năng thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động. Điều đó đã được
thực tế chứng minh. Chính C.Mác và Ph.Ảng ghen cũng đã cho rằng: “Sở hữu
tư nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất...Hình thức giao tiếp đó khơng thể bị xố bỏ, và là điều kiện cần thiết
cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng nào chưa tạo ra được


những lực lượng sản xuất, mà đối với chúng sở hữu tư nhân trở thành xiềng
xích hoặc trở ngại" [35. tr.5 14]. Mặc dù các ông đưa ra quan điểm này để giải
thích thực trạng lực lượng sản xuất ở một số nước châu Âu thế kỉ XIX, nhưng
quan điểm ấy vẫn còn phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.


Nhữno thành tựu của gần 20 năm đổi mới đất nước vừa qua đã chứng
minh cho tính đúng đắn của sự vận dụng chính sách đa dạng hố các hình thức
sở hữu của Đ ản° ta. Hiện nay có ba hình thức sở hữu cơ bản: sở híh.1 nhà nước,


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

thành phần kinh tế. Chính sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế cùng với các
quy luật kinh tế thị trường của nó đã tạo ra những thay đổi mang tính bước
ngoặt trong nền kinh tế, trước hết là biến đổi cơ cấu kinh tế, tiếp đến là biến
đổi cơ cấu thành phần kinh tế đã tác động mạnh đến toàn bộ cơ cấu xã hội - giai
cấp. làm xuất hiện một tầng lớp mới những nhà kinh doanh cá thể và tư bản. Họ
là những người giàu lẽn trong quá trình đổi mới cả ở thành thị lẫn nông thôn.


Chúng ta chấp nhận kinh tế thị trường là chấp nhận cả mặt trái của nó,
phân hố giàu-nghèo là một trong những biểu hiện của mặt trái đó. Từ khi
chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường đến nay, tình trạng phân hố giàu-
nghèo càng bộc lộ rõ nét. Kết quả điều tra trên quy mơ tồn quốc do Tổng cục
thống kè và Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm và Viện Xã hội học
tiến hành từ năm 1990- 1995 đã cho thấy, sự cách biệt giàu- nghèo tãng mạnh.
Điều đó đã khiến cho khơng ít người, đặc biệt là những người đang phải quản
lý các quá trình phát triển kinh tế- xã hội, tỏ ra băn khỗn, lo ngại vì cho rằng
như vậy là công bằng xã hội đã bị vi phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, phân tích
tỉ mỉ kết quả điều tra cho thấy, trừ một sơ' giàu lèn nhanh chóng bằng các thủ
đoạn bất hợp pháp, cịn lại thì các hộ giàu và hộ nghèo đều là những người lao
động, đều tạo ra thu nhập trước hết và chủ yếu bằng sức lao động của chính
mình, trong đó hộ nào có điều kiện hơn, có sức lao động hơn, có kinh nghiệm
và tài năng sản xuất kinh doanh hơn, hộ ấy sẽ giàu hơn, còn ngược lại sẽ


nghèo hơn. Qua khảo sát các hộ trong các năm 1993-1994 tại Quảng Nam -
Đà Nẵng: 91,2% số người được hỏi đã cho rằng, sự phân hoá giàu - nghèo
đang diễn ra là điều bình thường. Con số ấy ở thành phô' Hồ Chí Minh là
72,9%, ở Hà Nội và Hải Phòng là 80,2% [xem: 55. tr.9].


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

mình tiền, hàng và một bộ phận tư liệu sản xuất. Đây chính là điều kiên để ho
nhanh chóng trở nên giàu có.


Kinh tế hàng hố với cơ chế thị trường tự nó bình tuyển, sàng lọc yếu tô'
người cúa nền kinh tế. Đối với người lao động, cạnh tranh và yêu cầu của sản
xuất, kinh doanh đòi hỏi phải tự hồn thiện mình một cách tồn diện nếu
khơng sẽ bị đào thải. Đối với các giám đốc, các bạn hàng, và những đối tác thì
sự chọn lọc diễn ra một cách khắt khe, tuân theo nguyên lý của kinh tế thị
trường là “ ai là ai và ai cũng như ai". Trong quá trình thực hiện trao đổi hàng
hoá trong nền kinh tế thị trường, sự lựa chọn tất yếu thuộc về những người
đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh. Họ trở thành những ông chủ, giàu
có. Ngược lại, những người, những doanh nghiệp bị cạnh tranh loại bỏ, sẽ
không tránh khỏi phá sản, trở thành những người nghèo, những doanh nghiệp
nghèo.


Như vậy, kinh tế thị trường không thủ tiêu tình trạng phân hố giàu -
nghèo, mà trái lại nó cịn trở thành một trong những mơi trường thuận lợi nhất
cho sự phân hoá giàu - nghèo phát triển. Xuất phát từ quan niệm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin. tác giả Đặng Hữu Toàn đã khẳng định: “Sự
phân hoá giàu nghèo vẫn là thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu
của chủ nghĩa cộng sản, trong chủ nghĩa xã hội" [57, <b>tr.2 4 6 ]. </b>Sự tồn tại kinh tế
thị trường ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu.
mặc dù kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nhưng cũng không thể
tránh khỏi sự phân hoá giàu - nghèo.



<i>Thứ hai, do sự thay đổi chính sách và cơ c h ế quản lý kinh tế.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

động cua nên kinh tè hàng hoá đã tạo ra những động lực phát triển kinh tế, làm
cho một bộ phận dân cư có điều kiện kinh doanh, sản xuất đã phát huy được
tiềm năng của mình và có được nguồn thu nhập khá giả, trờ thành các ông chú,
người giàu có trong xã hội.


Mặt khác, trong kinh tế hàng hoá, mục đích lợi nhuận thường được đặt
lên hàng đầu, vì vậy không thể tránh khỏi sự cạnh tranh giữa các chú thể kinh
tế. Trong cuộc cạnh tranh đó, nhất định có người được, người mất, những
người khơng có khả nãng cạnh tranh dễ bị phá sản, thua lỗ, thất nghiệp. Do
vậy, trong xã hội có sự hình thành người giàu, người nghèo.


Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế đều lấy
một hoặc một số hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho
sự tổn tại của nó. Vì vậy, quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay cũng không
thuần nhất, nó bao gồm: Phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản, theo
vốn, phân phối qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội. Phân phối theo lao động
là nguyên tắc chủ yếu và mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc
này dựa trên cống hiến của người lao động mà theo C.Mác, con người vốn khác
nhau về năng lực bẩm sinh, do vậy trong lao động, cống hiến của họ sẽ khác
nhau và điều đó dẫn tới thu nhập khác nhau. Vả lại, khi chuyển sang cơ chế thị
trường, chúng ta đã làm giảm tính bình qn của phàn phối trong chế độ phân
phối theo lao độn°. Điều này đã dẫn đến sự chênh lệch về mức thu nhập và ảnh
hưởng tới mức sống của người lao động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

tới sự bât bình đăng trong việc làm và dẫn đến sự gia tăng tình trạng phân hố
giàu- nghèo.


Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa với điểm xuất phát rất thấp, những yếu tô của nền
kinh tê thị trường văn minh còn chưa phổ biến, các thể chế cho thị trường cịn
thiếu, có thể chế còn chưa phù hợp, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường
còn chưa mạnh. Trong cơ chế thị trường, một bộ phận dân cư giàu lên vì biết
làm ăn, có khả năng cạnh tranh, có điều kiện đầu tư các trang thiết bị phục vụ
sản xuất, mở rộng quy mô sản sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó, một bộ
phận dân cư khác do khơng có khả năng cạnh tranh, đã trở nên thua lỗ, bị phá
sản, trở thành những người có thu nhập thấp. Bộ phận dân cư khác do có ít
hoặc khơng có vốn thường đứng ngoài “guồng máy" kinh tế thị trường, họ chỉ
làm ăn nhỏ đú nuôi sống bản thân hoặc có khi trở nên thất nghiệp do tính
khắt khe của cơ chế thị trường. Điều đó đã tạo nên khoảng cách về thu nhập
giữa họ và làm cho tình trạng phân hố giàu - nghèo ngày càng trở nên rõ hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

là nguyên nhân duy nhất tạo nên tình trạng phân hoá giàu- nghèo. Trong cơ
chê kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp ở nước ta trước đây, hiện tượng đó
cũng đã tồn tại nhưng được “che đậy dưới các hình thức tinh vi và kín đáo".
Trong nền kinh tê thị trường, khi trình độ của lực lượng sản xuất càng cao,
khoa học kĩ thuật và công nghệ càng phát triển sẽ tạo ra nãng suất lao động
càng cao. Và khi chuyển sang cơ chế thị trường, tính bình qn trong phân
phối do chế độ phân phối theo lao động đã giảm đi một cách đáng kể. Điều đó
khiến cho khoảng cách giàu - nghèo gia tăng. Sự gia tăng này được coi là
chính đáng, được mọi người chấp nhận, vì nó đảm bảo sự cơng bằng trong
phãn phối sản phẩm lao động. Bên cạnh đó là những tiêu cực của thị trường
gây ra, như tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả, làm giàu bất chính, lối kinh
doanh vì lợi ích trước mắt đang ngày càng nhiều lên. Chính hiện tượng này
làm cho một bộ phận giàu lên nhanh chóng một cách bất hợp pháp, làm ảnh
hưởng tính cơng bằng trong mục tiêu xây dựng của xã hội ta.


Như vậy, dù kinh tế thị trường có mặt tích cực là chủ yếu ( ở góc độ
thúc đẩy tính năng động của xã hội, kích thích mọi năng lực sản xuất, phát


huy nhân tố con người), nhưng bên cạnh đó cũng là một nguyên nhân dẫn tới
phân hoá giàu- nshèo, đặc biệt là sự phân hoá giàu - nghèo do mặt trái của nó
đem lại, điều này địi hỏi phải có hướng giải quyết kịp thời.


<i>Thứ ba, do chính sách xã hội chưa hồn thiện, hệ thống pháp luật thiếu</i>
<i>đồng bộ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

quan tâm đung mức. Điêu đó khiến cho họ trờ thành bộ phận dân cư thiếu điều
kiện tiêp nhận những giá trị vật chất và văn hoá tinh thần của xã hội, trở thành
bộ phận nghèo trong xã hội.


Chính sách xã hội ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua được coi
là tương đối tiến bộ. Dù điều kiện kinh tế của chúng ta cịn có những khó khăn
nhất định (GDP đầu người năm 2000 vào khoảng 400 đô-la, xếp thứ 110/171
nước, thuộc nhóm những nước nghèo nhất thế giới), nhưng chúng ta đã đạt
được chi số phát triển con người vào loại trung bình ( xếp thứ 110/147 nước).
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là các chính sách xã hội trong việc trợ giúp
người nghèo đã hoàn thiện đến mức khơng thể hồn thiện hơn nữa. Một số
người khi thiếu vốn đi vay nhưng lại không đủ điều kiện vay, vì khơng có tài
sản thế chấp, họ buộc phải vay vốn tư nhân với lãi suất cao ( có khi tới
10%/tháng bằng tiền, vay thóc thì lãi là 25%/tháng) [xem:48, tr. 140]. ở nước ta
hiện vẫn còn nhiều lao động thất nghiệp, ngưòi già, người mất khả năng lao
động, trẻ mồ côi., chưa đảm bảo được đời sống. Điều đó cho thấy chính sách xã
hội trong việc trợ giúp người nghèo cần phải được tiếp tục thực hiện một cách
có hiệu quả hơn nữa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

cua họ chưa cao, thu nhập bàp bênh, những người vốn đã nghèo thì vì thế mà
ngay cang nghèo hơn. Do vậy, có thể nói, hệ thông pháp luật thiếu đổng bộ
cũng là một nguyên nhân dẫn đên tình trạng phân hoá giàu - nghèo ở nước ta
hiện nay.



<i>Thứ tư, do thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, thị trường khơng ổn định</i>


Có thể khẳng định rằng, đây là nguyên nhãn làm cho người nghèo
khơng thốt được cảnh nghèo. Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng, không
những là điều kiện tiên quyết của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường, mà cịn có vai trị đặc biệt đối với hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp ở các vùng nông thôn nước ta hiện nay. Theo số liệu điều tra
hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, nguyên nhân
nghèo đói do thiếu vốn chiếm tới 79%. Vốn có thể được xem là nguyên nhân
sâu xa dẫn đến tình trạng nghèo đói ở nơng thôn miền núi. Điều tra nguyên
nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của riêng tỉnh Hồ Bình tính đến tháng 1
năm 2001 đã cho thấy rõ điều đó [29, tr.76|.


<b>Đơn</b>
<b>vị</b>
<b>tính</b>
<b>Thiếu</b>
<b>kinh</b>
<b>nghiêm</b>

sx


<b>Thiếu</b>
<b>sức</b>
<b>lao</b>
<b>động</b>
<b>Đơng</b>
<b>người</b>
<b>ăn</b>
<b>theo</b>
<b>Thiếu</b>

<b>vốn</b>
<b>Thiếu</b>
<b>đất</b>
<b>Có</b>
<b>ngườ</b>


<b>i tàn</b>
<b>tật</b>


<b>Có người</b>
<b>mắc</b>
<b>TNXH,</b>
<b>Lười lao</b>


<b>động</b>
<b>Rủi</b>


<b>ro</b>


<b>Tổng số</b> <b>Hộ</b> <b>21.152</b> <b>2.482</b>

4.193

<b>32.866</b> <b>4.670</b> <b>260</b> <b>234</b> <b>2579</b>


<b>Tỷ lệ so</b>
<b>sovới tổng</b>
<b>số hộ đói</b>
<b>nghèo</b>


<b>%</b>

43,37

5,56

9,40

73,60

<b>10,46</b> <b>0,58</b> <b>0,52</b> <b>5,78</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

đe giup họ co điêu kiện san xuất tốt hơn sẽ góp phần cải thiện cuộc sống của
họ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

Cac san phàm tiêu thú công nghiệp, sản phẩm của các làng nghề, sản
pham công nghiệp cũng trong tình trạng khơng ổn định về thị trường và giá cả
như đương, giây, săt thép, muối, hàng thú công mỹ nghệ... Chi phí trung gian
cao, lợi nhuận giảm đã ánh hưởng đèn thu nhập của người lao động.


Tư liệu sán xuất là nhàn tô quan trọng, cơ bản để tạo nên năng xuất lao
động, trong đó cơng cụ lao động đóng vai trị sơ một. Nó được xem là phương
tiện cơ bản để con người tạo ra của cải vật chất. Trong thực tế nền kinh tế thị
trường hiện nay, sở hữu tư liệu sản vẫn được coi là cơ sở để phân phối và thu
nhập. Do vậy. phần bộ phận dân cư giàu có thường là người có tư liệu sản xuất
và quyền sở hữu cũng thuộc về họ, điều này làm cho họ đã giàu lại càng giàu
hơn khi có thu nhập lớn từ quyền sở hữu; trong khi đó bộ phận khác thiếu tư
liệu sản xuất nên khơng có khả năng tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh cua
mình, thường có xu hướng phụ thuộc, bị động trong thu nhập khiến cho họ đã
nghèo lại càng nghèo hơn.


<i>Thứ năm, do trình độ học vấn khơng đều giữa các tầng lớp dân cư, giưã</i>
<i>các vùng địa lí khác nhau.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

khiên cho họ có thê thất nghiệp, hoặc thu nhập không cao do khả năng trình
độ của mình, và đây cũng được xem là nguyên nhân dẫn đến phân công lao
động không đều, khơng hợp l í , làm cho khoảng cách thu nhập ngày càng tăng
trong các ngành nghề, các vùng. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhân lực
là một trong những hình thức tốt nhất để góp phần giảm chênh lệch về mức
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. ở nước ta hiện nay, những chủ hộ gia đình
có học vấn thấp thì mức chi tiêu bình quân đầu người cũng thấp, còn chú hộ
gia đình có học vấn cao thì mức chi tiêu bình quân đầu người cũng cao. Trình
độ học vấn của chủ hộ càng cao trong điều kiện thị trường lao động linh họat
và hoạt động tốt, họ càng có nhiều khả năng tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập.


Điều đó cũng góp phần giảm nghèo và tãng giàu.


Sự khác biệt về thu nhập trong những cơ may nào đó có thể chuyển đổi.
Nhưng sự khác biệt về học vấn thì sẽ kéo dài cả thế hệ thậm chí nhiều thế hệ.
Sự phân tầng về văn hoá mà trong đó, học vấn là thành tố quan trọng nhất sẽ
làm sâu sắc thêm tính bất bình đẳng xã hội ở khía cạnh khó khắc phục nhất.
Nếu một sự thăng tiến xã hội dựa vào tiêu chuẩn năng lực của mỗi cá nhân mà
về cơ bản, đang được hình thành ở nước ta thì tình hình trên sẽ làm trầm trọng
thêm sự thua kém về lợi thế của người nghèo, vì họ ít có cơ hội để nâng cao
học vấn. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã công bằng, dân chủ, văn minh sẽ
khó thực hiện nếu khơng xoá bỏ sự thua thiệt về học vấn của người nghèo, của
đông đảo cư dân sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

dược Đang ta xác định là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhan lực, bơi dưỡng nhân tài và do vậy, phát triển giáo dục và đào tạo, theo
chúng tôi, cũng là một chiến lược để khắc phục tình trạng phân hố giàu -
nghèo.


<i>Ngồi ra, thiên tai và các biến cô bất thường khác xảy ra hàng năm đã</i>
<i>ánh hướng lớn đối với thu nhập và dời sống của người dân ớ cả nông thôn vá</i>
<i>thành thị, cũng là một nguyên nhàn dẫn đến tình trạng làm tăng sô' người</i>
<i>nghèo trong x ã hội.</i>


ơ nước ta, trong những nãm 2000, 2001 và 2002 thường có lũ lớn kéo
dài ở đồng bằng sông Cửu Long gây thiệt hại lớn về người và tài sản dẫn tới
hàng trãm nghìn ha lúa hè thu và rau màu, cây ăn trái bị ngập úng. Chỉ riêng
năm 2000, thiệt hại do lũ lụt ờ vùng này đã lên tới 3730 tỷ đồng. Đối tượng
chịu hậu quả của thiên tai vẫn là dân nghèo, thu nhập thấp và tình trạng thiếu
đói giáp vụ xảy ra sau lũ lụt là phổ biến. Nếu tính cả các thiệt hại do thiên tai
lũ lụt gây ra ở cả thành thị và nơng thơn thì số hộ và nhân khẩu cần trợ giúp,


cứu đói <i>ở</i> mức rất cao. Cụ thể năm 2002 đã có 1519 nghìn lượt hộ với 7032
nghìn lượt nhân khẩu cần được trợ giúp cứu đói [xem:53, tr.46-47].Vì vậy,
thiên tai và những biến cố bất thường của thời tiết là thách thức đối với thu
nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51></div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<b>Chương 2</b>


<b>NHỮNG VẤN ĐỂ ĐẶT RA TỪ s ự PHÂN HOÁ GIÀU-NGHÈO VÀ</b>
<b>MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC PHÂN HOÁ GIÀU- NGHÈO</b>


<b>Ở NƯỚC TA HIỆN NAY</b>


<b>2.1. Những vãn đề đặt ra từ sự phân hoá giàu- nghèo ở nước ta hiện nay</b>


Trong xã hội có sự phân hố giàu-nghèo, hầu hết mọi khía cạnh cùa đời
sống con người đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vị trí của họ trong các
tầng bậc xã hội. Với những biểu hiện, nguyên nhân và tác động ảnh hưởng của
phân hoá giàu-nghèo ở nước ta hiện nay như đã phân tích ở trên, nó đã đặt ra
một số vấn đề mà theo chúng tơi là hết sức cấp thiết địi hỏi phải có hướng giải
quyết phù hợp, kịp thời.


<i>Thứ nhất,</i> hiện tượng phân hoá giàu - nghèo đang diễn ra mạnh mẽ trẽn
phạm vi toàn quốc, song thể hiện rõ nhất ở các đô thị lớn. Bởi ở đây, cơ chế thị
trường cũng như sự chuyển hoá, phán hoá trong lĩnh vực cơ cấu xã hội, lao
động, nghề nghiệp đana diễn ra một cách gay gắt và sôi động.


Khoảng cách giữa người nghèo và người giàu ở nông thôn và thành thị
cũng ngày càng lớn. Nếu chúng ta khơng có những giải pháp đồng bộ để khắc
phục kịp thời, thì rất có thể, tình trạng đó sẽ dẫn tới khủng hoảng sản xuất ở
nông thôn và sự không bền vững ở đô thị. Bởi lẽ, đại bộ phận người nghèo ở


nơng thơn thường có xu hướng đổ dồn về thành thị, nhập cư vào đô thị để tìm
kiếm thu nhập, bảo đảm sự sinh tồn và làm giàu. Thông thường, những người
này thường nghèo và phải chịu cuộc sống thiếu thốn về vật chất và tinh thần.
Nếu lượng người này tập trung nhiều về các đô thị sẽ là cản trở đối với tương
lai của thế hệ sau ở đô thị, mặt khác càng tạo ra khoảng cách giàu - nghèo rõ
rệt hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<i>Thứ hai,</i> đê làm giàu, vươn tới sự giàu có bằng những người khác, người
ta có thè sư dụng chính thực lực của mình, nhưng cũng có những người làm ăn
kinh doanh phi pháp, làm giàu bát chính, phi lí, thậm chí dẫn tới “giàu ăn
vụng, túng làm liều”. Nếu tình trạng này khơng được ngãn chặn kịp thời sẽ là
mối nguy hiểm cho sự xuống cấp của giá trị, nhàn cách con người và bản chất
tốt đẹp của xã hội xã hội chú nghĩa. Bên cạnh đó, khi sự chênh lệch giàu -
nghèo quá lớn sẽ dẫn tới mâu thuẫn giữa nhóm người giàu và nhóm người
nghèo, thậm chí có thể gây nên sự bất ổn về chính trị, làm giảm niềm tin của
nhàn dân đối với chủ nghĩa xã hội và chệch hướng xã hội chú nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng.


<i>Thử ba,</i> trong cùng một chế độ xã hội, nếu thu nhập có sự chệnh lệch
một cách thái quá thì sự chênh lệch đó sẽ “tác động tiêu cực đến phàn công
lao động xã hội và tâm trạng quần chúng, nhất là giới trí thức và cơng nhân kĩ
thuật" [xem: 49, tr. 18]. Một bộ phận làm ăn phi pháp, tham nhũng có cuộc
sống xa hoa, trong khi những người làm ăn chính đáng, lao động lương thiện
thì đời sống khó khăn, thiếu thốn- đó là vấn để nhức nhối của xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

đèn thu nhập khác nhau, ơ nước ta hiện nay, chế độ phăn phối chủ yếu vẫn
dựa trên phân phổi theo lao động trong các thành phần kinh tế lấy sở hữu công
cộng làm nền tảng. Song, việc con người khác nhau về năng lực sẽ có kết quả
lao động khác nhau và kéo theo đó là thu nhập khác nhau. Đó là điều mà
chúng ta không thể khơng tính đến. Do vậy, để hạn chế sự phân hoá giàu-


nghèo giữa những người lao động chính đáng,chúng ta cần phải tập trung đào
tạo nguồn nhân lực có khả năng lao ngang nhau để thu nhập của họ ít có sự
chênh lệch. Đãy cũng là một vấn đề đật ra do sư phàn hoá giàu- nghèo. Do tồn
tại đa dạng các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nên quan hệ sản xuất cũng
không thuần nhất. Do đó, ngồi phân phối theo lao động, ở nước ta hiện nay
còn phân phối theo tài sản, theo vốn đóng góp. Nguồn vốn, tài sản đóng góp
của mỗi người là khác nhau và do vậy thu nhập của họ cũng khác nhau. Mặt
khác, nền kinh tế nước ta hiện nay rất cần vốn, do đó, chúng ta chủ trương huy
động các nguồn vốn (trong nước, ngoài nước) để phát triển sản xuất, từ đó
xuất hiện kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài....Đây cũng
là một yếu tố làm cho khoảng cách giàu - nghèo tăng lên. Điều này, đến lượt
nó, cũng đặt ra cho chúng ta những vấn đề cần phải giải quyết.


Nếu tình trạng phân hoá giàu - nghèo có ý nghĩa như vậy, thì chẳng có
gì phải lo ngại và đáng phải bàn tới. Thế nhưng, chúng ta sẽ nói gì khi trong
cùng một xã hội mà sự giàu có tồn tại bên cạnh sự nghèo khổ của con người,
nhất là khi khoảng cách giàu và nghèo ngày càng có xu hướng tãng lên và trở
thành nguy cơ làm cho hai thái cực người giàu và người nghèo ngày cách xa
nhau?


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

người. Nhưng, phân hoá giàu- nghèo còn hao gồm cả nguyên nhân không tất
yếu (không chính đáng). Nguyên nhân này cũng thể hiện một cách rất đa
dạng. Cháng hạn, trong kinh tế thị trường đã có những chú thể kinh tế sử dụn°
mọi thủ đoạn không hợp pháp như trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả để giành
ưu thế cạnh tranh nhàm thoả mãn mục đích lợi ích kinh tế của mình. Một bộ
phận khác lợi dụng khe hở cua pháp luật nhà nứơc, sự lỏng léo trong quản lý
ở một số cơ quan chức năng để làm giàu bất chính, tham nhũng, chiếm đoat
tài sản công. Theo tổng cục Thống kê, chí số tham nhũng ỏ nước ta (2004) đã
xếp thứ 102/146 và kèm theo chỉ số lãng phí ở mức rất cao so với tổng số nước
được thống kê.



<i>Thứ sáu,</i> để xoá bỏ sự bất công bằng xã hội, trước hết phải xoá bỏ
những nguyên nhân đưa đến sự phân hoá giàu-nghèo phi lý, xoá bỏ sự cào
bằng, không hạn chế số người giàu nhưng phải làm cho những người nghèo
ngày càng khá lên. Khi đó phân hoá giàu- nghèo hợp lí theo nghĩa của việc
thực hiện công bằng xã hội sẽ trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế- xã


<i>Thứ bảy,</i> một bộ phận dân cư khác giàu lên nhanh chóng nhờ chính
sách quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm của Nhà nước. Những cư dân sinh
sống ở các địa bàn, khu vực nằm trong vùng quy hoạch phát triển công nghiệp
của Nhà nước thường có mức sống khá hơn cư dân ở những vùng khác. Do
vậy, ngay trong chính sách quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm của Nhà
nươc cũng có vấn đề đặt ra cần phải giải quyết để góp phần khắc phục tình
trạng phân hố giàu-nghèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

lịch sử - cụ thể của đất nước.


<i>Thứ chín,</i> nguy cơ tái nghèo có khả năng sẽ xuất hiện nếu ta khơng
nhanh chong tìm ra hướng đi đúng trong việc tăng trưởng kinh tê làm giàu cho
đàt nước. Khi tái nghèo xuất hiện sẽ là nguyên nhãn làm cho phán hoá giàu-
nghèo tiếp tục mở rộng cả về sô lượng và mức độ. Chảng hạn như việc chuyển
đổi đất nông nghiệp làm cho nông dàn mất ruộng đất, họ phải sống bằng một
nghề khác không ổn định, và mặc dù họ có thê được đền bù khoản vật chất
tương ứng nhưng đó khơng thể là phương thức cho sự tón tại và phát triển lâu
dài. Một điểm nữa cũng khiến ta phải quan tâm là những người giàu nếu
không sử dụng kinh tế của mình đúng mục đích, khơng biết tính tốn, chi tiêu
cũng có thể lại bị nghèo đi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

chien lược phat tnên kinh tế-xã hội của đất nước. Trong đó, chính sách xố
đoi giam ngheo phai được coi là một hướng ưu tiên. Bên canh đó, sơ người


giau do thu nhập khơng chính đang là vấn đề nhức nhối của xã hội, vì vậy cần
có sự quan lý cua nhà nước và hệ thông pháp luật chặt chẽ, nghiêm minh để
ngăn chặn tình trạng phân hố giàu-nghèo này.


<b>2.2. Một sô giải pháp khắc phục sự phàn hoá giàu - nghèo ở nước</b>
<b>ta hiện nay</b>


Làm gì để trong xã hội khơng có phân hố giàu-nghèo và để tất cả mọi
người cùng được hưởng lợi ích từ các dịch vụ xã hội một cách công bằng?
Làm thê nào để hêt nghèo và trở nên giàu có? Giàu đến mức nào mới thoả
đáng? Càu hỏi này có lẽ ln hiện diện trong mỗi con n^ười khi phải đối mặt
với thực tế cuộc sống, nhất là khi phải lo từng miếng cơm manh áo. Người
nghèo thường muốn vượt lên nghèo, người giàu rồi nhưng vẫn muốn giàu hơn
nữa. Khi người nghèo đã được “tạm coi là giàu" thì lúc đó, những người giàu
trước sẽ lại tiến thêm một bước, thậm chí cịn làm cho khoảng cách giàu-
nghèo càng dãn ra. Vậy làm sao để trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang ra sức xây dựng tránh được tình trạng này?


ở Việt Nam, tâm lí mưu sinh vượt đói nghèo đã từng thể hiện qua các
thành ngữ, tục ngữ dàn gian: “Nghèo đan thúng, túng đan nong", và dù nghèo
đến mấy cũng phải giữ gìn nhân cách để “đói cho sạch, rách cho thơm". Trong
thời đại bùng nổ kinh tế hiện nay, vấn đề làm giàu, thoát nghèo và vươn tới
những giá trị văn minh của xã hội con người liệu có cịn nguyên cách làm giàu
chân chính ấy? Với thực trạng phàn hoá giàu- nghèo của nước ta hiện nay,
chắc chắn cần những giải pháp nhất định, cụ thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

chơng đói nghèo trên mặt trận đò thị trong phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, đói
ngheo vủn đang tôn tại song song với sự phân hoá giàu- nghèo.


Khăc phục phân hố giàu - nghèo ln đòi hỏi một hệ thống giải pháp


đồng bộ. Dù trong thực tiễn đã có nhiều chính sách của Nhà nước được thực
hiện đê khăc phục phân hoá giàu- nghèo, song theo chúng tôi, chúng ta vẫn
cần phải thực hiện tốt hơn các giải pháp sau:


<i>2.2.1. </i> <i>Đây mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thôn</i>


Trên thê giới hiện nay vẫn còn khoảng 60% dàn số các nước đang phát
triển- khoảng 3 tỷ người- sống ở khu vực nông thôn [xem: 45, tr. 13]. Đối với
những người dân nghèo thì nơng nghiệp vẫn là nguồn chủ yếu mang lại sự
sống cịn cho họ. Chính vì vậy, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thôn đã được coi là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự đói
nghèo và phân hố giàu - nghèo ở các nước nói chung, ở nước ta nói riêng.


Với thực trạng phàn hoá giàu-nghèo ở nước ta nói trên, chúng ta thấy,
đa sổ người nghèo tập trung ở vùng nông thôn, nếu chúng ta không tạo ra điều
kiện và cơ hội để họ thoát nghèo, làm giàu, sẽ dễ dẫn tới tình trạng họ đổ dồn
về đô thị và có thể gày khó khăn cho sự phát triển của đơ thị, thậm chí gây ra
những tệ nạn xã hội, thậm chí dẫn tới làm giàu bất chính. Vì vậy, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn là hết sức cần thiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

tang trương VỚI mức khá cao. Bình quân giá trị sản xuất nông- lâm - ngư


nghiẹp 5 năm ( 2001- 2005) đạt khoảng 5,1%, vượt 0,3% so mức dự kiến mà
Đại hội làn thứ IX cúa Đảng đề ra hết năm 2005 là 4,8%. Cơ cấu kinh tế nống
nghiẹp va nong thôn chuyên dịch theo hướng tích cưc góp phần nâng cao đời
sông vật chất và tinh thần ở nông thôn. Theo tiêu chí hiện hành, tỷ lệ sô hộ
nghèo giảm khá nhanh, từ 14,5% năm 2001, giảm xng cịn 8,31% năm
2004 [xem: 30, tr. 15]. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng nghiệp, nơng thơn ở nước ta còn nhiều bất cập. Nhiều nguồn
tiềm năng to lớn trong nông nghiệp, nông thôn chưa được khai thác; cơ cấu


kinh tế chuyển dịch chậm, thiếu vững chắc; công tác đầu tư khoa học, công
nghệ và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật còn chậm, phân tán; giá trị sản lượng còn
thấp so với các nước; công tác quy hoạch xây dựng hạ tầng ở nông thôn và
khu dàn cư đơ thị cịn nhiều yếu kém; chính sách khuyến khích các loại hình
doanh nghiệp về nông thôn chưa đồng bộ; việc làm cho nơng thơn vẫn cịn là
vấn đề bức xúc; phát triển kinh tế gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường chưa


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, thực trạng phát triển khoa học và
cơng nghệ trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng
thơn, về cơ bản, còn nhiều hạn chế. Phương thức và công cụ sản xuất cúa các
làng nghề, các cơ sở nịng nghiệp cịn lạc hậu, mang tính thủ cơng. Xét về “Tỷ
lệ cơ khí hố của nghành công nghiệp chế biến nông sản mới đạt khoảng 40%
thiết bị cũ, lạc hậu từ 3-4 thế hệ; trình độ lao động có chuyên môn kỹ thuật ở
các làng nghề nông thôn chỉ bằng 25-30% so với các cơ sở ở thành thị, 63%
công việc được thực hiện bằng phương pháp thủ công" [ 25, tr.15-16]. Do vậy
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thực chất
phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn.


Những năm gần đây, sản lượng nông nghiệp ở nước ta đã tăng 4,3%/
năm, năm 2004 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản đạt 4 tỷ đô-la. Việt Nam
được đánh giá là nước xuất khẩu hàng đầu về gạo, càfê, cao su, hạt tiêu... Tuy
nhiên, các sản phẩm nơng nghiệp cịn kém về chất lượng, nên khó đi vào thị
trường các nước phát triển. Việc chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, phát
triển chế biến nông sản...diễn ra với tốc độ chậm, lao động ở nơng thơn cịn
thiếu việc làm đã cản trở tăng năng xuất lao động và do vậy, thu nhập của
người nông dân chưa được cải thiện nhiều.


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được là những hạn chế cần khắc phục
bằng cách tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đổi mới việc phát triển
các thành phẩn kinh tế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và cơng nghệ trong tiến


trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.


Trong tiến trình đổi mới, đặc biệt là từ những năm 90 của thế kỉ XX trở
lại đây, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng
nghiệp nơng thơn. Với chủ trương đúng đắn đó, đời sống của đại bộ phận
nông dân Việt Nam được cải thiện. Từ chỗ thiếu ăn, phải nhập khẩu lương
thực nước ta đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới
(sau Thái Lan). Ngồi ra, chúng ta cịn xuất khẩu một số lượng lớn các loại
nông sản khác, như cà-phê, điều, chè, V .V .. Điều đó đã góp phần cải thiện đời


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

năng tiềm tàng cúa nó nhằm khắc phục phân hoá giàu-nghèo, chúng ta cần
tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơn° thơn.


Báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: Chúng ta cần
tiếp tục tăng cường sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho cơng nghiệp hố,
hiện đại hố nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông - lâm -
ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng những tiến bộ khoa học
và công nghệ, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên
đơn vị được tính; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nơng sản hàng hố, đẩy mạnh
thuỷ lợi hóa, cơ giới hóa và áp dụng công nghệ sinh học. Đầu tư nhiều hơn
cho phát triển hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, phát triển công nghiệp
dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ
nơng nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ, tạo nhiều việc làm, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn. Với
tinh thần đó, chúng ta cần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, đẩy mạnh
ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến. Trong đó, cần chú ý phát triển
công nghệ sinh học nhất là công nghệ gen để tạo năng suất đối với cây trồng,
vật nuôi. Đồng thời, gắn quy hoạch tổng thể với chuyển dịch cơ cấu cây trổng,
vật nuôi và phàn bổ nguồn lực hợp lý. Trong đó, chú ý xây dựng các khu công


nghiệp chế biến, công nghệ sau thu hoạch và các hoạt động dịch vụ để nâng
cao giá trị hàng hố nơng nghiệp, ưu tiên cho khu vực trọng điểm và ưu tiên
xuất khẩu; phục hồi, phát triển các làng nghề và tiểu thú công nghiệp ở nông
thôn; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý và
tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và khôi phục môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học. Bên cạnh đó, phát triển sản xuất nông nghiệp phải hướng ra
xuất khẩu nhằm đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới;
đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Qua đây, tạo điều kiện nâng cao thu nhập
cho nông dân, giúp họ cải thiện đời sống và thốt khỏi nghèo đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

ngn nhân lực nói <b>ch u n g , </b>nguồn nhân lực nông nghiệp nói riêng, được xem
la yêu tô cơ ban nhât trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
nơng nghiệp, nơng thơn. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp có
ảnh hưịng lớn và qut định sự thành bại của quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, trên thực tẽ sự phát triển
nguồn nhân lực ở nông thôn nước ta còn nhiều hạn chế. Gần đây, mức đầu tư
của nhà nước cho khoa học còn thấp so với các nước trong khu vực đã dẫn tới
nguồn lực có chất lượng kém. Chẳng hạn, chi phí bình qn cho một cán bộ
khoa học - công nghệ ở mức dưới 1000 đô-la, trong khi Nhật Bản là 194.000
đố-la và của Thái Lan là 18.000 đô-la [ dẫn theo: 15, tr. 18]. Chi số tổng hợp về
chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của Việt nam mới đạt 3,79 điểm - tính
theo thang điểm 10 [24, trl 8]. Do vậy, tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực ỏ nông thôn là vấn đề cấp bách, có tầm quan trọng hàng đầu
trong công tác xố đói giảm nghèo, hạn chế phân hố giàu - nghèo.


Cùng với đó, <i>chúng ta cần phủi tạo điều kiện cho người nghèo ở các</i>
<i>vùng nơng thơn có khả năng thốt nghèo và có thu nhập khá.</i> Để làm được
điều này, trước hết, chúng ta cần hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu tập
trung với quy mô hợp lý ờ từng khu vực để giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người nơng dân.



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

vay vơn cịn khó, khơng được vay nhiều, các khoản vay lại ngắn hạn, thị
trương va gia ca nông sản chưa ổn định nên khó hoạch định cơ cấu đầu tư.
Cơ chê chính sách đôi với trang trại chưa đồng bộ và chưa khuyến khích được
chủ trang trại đầu tư sản xuất (chưa miễn thuê sứ dụng đất; khoa học và công
nghệ chưa được đầu tư thoả đáng. Chúng ta chủ trương khuyến khích mọi
người giàu làm giàu. Việc hạn chế khoảng cách giàu- nghèo bàng cách này
không phải bằng việc san đều của cải của người giàu, cũng không phải triệt
tiêu động lực làm giàu của họ, mà chúng ta cần tạo ra các cơ hội để người giàu
tham gia và qua đó, thu hút được sự đầu tư của họ, như đầu tư xây dựng các
cơng trình cơng cộng để phục vụ cho mọi tầng lớp dân cư trong xã hội; dùng
một phần để hỗ trợ trực tiếp cho các hộ quá nghèo, khó khăn đột xuất do thiên
tai gây ra.


Để tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá nơng nghiệp,
nơng thơn góp phần đáng kể vào việc khắc phục tình trạng phân hố giàu -
nghèo ở nước ta hiện nay, chúng ta cần <i>tiếp tục đổi mới chính sách kinh t ế vĩ</i>
<i>mô nhằm tạo điều kiện cho đồng bào nghèo phát triển kinh tế, nâng cao thu</i>
<i>nhập.</i> Thực hiện sự đổi mới này, trước hết chúng ta phải đổi mới và nâng cao
hiệu quả hơn nữa các chính sách, như chính sách đất đai, chính sách đầu tư,
chính sách tín dụng, khoa học và công nghệ cho các vùng nơng thơn, chính
sách bảo trợ tài nguyên, môi trường. Qua đây, người nơng dân có cơ hội phát
huy khả năng của mình để tăng thu nhập, cải thiện đời sống, thoát nghèo và
một khi họ giàu lên, tình trạng phân hố giàu - nghèo sẽ được cải thiện.


<i>(</i>

<i>222</i>

<i>) Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách xã hội</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

chế độ tiền lương cho khu vực nhà nước. Thực hiện chế độ phàn phối theo lao
động. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập của người mẹ và
của thanh thiếu niên. Chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em. Phải thật sự coi


việc giảm tốc độ tăng dân số là một quốc sách. Thiết lập một hệ thống đồng
bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội. Có chính sách thích đáng đối với
các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, cán bộ lão thành, những người về
hưu. Chăm lo đời sống của người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và
trẻ mồ côi [xem: 16, tr.14].


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

độ người lao động là giải pháp phù hợp nhầm khắc phục phân hoá giàu-nghèo.
Trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển kinh tê - xã hội của đất nước,
hiệu quả của cơ chê và chính sách đổi mới trona lĩnh vực lao động, việc làm
hàng năm tăng nhanh, trung bình mỗi năm tạo việc làm cho khoảng từ 1,4 đến


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

phân hoa giau - nghèo, chính sách tạo việc làm cho người lao động cần phủi
được tiep tục thực hiện một cách có hiệu quả hơn nữa, chú trọng vào việc mở
rộng các ngành nghề ớ các thành phần kinh tế, cơ sở sản xuất và dịch vụ; phát
triên công tác dạy nghề, mạng lưới dịch vụ việc làm; khỏi phục phát triển các
làng nghề; đẩy mạnh xuất khẩu lao động, V .V ..


<i>Củng với việc thực hiện chính sách tạo việc làm cho người lao động,</i>
<i>chúng ta cần phải thực hiện nhất qn chính sách xố đói, giảm nghèo.</i>


Trong lịch sử nước ta, nạn đói ở miền Bấc nãm 1945 để lại hậu quả hết
sức nặng nề mà cho đến nay, nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nạn đói nghèo kém nguy hiểm hơn chiến
tranh. Vậy mà trong 6 năm chiến tranh nước Pháp chỉ có một triệu người chết,
nước Đức chí có chừng 3 triệu dân chết. Thế mà nạn đói ở Bắc Bộ chỉ có nứa
năm, ta đã chết hơn hai triệu người"[39, tr.93]. Với hậu quả đó, Người đã huy
động nhân dân ta chia sẻ trách nhiệm xố đói, giảm nghèo, giúp đỡ nhau trong
cuộc sống. Trên thế giới hôm nay, Hội nghị thiên niên kỉ đầu tháng 9-2000
của Liên Hợp Quốc tại Oasinhtơn (Mỹ) đã khẳng định chống đói nghèo là một
trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đổng quốc tế trong thế kỉ XXI. Theo


báo cáo của FAO ( Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc), mặc
dù sản lượng ngũ cốc thế giới đạt mức kỉ lục 2,04 tỉ tấn năm 2004 nhưng an
ninh lương thực ở nhiều nước và một sô' khu vực vẫn đang là một thách thức
lớn do sản lượns lương thực toàn cầu phân bô' không đồng đều; dự đốn sản
lượng ngũ cốc tồn cầu năm 2005 đạt 1,97 tỷ tấn. Cộng đồng quốc tế sẽ đối
mặt nguy cơ khủng hoảng lương thực nếu không phối hợp hành động khẩn cấp
bảo đảm an ninh lương thực, xoá đói, giảm nghèo. Báo cáo của Liên Hợp
Quốc về phát triển con người năm 2005 khẳng định nghèo khổ và bất bình
đẳn° sẽ trở thành các nguy cơ thúc đẩy xung đột và mất an ninh trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

giá cao triên vọng xố đói nghèo ở Đông Á, Nam Á, Bắc Phi, khẳng định các
khu vực này có khả năng đạt mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ nghèo đói vào năm
2015. Từ năm 1990 đên 2003, Trung Quốc đã giảm 43% số người nghèo.
Kinh doanh vừa và nhỏ chính là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tê, đẩy nhanh q trình xố đói, giảm nghèo ở khu vực này. Trong khi đó, một
sơ nước ở Tây Á, Nam Xahara, Mỹ la tinh và Caribè thậm chí đói nghèo còn
tăng lên. Theo ILO, khu vực Mỹ latinh và Caribê khó có thể đạt mục tiêu
MDGs vào năm 2015, do năng suất lao động, trình độ giáo dục, vốn đầu tư
thấp, tỷ lệ thất nghiệp cao, cải cách nông nghiệp chậm, môi trường xuống cấp,
phụ thuộc thị trường nước ngoài... Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển liên
Mỹ( BID), khu vực Mỹ la tinh hiện có 102 triệu người sống dưới mức nghèo
khổ đặc biệt là những nông dân sống tại các vùng đất khơ cằn khó canh tác.
Đây cũng là khu vực có sự phân chia của cải bất cơng nhất, khoảng cách giàu-
nghèo gia tăng nhanh nhất. Để đạt được MDGs như cam kết thì khu vực Mỹ la
tinh và Caribê phải đạt mức tăng trưởng kinh tế 6%/ năm, một thách thức rất
lớn khi tốc độ tăng trưởng bình quân của khu vực này trong suốt thập kỷ qua
là 2,8% / năm. Châu Phi hiện có 350 triệu người sống trong cảnh nghèo đói và
là châu lục có tốc độ thực hiện MDGs chậm nhất thế giới, nhất là ở phía nam
sa mạc Xahara. Từ năm 1981 đến năm 2001, số người nghèo ở khu vực Nam
Xahara tãng gần gấp hai lần. Những điểm nóng phải đối mặt tình trạng khẩn


cấp về lương thực trong năm 2004 là Êritơria, Burundi, CHDC CôngGô,
Êtiôpia, M ơdămbích, Dămbia; năm 2005 là Nigiê, Ảnggôla, Lêxêthô, Malauy,
Namibia, Dimba buê, Xoadilen. Châu Phi hiện đối mặt với gánh nợ nước
ngoài lên tới 330 tỷ đô-la và chỉ riêng số lãi phải trả hàng năm lên tới 15 tỷ
đô-la.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

hàng rào can trở hàng hoá các nước đang phát triển thâm nhập thị trường các
nước phát trièn. Liên Hợp Quốc đặc biệt nhấn mạnh việc chuyển giao công
nghệ thông tin, tín dụng nhỏ, chống tham nhũn? sẽ thúc đẩy thực hiện các
mục tiêu phát triển, bảo đảm cho các nước đang phát triển có cơ hội tham gia
đầy đú và tích cực vào hệ thống thương mại toàn cầu. Nhiều tổ chức phát triển
khu vực và quốc tê triển khai chiến dịch vận động xoá nợ cho các nước châu
Phi. Nhóm bảy nước cơng nghiệp phát triển( G7) nhất trí giảm và xoá nợ cho
các nước nghèo nhất thế giới. Uỷ ban châu Âu( EC) cũng thông qua một loạt
chương trình giúp đỡ nhân đạo trị giá 80 triệu ơ-rô trong năm 2005, tập trung
các lĩnh vực cung cấp nước sạch, thực phẩm, làm sạch môi trường sống, chăm
sóc sức khoẻ cộng đồng, xây dựng nhà ở, hồi hương người tị nạn dành cho
người dàn các nước châu Phi.


Liên Hợp Quốc đã triển khai dự án “Đầu tư cho phát triển", đề ra những
biện pháp nhằm giảm một nửa tỷ lệ người nghèo trên toàn cầu, ngăn chặn sự
lây lan HIV/ AIDS, bảo đảm mức giáo dục cơ bản vào năm 2015. Theo báo
cáo hàng năm của Liên Hợp Quốc, viện trợ cho phát triển của các nước giàu
đã lên tới 135 tỷ đô-la trong năm 2003 và sẽ tăng tới 195 tỷ đô-la trong năm
2015. Các nhà lãnh đạo trên thế giới cam kết giành 0,7% tổng sản phẩm quốc
gia( GNP) cho viện trợ phát triển quốc tế để thực hiện các mục tiêu trên. Liên
Hợp Quốc úng hộ các cải cách thương mại nhằm tạo sự bình đảng trong hoạt
động thương mại quốc tế, tăng cường chi phí cho y tế, giáo dục, phát triển
nông thôn, cải tạo nhà ở, nâng cấp hệ thống đường sá và nghiên cứu khoa học.



</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

quỏc tẽ tín dụng nhỏ đã mở ra triển vọng to lớn đối với người nghèo thông qua
việc khai thác tiềm năng của tín dụng nhỏ để cải thiện điều kiện sống và thực
hiện các chương trình kinh tế.


Bản thân chính phủ các nước có tỷ lệ nghèo đói cao trước hết phải tự
vươn lèn và tự hoạch định chính sách và biện pháp phát triển kinh tế, hỗ trợ
người dân trong nước, chính phủ Pê- ru phát động chương trình trợ giúp người
nghèo mang tên “Cùng nhau". Với mục tiêu hỗ trợ cho 3 triệu người chưa có
nước sạch, điện và các điều kiện vệ sinh cơ bản, giai đoạn đầu của chương
trình sẽ giúp đỡ 60 nghìn người nghèo nhất khoảng 30 đô-la/ tháng.


Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc C.An-nan, những thách thức đối với
tiến trình thực hiện các mục tiêu MDGs vẫn rất lớn. Tinh trạng mất cân đối
trong phát triển là một trong những thách thức lớn nhất đối với nỗ lực xố đói,
giảm nghèo. Các nước đang phát triển cần coi các mục tiêu này là nhữns ưu
tiên trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và các nước giàu cần gắn các
mục tiêu này với chương trình viện trợ phát triển [xem: 7].


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

tư nhân, tư đó tăng trướng kinh tê và tạo việc làm cho người lao động. Thúc
đây đâu tư vào con người thông qua việc giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn tới
giáo dục, y tê và đảm bảo tốt hơn quyền sở hữu tài sản dưới hình thức giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội cho biết, trong ba năm (2002-2004), tổng vốn đầu tư thực hiện các mơ
hình xố đói giảm nghèo là gần 175 tỷ đồng ở 83 xã thuộc 20 tỉnh [64, cập
nhật ngày 18/04/2005].


Xố đói, giảm nghèo là một chủ trướng lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những năm gần đày, chương trình này đã thu được nhiều kết quả đáng
khích lệ. Từ 1992-2004, tỉ lệ đói nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 30% xuống
còn 8,3%, dự kiến sẽ giảm xuống dưới 7% vào năm 2005. Trên địa bàn cả


nước, tính đến tháng 12-2004, có hai tinh và thành phố cơ bản khơng cịn hộ
nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24 tỉnh có tỷ lệ
nghèo chiếm 5-10%. Những xã nằm trong diện 135 (xã nghèo, xã đặc biệt
khó khăn) đã có nhiều biến chuyển rõ nét. Năm 1992 có 60-70% số xã nghèo
trong diện 135 thì đến 2004 giảm cịn khoảng 20-25%. Sự thay đổi ở những xã
nghèo khá toàn diện [65, cập nhật 27/04/2005].


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

thực cha tại 122 làng, xã của bày tinh, thành phò: Hà Giang, Hái Dương, Hà
Tĩnh, Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh và Trà Vinh.


Được thành lập từ năm 1972 tại Anh, ActionAid International là một tổ
chức phi chính phủ quốc tế, hiện có mặt tại 42 quốc gia để trợ giúp 13 triệu
người thuộc tấng lớp nghèo khổ trên thế giới. Có mặt tại Việt Nam từ năm
1989, trong lĩnh vực xố đói, giảm nghèo, các chương trình của tổ chức
ActionAid International Việt Nam( AAV) đều nhằm mục đích giúp những
người nghèo, nhất là phụ nữ, trẻ em và cộng đồng các dân tộc thiểu số, phát
triển kinh tế và cải thiện vị trí xã hội. Đến nay AAV đã xây dựng được 11
vùng dự án dài hạn từ Bắc vào Nam, hầu hết tập trung ở các địa bàn khó khăn
và xa xơi nhất. Tính trung trên toàn quốc đã có gần 100 xã thuộc 22 tính,
thành phố, với tổng sổ hơn 60 n°hìn hộ gia đình nehèo được hưởng lợi trực
tiếp từ các chương trình phát triển của AAV.


Trong cơng trình nghiên cứu bảo đảm tính bền vững của các mục tiêu
phát triển thiên niên kí( MDG) tại Việt Nam, AAV đề xuất một sô' giải pháp
để thực hiện tốt hơn MDG trong giai đoạn 2006- 2010. AAV khảng định, với
những nỗ lực của các cấp chính quyền, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong
cơng cuộc xố đói, giảm nghèo tại Việt Nam, tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam đã
giảm từ 26,5% trong năm 2000 xuống còn 18,5% năm 2004. Tuy nhiên tình
trạng tái nghèo còn tiếp diễn, sự chênh lệch giàu- nghèo còn gia tăng trong
cộng đồng, giữa thành thị và nông thôn. Các tổ chức trên đánh giá cao những


giải pháp của Chính phủ giúp người dân tiếp cận ngày càng tốt hơn các dịch
vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục, nước sạch...


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

trong ca nước có xu hướng tăng số người bị lây nhiễm tập trung ở độ tuổi lao
động tre, ước chiêm khoảng 65% sô người bị lày nhiễm.


Trong lĩnh vực môi trường, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu
đáng kế như tăng độ che phủ của rừng từ 8- 10% lên 25- 44%. Người dân đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc trồng rừng và bảo vệ rừng. Song cần
quan tâm một thực tế là môi trường nông thôn bị ô nhiễm vì rác thải, nước
sinh hoạt, chất thải chăn nuôi chưa có phương thức xử lý thích hợp, mới có
50% số hộ gia đình <i>ở</i> nông thôn được dùng nước sạch, nhiều địa phương ở
đồng bằng sông Hồng, nơi được đánh giá có tỷ lệ hộ dùng nước sạch cao nhất
trong cả nước( khoảng 85%), vẫn còn nhiều làng quê phải sử dụng nước sông,
hồ cho sinh hoạt.


Báo cáo của các tổ chức trên khẳng định, trong điều kiện của một nền
kinh tế đang phát triển, Việt Nam đã đạt được những chỉ số quan trọng trong
xố đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, bình đẳng giới,... tạo đà thuận lợi để
đạt được những tiến bộ hơn nữa, đảm bảo phát triển kinh tế với tốc độ tăng
trưởng cao [xem:6]


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

cùa Nhà nước về xố đói giảm nghèo một cách có hiệu quả hơn nữa, trong đó
lưu ý việc thực hiện một cách kiên quyết chính sách định canh, định cư cho
đổng bào. Đưa cán bộ xuống vùng nghèo hướng dẫn, giúp đỡ người dân cách
tô chức sản xuất và đời sống. Cần nâng cao năng lực cho cán bộ cấp xã và tổ
chức cộng đồng để họ có thể thực hiên các quyển và trách nhiệm của mình
một cách hiệu quả nhất. Tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các nội
về chương trình việc làm, vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế, văn hoá... nhằm
tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần hạn chế phân hoá giàu-nghèo. Bảo đảm


phát triển nông thôn bền vững phải được coi là một yêu cầu bức thiết.


<i>2.2.3. </i> <i>Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo, nâng cao trình độ chun</i>
<i>mơn cho người lao động</i>


Không phải ngẫu nhiên mà Ph.Ảng ghen đã khẳng định rằng: “Một dân
tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao cúa khoa học thì khơng thể khơng có tư
duy lý luận". Lịch sử nhân loại hiện đang chứng minh thêm một lần nữa rằng,
sự giàu có và sức mạnh của một đất nước không chỉ thể hiện ở sự giàu có về
vật chất, m à còn thể hiện ở sự giàu có về trí tuệ, ở sức mạnh tinh thần do trí
tuệ đó mang lại. Ngay cả các loại sức mạnh, như sức mạnh của quyền uy, của
bạo lực và sức mạnh của tiền bạc đã từng thống trị trong những giai đoạn nhất
định của lịch sử loài người thì sau chúng, bao giờ cũng có bóng dáng của sức
mạnh trí tuệ.


Nếu nhìn nhận vấn đề phàn hố giàu- nghèo chí dừng ở sự kiện kinh tế,
chỉ đo đếm đến mức thu nhập bình quân đầu người để nhận diện về mức giàu
và nghèo thì điểu đó chỉ có thể dựng lên một bức tranh nhợt nhạt và khô cứng
của một mảng xã hội mà không thể nói lẽn được sự sôi động của cuộc sống
con người, của sự phát triển bền vững đối với cộng đồng người nói riêng và
của xã hội nói chung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

Sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước ớ nước ta hiện nay
phụ thuộc chủ ycii vào chất lượng của nguồn lực con người. Thực chất của
công nghiệp hố là q trình chuyển dổi căn bản, toàn diện các hoạt động
kinh tê xã hội từ sử dụng lao động thú cơng là chính sang sử dụng một cách
phô biên sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên
tiên, hiện đại, tạo ra nãng suất lao động xã hội cao. Để đáp ứng yêu cầu đó,
địi hỏi người lao động phải có một trình độ tương ứng với công nghệ tiên tiến.
Mặt khác, chúng ta đều biết, con người là yếu tố hàng đầu cúa lực lượng sản


xuất, con người vừa với tư cách là người sáng tạo ra tư liệu sản xuất, vừa là
người sử dụng tư liệu sản xuất, trình độ của tư liệu sản xuất phản ánh trình độ
của lực lượng sản xuất. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu này, ngoài tư chất ban đầu
ờ mỗi người, vai trò chứ yếu thuộc về giáo dục, đào tạo, vì giáo dục và đào tạo
là phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn. Và cũng
từ đây, giúp con người có những nhận thức đúng để vươn lên làm giàu một
cách chính đáng. Thực tế của các nước có thành quả cao về kinh tế ờ Đông Á
là một minh chứng khẳng định, rằng muốn nâng cao mức sống, đấy nhanh tốc
độ tăng trường kinh tế chỉ có một con đường là xây dựns một xã hội học vấn
cao. Giáo dục và đào tạo là biện pháp khơng gì thay thế để thực hiện tăng
trường kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằn° xã hội nói chung, ở
nơng thơn nói riêng (nơi có nhiều người nghèo sinh sống), để hạn chế tình
trạng phân hoá giàu- nghèo, là chiếc cầu vững chắc đưa một nước nghèo nàn
lạc hậu tới giàu có, văn minh hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

càng khăng định, cùng với nhiều biện pháp khác thì đổi mới, phát triển giáo
dục va đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo có
nghía là đâu tư cho phát triển, nói cách khác, đầu tư vào con người có thể
châm dứt cái vòng luẩn quấn của sự nghèo khó để giúp con người thốt nghèo
vươn tới giàu, hạn chê khoảng cách giàu- nghèo.


Khi nguồn lực con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển của
mơi quốc gia, thì <i>“phát triển giáo dục- đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định</i>
<i>chất ìượtĩg con người, lả nên tàng của chiến lược con người"</i> [57, tr.560].


Nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước,
nhưng tốc độ nâng cao dân trí ở nước ta cịn chậm, mặt bằng dân trí thấp, số
người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cịn ít, điều này dễ làm cho đất
nước tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
và làm tăng thêm tình trạng phân hố giàu- nghèo. Do vậy, một mặt chúng ta


phải nâng cao trình độ học vấn, năng lực trí tuệ, kĩ năng, trình độ nghề nghiệp
cho người lao động, nhất là phải đặc biệt quan tâm đến đội ngũ lao động chất
xám, khai thác tiềm năng trí tuệ của cả dân tộc. Mặt khác, phải bồi dưỡng
năng lực cán bộ quản lý và lãnh đạo ở các cấp, nhất là ở các vùng sâu, vùng
xa, ở địa phươns. thôn xã, phải không ngừng nâng cao trình độ học vấn các
bậc học cho đồns bào nghèo .


Để phát triển nguồn lực con người nói chung, khơi dậy năng lực của
người nghèo nói riêng trong việc khắc phục tình trạng phân hố giàu - nghèo
nói trên, trước hết:


Tiếp tục nàng cao mặt bằng dân trí tối thiểu làm cơ sở. Cụ thể là phải
xoá mù, thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học <i>'ờ</i> nông thôn để làm cho mọi
người dân, nhất là những người nghèo có quyền “sở hữu trí tuệ", bên cạnh
quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài và một số vốn ban đầu, và như vậy,
sẽ tạo ra cơ hội đưa lại sự bình đẳng cho họ trong cuộc sống của bản thân và
gia đình, làm cho họ “ngang bằng" với người giàu trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

thúc đây quá trình tăng trương kinh tế và tiến bộ xã hội. Mặt khác, tăng cường
đâu tư phát triến giáo dục- dạy nghề để nàng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Vi khi người lao động có tay nghề , có trình độ chun môn cao sẽ là giá trị tỷ
lệ thuận với thu nhập cao và có lợi thế để chiếm lĩnh được thị trường lao động,
tạo cơ hội làm giàu chính đáng cho bản thân và xã hội, hạn chê tình trạng
phân hố giàu - nshèo.


Thực hiện chính sách xố đói giám nghèo phải đi liền với chính sách


<i>đên ơn đáp nghĩa đối với người có cơng lao với cách mạng, với đất nước. Đẩy</i>
<i>mạnh công tác dân sô kê hoạch hố gia đình, điều chỉnh chính sách lương</i>



cho người lao động và những người đã nghỉ hưu nhằm giảm mức chênh lệch
trong đời sống sinh hoạt của họ để đảm bảo cho tất cả mọi người cùng hưởng
những giá trị từ các dịch vụ một cách công bằng.


<i>2.2.4. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và hệ thống pháp luật</i>


Chúng ta đều biết, mơ hình kinh tế tổng quát ở nước ta là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi chúng ta lựa chọn mơ hình kinh tế
đó, cũng đồng thời phải chấp nhận cả mặt trái của nó. Phán hoá giàu-nghèo lại
là một hiện tượng tất yếu không thể tránh khỏi trong nền kinh tế này. Do vậy,
tất yếu khơng thể thiếu đi vai trị quản lý của nhà nước và sức mạnh cưỡng chế
của pháp luật để đảm bảo cho nền kinh tế đi đúng hướng và hạn chế tình trạng
phàn hố giàu - nghèo nói trên.


Phạm vi quản lý của Nhà nước ta và đối tượng điều chính của hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa rất đa dạng, nhưng ở đây chúng tơi chí muốn nhấn
mạnh đến sự quản lý, điều chinh về mặt kinh tế ở góc độ thu nhập, làm giàu
và tệ nạn xã hội bức xúc nhất hiện nay đó là vân đề tham nhũng. Vì đây cũng
chính là một vấn đề hệ luỵ tới sự phân hoá giàu - nghèo ở nước ta hiện nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

lang phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhàn dàn, của bộ đội và cúa Chính
phu...Tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cô ý hay không cũng là bạn đồng
minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian,
mật thám . Tham ô là hành động xấu xa nhất của con người, tội lỗi đê tiện
nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm cùa công làm của tư.
Nêu nhà ai bị mất trộm, mất cắp thì hơ hốn lên và cả xóm, cả làng đuổi bắt
kẻ trộm. Khi của công bị mất thì mọi người đều có trách nhiệm vạch mặt kẻ
gian và đưa nó ra trước pháp luật" [37, tr. 268 - 269; 285, 290].


Để tiếp thu tư tưởng mà Người để lại và thực hiện nghiêm túc quan


điểm lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của chúng
ta trong cuộc chiến với “quốc nạn" tham nhũng- một nguy cơ trực tiếp có
quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị nước ta, tại Đại hội lần thứ
VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường
xuyên và có hiệu quả chống nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước, trong
các ngành, các cấp từ trung ưưng đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp
bách với những giải pháp có tầm chiến lược..., huy động và phối hợp chặt chẽ
mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thú
trưởng cơ quan, đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong
đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân"[ 18. tr. 46]. Tại Đại
hội IX, một lần nữa, Đảng ta đã nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng: Tãng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn
bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Gắn
chống tham nhũns với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các
hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính. Mặt khác, bổ sung, hồn
thiện các cơ chế, chính sách, quy chế, quy định của Đảng và nhà nước về quản
lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng
để làm giàu khơnơ chính đáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<i>bộ máy quyên lực</i> [13, tr. 16]. Chống tham nhũng có hiệu quả, chúng ta sẽ xoá
bo được tinh trạng của cải, tài sản đổ dồn vào một số người có quyền lực và do
vậy góp phần làm giảm khoảng cách giàu - nghèo giữa các bộ phận dân cư.


Như vậy, để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước và pháp luật, trước


Giữ vững và tãng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước, nàng cao chất
lượng hoạt động tư pháp. Xây dựng nền hành chính nhà nước dán chú, trong
sạch, vững mạnh; xây dựng, kiện tồn bộ máy chính quyền và cán bộ ở các


cấp có đủ năng lực, phẩm chất quản lý, giải quyết đúng thẩm quyền những
vấn đề kinh tế đặt ra; xây dựng và thực hiện nghiêm ngặt quy chế làm việc.
Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và có chế độ chính
sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.


Tiếp tục xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là ở những lĩnh
vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu. Kiểm sốt và đảm bảo
tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản cơng, tài chính
của Đảng, của doanh nghiệp nhà nước và các quỹ do nhân dân đóng góp, hay
do nước ngồi tài trợ.


Xử lý nghiêm minh những theo pháp luật và điều lệ Đảng những cán
bộ, đảng viên, công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi dụng chức quyền
để tham nhũng, đặc biệt đối với những cán bộ chủ chốt. Khen thường những
người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng.


Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức về chính trị, tư
tưởng, đạo đức cách mạng. Áp dụng hình thức lỷ luật thích đáng đối với
những người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn,
gây hậu quả nghiêm trọng [xem: 19, tr. 135-137].


Cải cách chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương,
chống đặc quyền, đặc lợi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

chính; kinh tê đối ngoại một cách hiệu quả để khuyến khích việc xuất, nhập
khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài nhằm nâng cao thu nhập cho nhân dân.


Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy, tham nhũng luôn gắn liền với quyền lực,
vì vậy chống tham nhũng “c/ztỉ <i>yếu và trước hết là chống tham nhũng trong</i>


<i>bộ máy quyền lực"[</i> 13, tr.16]. Chống tham nhũng có hiệu quả, chúng ta sẽ xố
bỏ được tình trạng của cải, tài sản đổ dồn vào một số người có quyển lực và do
vậy góp phần làm giảm khoảng cách giàu - nghèo giữa các bộ phận dân cư.


Trên đây là một số giải pháp mà theo chúng tôi, là cấp bách để hạn chế
tinh trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta hiện nay. Tiếp tục đổi mới giáo dục
và đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thôn sẽ tạo đà
cho lực lượng sản xuất phát triển một cách đồng đều, góp phần hạn chế
khoảng cách giàu - nghèo đang ngày càng gia tăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

KẾT LUẬN


Bước vào thê kỷ XXI, với xu thế tồn cầu hố kinh tế, hiện tượng phân
hoá giàu- nghèo đã trở thành vấn đề xã hội mà tất cả các quốc gia đều phải
quan tâm. Xuất phát từ thực trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta hiện nay,
dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,
nhìn nhận thực chất của phân hố giàu nghèo có mối quan hệ với vấn đề phân
tầng xã hội, nó phản ánh sự phân chia tài sản, biểu hiện qua sự chênh lệch về
thu nhập trong các tầng lớp dân cư. Với những tác động của phân hố giàu-
nghèo trên các góc độ thu nhập, chất lượng sống và tìm ra giải pháp nhằm hạn
chế tình trạng phân hoá giàu- nghèo theo hướng cải thiện và nâng cao chất
lượng cuộc sống, xoá nghèo, tăng giàu là hết sức cần thiết để thu hẹp khoảng
cách giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị.


Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định rằng, chủ nghĩa xã hội phải chứng minh được bản chất ưu việt của mình ở
chỗ đem lại sự thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu hợp lí và chính
đáng cho sự phát triển của con người. Nhận thức rõ tính tất yếu của con đường
quá độ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và nhân dân ta đã và đang quyết tâm


xây dựng một xã hội giàu mạnh, bình đẳng, văn minh với những thành tựu
ngày càng lớn.


Để khắc phục tình trạng phân hoá giàu- nghèo ở nước ta hiện nay, xuất
phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước ta đang trong quá trình đổi mới đất nước,


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, sự phân công lao động trở nên đa dạng và phức tạp, “chất
xám" trở thành tài nguyên mới và là tài sản của các quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. <i>Báo cáo phát triển của Việt Nam nủm 2000</i> (1999): <i>Tấn cơng nghèo đói</i>


báo cáo chung của nhóm cơng tác chun gia chính phủ


2. <i>Báo cáo phát triển Việt Nam 2004</i> (2003), Báo cáo chung của các nhà tài
trợ Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội


3. <i>Báo Điện</i> n?-Thời báo kinh tế Việt Nam (15/4/2005), số 75.


4. Báo <i>Nhân dân</i> (2005), Tập trung sức giải quyết việc làm và xố đói, giảm
nghèo, tr. 1-2 số 18177.


5. Báo <i>Nhân dân</i> số 18198 (26-4-2005), Sơ kết 3 năm thực hiện NQTƯ5
(khoá IX) về đẩy nhanh cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng
thơn, (tr. 1 và 5).


6. Báo <i>Nhân dân,</i> ngày 9/09/2005.
7. Báo <i>Nhân dán</i>, ngày 13/9/2005



8. Đỗ Thị Bình, Trần Thị Vân Anh (Đồng chủ biên - 2003), <i>Giới và công rác</i>
<i>giảm nghèo</i>, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.


9. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2001), <i>Văn kiện chương trình mục</i>
<i>tiêu Quốc gia xố đói giảm nghèo.</i>


10. Bộ Lao động, Thương binh Xã hội (2004), <i>Tài liệu rập huấn dành cho cán</i>
<i>bộ làm cơng rác xố đói giảm nghèo cấp tỉnh và huyện,</i> Nxb. Lao động
xã hội, Hà Nội.


11. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ( 2002 ), <i>Kỷ yếu Khoa học nghiên</i>
<i>cứii Kinh t ế nông nghiệp và phát triển nòng thôn</i> (1996 - 2002 ), Nxb.
Nông nghiệp, Hà Nội


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

13. Phạm Như Cương (1997), Tham nhũng và chống tham nhũng nhìn từ góc
độ nhà nước, Tạp chí <i>Triết học</i>, sơ' 2.


14. DAVIDS. LANDES (2001), <i>Sự giàu và nghèo của các dán tộc</i> Nxb.
Thống kê, Hà Nội


15. Đoàn Minh Duệ, Đinh Thế Định (2003), <i>Kết hợp giữa phát triển kinh tế</i>
<i>và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn Bắc Trung bộ trong q</i>
<i>trình Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá,</i> Nxb. Nghệ An.


16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), <i>Cương lĩnh xây dựng đất nước trong</i>
<i>thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,</i> Nxb. Sự thật, Hà Nội.


17. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), <i>Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc</i>
<i>giữa nhiệm kỳ khố VII,</i> Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), <i>Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần</i>
<i>thứ VIII,</i> Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), <i>Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần</i>
<i>thử IX,</i> Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


20. Mạc Đường (2004), <i>Nghèo đô thị và cuộc chiến chống đói nghèo ở thành</i>
<i>phơ'H ồ C hí Minh,</i> Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.


21. Lương Việt Hải (2002), Sự phân hoá giàu nghèo trong kinh tế thị trường
và các giá trị đạo đức ở nước ta, Tạp chí <i>Triết học</i>, số 8.


22. Nguyễn Thị Hằng (2001), Bước tiến mới của sự nghiệp xố đói giảm
nghèo, Tạp chí <i>Cộng sản,</i> số 5.


23. Trần Thị Hằng (2001), <i>Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh t ế thị trường ở</i>
<i>Việt Nam hiện nay,</i> Nxb. Thống kê, Hà Nội.


24. Nguyễn Đình Hồ (2004;, Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và
đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Tạp chí <i>Triết học,</i> sơ 1.


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i>Việt Nam,</i> Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.


27. Lê Trung Hiếu, (2004), <i>Kinh tế trang trại sau 4 năm thực hiện NQ03 của</i>
<i>Chính Phủ (2000- 2003),</i> Con <i>số</i> và Sự kiện, số 5, tr. 5-9


28. Nguyễn Dương Hùng (2002), <i>Vấn đề xố đói giảm nghèo đối với vùng</i>
<i>đồng bào dân tộc thiểu sô' miền núi nước ta hiện nay</i> Luận văn Thạc sĩ
triết học, Viện Triết học.



29. Nguyễn Thị Thanh Hương, Trần Thị Tuấn Anh và Nguyễn Anh Tôn
(2004), <i>Các báo cáo nghiên cứit về đào tạo cán bộ xã và thôn bán,</i> Bộ kế
hpạch và đầu tư (Chương trình đối tác hỗ trợ các xã nghèo (Pac). Hà Nội.
30. Phạm Thanh Hương (2005), <i>Cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp,</i>


<i>nơng thơn đê nâng cao đời sống nhân dân.</i> Thông tấn xã Việt Nam và thế
giới, số 1908, tr.l và tr.20.


31. Đỗ Thiên Kính (1999), <i>Tác động của chuyển đổi cơ cấu lao động nglìê</i>
<i>nghiệp xã hội đến phân tầng mức sống,</i> Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.
32. Đỗ Thiên Kính (2003), <i>Phân hố giàn- nghẻo và tác động của yếu tố học</i>


<i>vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam</i> (qua 2 cuộc điều tra
mức sống dân cư Việt Nam năm 1993, 1998), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.


33. V.I. Lênin (1977), <i>Toàn tập,</i> t. 39, Nxb. Tiến bộ Mátcơva.
34. V.I. Lênin (1978), <i>Toàn tập,</i> t. 43, Nxb. Tiến bộ Mátcơva.


35. C.Mác và Ph.Ảngghen (1995), <i>Toàn rập,</i> t.3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.


36. C.Mác và Ph.Ảngghen (2000), <i>Toàn tập,</i> t. 42, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

42. Hồ Chí Minh(1996), <i>Tồn tập,</i> t. 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
43. Ngân hang thê giới (2001), <i>Tăng trưởng kinh tẽ và phúc lợi hộ gia đình: các</i>


<i>bài học chính sách của Việt Nam-</i> Tài liệu hội thảo khoa học, Hà Nội.


44. Ngân hàng thê giới (2003), <i>Báo cáo phát triển tliếgiới 2004, cái thiện các</i>


<i>dịch VII đ ẻ phục vụ người nghèo,</i> Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
45. Ngân hàng thế giới (2005), <i>Atlas nhỏ vê'mơi trường</i>, Nxb. Văn hố Thơng tin, Hà


Nội.


46. <i>Niên giám Thống kê 2000</i> (2001), Nxb. Thống kê, Hà Nội.


47. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (1999), <i>Kinh t ế thị trường và sự phân hoá</i>
<i>giàu nghèo ở vùng dân lộc và miền núi phía Bắc nước ta,</i> Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.


48. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn Áng (Chủ biên - 2000J, <i>Giải</i>
<i>quyết vấn đề phân hoá giàu nghèo ở các nước và Việt Nam</i>, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.


49. Đỗ Nguyên Phương (Chủ biên), Mai Trọng Phụng, Đỗ Khánh Tặng
(1992), Cơ cấu xã hội, <i>Đề tài KX07- 0,</i> Hà Nội.


50. Đỗ Nguyên Phương (Chủ biên -1994), v ề sự phân tầng xã hội ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, <i>Đê tài KX- 07</i> — 05, Hà Nội.


51. Đỗ Nguyên Phương ( Chủ biên - 1995), Thực trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã
hội nước ta trong giai đoạn hiện nay, <i>Đê tài KX- 07- 05,</i> Hà Nội.


52. Hồ Sĩ Q (2005), Phát triển vì con người, xã hội, Tạp chí <i>Thơng tin Khoa</i>
<i>học,</i> số 4, tr. 23-24.


53. Nguyễn Sinh (2004), Thu nhập và phán hoá thu nhập, đời sống dán cư ở


nước ta (giai đoạn 2001- 2003), Tạp chí <i>Cộng sản,</i> số 17.


54. Nơuyễn Đình Tấn (1998), <i>Cơ cấu xã hội và phân ràng xã hội,</i> Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

56. Nguyên Văn Tiêm (1993), <i>Giàu nghèo trong Nông thôn hiện nay</i>, Nxb.
Nông nghiệp, Hà Nội.


57. Đặng Hữu Toàn (2002), <i>Chủ nghĩá Múc - Lênin và công cuộc đổi mới ở</i>
<i>Việt Nam,</i> Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


58. Tổng cục Thống kê (2001), <i>Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm</i>
<i>1991- 2000,</i> Nxb. Thống kê, Hà Nội.


59. Tổng cục thống kê (2002) <i>Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt</i>
<i>nam,</i> Nxb. Thống kê, Hà Nội.


60. Tổng cục thống kê (2004), <i>Niên giám thống kê 2003,</i> Nxb. Thống kê, Hà Nội.
61. Đoàn NhưTrác (2003), <i>Vì sao bạn là người nghèo,</i> Nxb. Cơng an Nhàn dân.
62. <i>Việt Nam hướng tới 2010</i> (2001), tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. <i>Việt Nam và Ngân hàng th ế giới cùng hành động vỉ một th ế giới không có</i>


<i>đói ngèo (2004),</i> Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội.


64. Website Đảng cộng sản Việt Nam WWW.CPV.GOV.VN, <i>Phát triển vì</i>
<i>người nghèo ở vùng núi phía Bắc</i> (22/12/2004); (12/4/2005); (18/4/2005);
(27/4/2005).


</div>

<!--links-->

<a href=''>WWW.CPV.GOV.VN,</a>
<a href=''>w w w . MOF.GOV.VN </a>

×