Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Nữ thần trong thần thoại Việt Nam: Giá trị và bản sắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nữ THAN TRONG THÂN THOẠI VIỄT NAM: </b>


<b>GIĨ TRÌ vn BỂN SÁC</b>

<sub>§</sub>


<i>Nguyễn Thị Huế*</i>



V [ ữ thần là một hệ thống nhân vật độc đáo trong thần thoại, nữ thần
^ có nhiều địa vị và thân phận khác nhau. Ngày Iiay, khi tiếp cận
một số thần thoại về nữ thần, chúng ta thường thấy nữ thần xuất hiện với
thân phận là vợ, con gái hoặc thuộc hạ của nam thần. Song đầy khơng hồn
tồn là diện mạo nguyên thủy của thần thoại về nữ thần.Trong những câu
chuyện thần thoại cổ xưa nhất của thế giới, song song bên cạnh các nam thần
là những vị nữ thần đảm nhiệm các chức vụ khác nhau như: Sinh ra con
người (thần Nữ Oa, Tây Vương Mầu - thần thoại Trung Hoa); Bảo hộ hôn
nhân và sinh đẻ (nữ thần Hera - thần thoại Hy Lạp, nữ thần Frigg - thần thoại
Bắc Âu); Nữ thần tình yêu và sắc đẹp (nữ thần Aphrodite - thần thoại Hy
Lạp, nữ thần Freyja - thần thoại Bắc Âu); nữ thần chiến tranh (nữ thần
Athena - thần thoại Hy Lạp)...


Chính đơng đảo các vị nữ thần này đã cùng với nam thần tạo nên một
thế giới thần thoại hoàn chỉnh. Hình ảnh các nữ thần thường xuất hiện bên
cạnh những nam thần nhằm tôn vinh tầm quan trọng của người phụ nữ trong
xã hội cổ xưa và làm phong phú thêm cho các câu chuyện thần thoại. Xét từ
diện mạo nguyên thủy đến những diễn biến của thần thoại nữ thần, chúng ta
sẽ thấy sự phản ánh tiến trình văn minh lịch sử của nhân loại. Bởi xã hội loài
người đã trải qua quá trình diễn tiến từ xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ,
thần thoại cũng trải qua quá trình từ kiểu thần thoại nữ thần sang kiểu thần
thoại nam thần. Vì vậy, nghiên cứu thần thoại về nữ thần - một bộ phận đặc


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

208

Van

h ó at h ờ

Nữ

t h ẩ n - MẴU ở

VlỆT

NAM VÀ CHÂU

Á



biệt trong thần thoại là một công việc cần thiết và có ý nghĩa khi nghiên cứu


về thần thoại nói chung.


Tham luận trên cơ sở khảo sát 3 hệ thống thần thoại tiêu biểu về nữ
thần của Việt Nam: Thần thoại về Nữ thần Lúa, thần thoại về Nữ thần Lửa,
thần thoại về Nữ thần Nước, để từ đó hình dung về diện mạo của nữ thần
trong thần thoại Việt Nam. Đồng thời cũng từ đó đi sâu tìm hiểu quá trình
diễn biến của thần thoại nữ thần, sự chuyển hóa của vị trí trung tâm từ nữ
thần sang nam thần, khuynh hướng thế tục hóa và ý thức tự ngã ở những vị
nữ thần này.


<b>1. Lúa - Nữ thần trong thần thoại về nguồn gốc cây lúa</b>



Nếu như ừong thần thoại Hy Lạp có thần Demeter (hay Ceres trong
thần thoại La Mã) là Nữ thần Nông nghiệp, hiện thân của sự tnàu mỡ, thì
trong thần thoại của Việt Nam - vị thần Lúa, vị thần cùa nền văn minh nông
nghiệp lúa nước cũng là một vị Nữ thần.


Thần thoại về cây lúa và Nữ thần Lúa có ở hầu hết các dân tộc Việt
Nam, thần có tên gọi Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa (Mường), Mẹ Lúa (Khơ
Mú) hay Nữ thần Jang Xri (Xơ Đăng)... Thần thoại các dân tộc coi sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh giống lúa thuộc về Nữ thần Lúa và những người phụ nữ.
Thần thoại về lúa và Nữ thần Lúa có sự biến đổi khi (thần thoại Kinh, Tày,
H'mông, Cao Lan) coi sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa
nước thuộc về vị Nam thần là Thần Nơng.


Chúng ta có thể thấy những thần thoại về lúa, phàn ánh tính chất chung
của các yếu tố văn hoá, xã hội, tinh thần của cư dân nông nghiệp Việt Nam
trên con đường dài phát hiện, tìm tịi và thuần hóa cây lúa, làm cho nó trở
thành nguồn lương thực chính ni sống con người. Đồng thời chúng ta
cũng có thể thấy những thần thoại về lúa có những biến đổi qua tiến ứình


lịch sử, vì vậy vị thần liên quan tới nguồn gốc, sự sản sinh ra cây lúa đỏ là vị
Nữ thần Lúa cũng có những biến đổi liên quan, một q trình biến đổi không
đon tuyến mà đa tuyến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

N ữ thần trong thần thoại Việt Nam..

<sub>209</sub>



Truyện

<i>Mẹ Lúa, Mẹ Ngô</i>

cùa người Pu Péo, truyện

<i>Sự tích cây lúa</i>

của
người Xơ Đăng và người Chu Ru đều kể “ Trên trời có bà Ngọc Huyệt giả
làm bà lão ăn xin, xuống mặt đất thấy người đói khổ đã cho hai anh em ăn
thử com gạo, thấy ngon” và “Nữ thần Lúa từ trên trời thấy con người vất vả
kiếm ăn nên đã giả dạng thành người phụ nữ đem đến cho con người một thứ
hạt vàng óng”. Hoặc “Bà lão (Nữ thần Lúa) cho giống lúa và bắp, bày cách
trỉa lồ, gieo trồng. Lúa, bắp sinh sôi ngày càng nhiều,...” . Hoặc theo người
Khơ Mú thì “Xưa người chỉ biết bẫy thú để kiếm sống. Có một cái hang
trong đó bay ra những hạt màu vàng, ăn thử thấy ngon, nhưng người không
sao vào hang lấy được...Có con vắt xin được ăn máu người con gái trẻ,
hứa sẽ vào hang mang những hạt màu vàng về cho người. Cô gái nhận lời,
nhờ đó dân làng có được hạt giống đem gieo trồng để làm lương thực. Khi
lúa chín, chim hay chuột ra ruộng hoặc ra nương ăn trước, chó được ăn
cơm, vắt được hút máu người, còn dân làng lấy tên cô gái đặt cho hạt vàng
ấy gọi là Lúa” .


Người Mường trong sử thi

<i>Đẻ đất đẻ nước</i>

kể có Bà Rấp Bà Rú đi đào
củ mài gặp chuột ỉông đỏ, chuột mách bà về nói với Lang Cun cần cử Nàng
Dặt Cái Dành lên trời xin lúa. Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa cho nàng đem về
trần 40 giống lúa ruộng, 30 giống lúa nương. Từ khi trần gian có lúa, người
Mường nhớ ơn hàng năm đến mùa cơm mới lại làm lễ cúng Nàng Dặt Cái
Dành và Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa. Nhớ ơn, con người gọi Mẹ Lúa Mẹ
Ngô, hay khi lúa chín người ra nương rẫy làm lễ ẹúng các vị thần đã cho lúa,
cho ngô và lập đền thờ Nữ thần Lúa theo lời mách bảo cùa con trăn.


Ở truyện của các dân tộc Tây Nguyên, lúa cũng được coi là một vị Nữ
thần, là hiện thân của mối quan hệ giữa con người với thần trời, có hình dạng
một bà già tốt bụng đã cho con người giống lúa... Trong truyện

<i>Đẻ đất đẻ </i>


<i>người</i>

của người Mạ kể rằng vị thần tối cao N'Đu của người Mạ thấy loài
người nghèo khổ, phải vào rừng đào củ hái quả kiếm ăn bèn sai Nữ thần Lúa
hiện hình thành hai con chim Phí, chim Tek. Chim theo thần bay đi lấy lúa
trời rồi đậu trên cành đa (Jri), trên dây leo (klác) nhả hạt, người Mạ đem hạt
gieo xuống đất và từ đó có lúa ăn. Truyện của người Chu Ru cịn kể vì con
người bắn nhầm phải con gái thần Lúa dưới dạng một con chim nên bà ta đã
nổi giận làm trời sập đè chết mọi người, cịn sót hai đứa trẻ, Nữ thần lại dạy
chúng cách làm vợ chồng, cách trồng lúa, săn thú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

2 1 0 V a n h ó a t h ờ

Nữ

t h ắ n - MẪU ở V lỆT NAM

c h a u á


Con người không cần gieo gặt mà cứ mùa xuân đến “Các hạt lúa tự mọc lên
xanh, cuối vụ lại tự động lăn về nhà, người ta chì việc dọn sạch nhà để đón
lúa mà thôi” (Cao Lan) và “Lúa gặt xong lại trổ lại và chín tiếp, khơng sao
gặt hết” (Kinh). Hay “Ngày xưa khi lúa, ngơ, cây cỏ bị lồi người phạt đến
đâu, nó liền mọc đến đó. Mọi người chỉ cần làm một đám ruộng bé tẹo, chỉ
to bằng “cái dạng háng chân chim” là gặt mãi không hết” (Tày). Tương tự,
truyện của người Mạ cũng kể “Hạt giống lúa, bắp, cà, ớt, chi cần nấu bảy hạt
là tự nhiên nồi cơm sẽ đầy lên” và.“Lúa là những chiếc lá dài, to bằng bàn
tay mọc khắp nơi. Chỉ cần hái bỏ vào nồi nấu là có cơm ăn”.


Song cũng chính những người phụ nữ đã là người làm thay đổi đặc
tính của Lúa. Truyện của người Cao Lan, người Kinh, người Thái, người
Tày, người Khơ Me đều nói về hành động bất cẩn của người phụ nữ khiến
cho đặc tính ban đầu của lúa bị thay đổi. Một người đàn bà lười biếng để
nhà cửa bẩn thiu hay mải gội đầu chải tóc, khi lúa chín kéo nhau về bà ta


dùng gậy, dùng chổi đập, vụt vào lúa khiến nó vỡ tan thành những hạt nhỏ,
miệng luôn chửi rủa rằng: “Bao giờ có vòi tre, lưỡi sắt cắt cổ hãy về!” và
cấm chúng không được tự ý bò về nhà” (Cao Lan). Hay “Hạt gạo to như quả
bí đỏ, ngày ngày từ trên nương rẫy bò về nhà theo ý muốn của con người.
Hôm ấy, nghe tiếng người đàn bà góa gọi, lúa bảo nhau bị về đầy bịch, nằm
ở góc nhà, rồi chất đầy nhà. Vì có một mình nên mỗi bữa bà phải vất vả đập
cho hạt gạo vỡ ra từng hạt nhỏ để nấu ăn. Bực mình vì gạo nằm la liệt trong
nhà, đi lại vướng víu, bà góa đập vụn hạt gạo và nói từ nay hạt gạo phải nhỏ
đi và không được ý bò về” (Thái). Truyện của người Khơ Me kể có cơ gái
đang đứng bên bồ lúa tâm sự với bạn ừai thì lúa tự ý kéo nhau về gây ồn ào
làm cô không nghe được tiếng nói của bạn tình, bực mình cơ gái đập mạnh
vào bồ khiến hồn lúa (là nàng Pờrơ Lungsờrâu vốn tính nhút nhát giật mình
sợ hãi bay đi trốn vào một khe đá hẹp tận ngồi biển sâu. Người khơng có
lúa ăn phải nhờ cá thác lác đi tìm lúa. Hay có cơ bé mồ côi (Kinh) hay thằng
bé mồ côi (Tày) không gặt hết được lúa, vì cứ gặt hết lúa lại mọc và chín tiếp
ờ đằng sau, nó mệt khóc, xin tiên ơng (hay các nàng tiên) bày cách lấy giấy
bản (hay lấy dáy tai) nút vào đầu cọng lúa, không cho lúa mọc lại và chín
tiếp nữa.Truyện của người Mảng, người Thái kể có bầy chó chặn đường đi
của lúa, hay hai chị em lười nhác không dọn nhà, hay người đàn bà bụng
chửa đi đứng nặng nề, để lúa về bị lũ gà mổ làm cho lúa sợ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

N ư thần trong thần thoại Việt Nam.

<sub>211</sub>



mà phải cấy cày hàng vụ hàng năm. Là những sáng tạo tài tình của con
người thời xưa về lúa, các câu chuyện trên ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa về
sự phản ánh bước đường con người tiếp cận cây lúa, từ việc tìm ra giống lúa,
thuần hóa cây lúa và các con vật, chuyển đổi từ hái luợm sang trồng trọt,
chăm sóc cây lúa, đến việc thu hoạch lúa và vai trò người phụ nữ. Trong ký
ức xa xưa của nhiều dân tộc, họ tin rằng giống lúa (giống ngô) là do những
vị Nữ thần ở trên trời ban phát cho con người. Ký ức này có ở nhiều dân tộc


như trong truyện của người Pu Péo, Mường, Xơ Đăng và Chu Ru...


Như vậy, lúa gạo có nguồn gốc thật thiêng liêng. Câu chuyện mang tới
ý nghĩa biểu tượng sâu xa, chuyển tải thông điệp của người xưa về một phát
hiện có ý nghĩa to lớn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, đó là việc con người
tìm ra cây lúa. Ở đây có sự gặp gỡ chung giữa phương Đơng và phương Tây
trong sự khẳng định giá trị của loài cây được coi là “nguyên sơ và thanh
khiết” này: “Không những người ta đã biết truyền thuyết về quả bầu
nguyên thủy ữong đó có cây lúa và cả các giống người nữa, mà cây lúa còn
giống như thứ thức ăn trời cho, mọc lên và làm đầy các vựa thóc một cách
tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đơng đều nói đến điều này. Việc trồng
lúa cơng phu, khó nhọc là quan hệ giữa trời và đất bị cắt đứt... Người Nhật
coi lúa gạo là biểu tượng cùa sự sung túc nhờ trời mà có...N gay cả ở
phương Tây, lúa gạo cũng là biểu tượng của hạnh phúc và khả năng sinh
sản dồi dào”.


Các câu chuyện đã cho thấy rằng việc tìm ra cây lúa không chi là một
phát hiện vĩ đại của con người, mà nó cịn tạo ra một bước chuyển biến
mang ý nghĩa xã hội quan trọng. Đó là đưa con người từ nền kinh tế săn bắt
hái lượm hoang dại khi “chi biết ăn rau rừng và quả dại” hay “ chỉ biết bẫy
thú để kiếm sống”, chuyển sang giai đoạn đầu cùa kinh tế nông nghiệp trồng
lúa. v ề hiện tượng này, nhà nghiên cứu Hoàng Bé trong bài

<i>“Những huyền </i>


<i>thoại lúa nước và một số nét về kinh tế</i>

-

<i>xã hội truyền thống ở người Tày ”, </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

212



<i>r</i>


V a n h ó a th ờ

Nữ

th ắ n - MẪU ở

VlỆT

NAM VÀ CHÂU A



Việc con người lấy tên cô gái đặt tên cho hạt Lúa, hoặc đặt ra Tục cúng
Nữ thần Lúa (Mường), Tục cúng hồn Lúa (Khơ Mú)... đã hàm chứa ý nghĩa
một thông điệp của người xưa trong việc khơng qn ơn người có cơng tìm
ra lúa, ban phát giống lúa đem gieo trồng để làm lương thực. Điều này nói
tới sự đóng góp quan trọng của người phụ nữ trong giai đoạn đầu kiếm tìm
giống lúa. Mặt khác đây cũng chính là những tình tiết phản ánh sự xuất hiện
nền nông nghiệp trồng lúa và cũng là giai đoạn con người đang tiến vào một
giai đoạn mới - từ kinh tế chiếm đoạt các sản phẩm có sẵn (chữ dùng cùa
Ăng ghen) của thiên nhiên sang kinh tế sản xuất - để đảm bảo đời sống ổn
định hơn.


Một điều đáng lưu ý nữa là ờ việc

<i>Tại sao người phải gặt lúa mang về </i>



là hình ảnh người đàn bà, trong đó có hình ảnh người đàn bà góa (người đàn
bà khơng chồng, người đàn bà ở một mình...). Hình ảnh người đàn bà góa
này cũng từng xuất hiện trong những thần thoại chất phác thô sơ của người
Thái kể về thuở khai sinh vũ trụ trời đất, nhiều sự việc đã được gán do chính
bàn tay người đàn bà góa tạo nên. Có truyện kể ngày xưa trời đất còn ở gần
nhau, người ta lên trài xuống đất một cách dễ dàng vì lúc đó ở hồ Uva
(Mường Thanh) có dây leo mọc lên gọi là “chựa khâu cát”. Vì trời đất gần
nhau nên con người ở mặt đất “giã gạo trời vướng chày, phơi thóc mây
vướng cót, quay sợi trời vướng guồng”. Có người đàn bà góa, thấy người
trần khổ cực quá, nên sinh bực tức, đem dao chặt “chựa khâu cát”, thế là từ
đó trời lên cao, lên cao m ãi... Một truyện khác lại kể có một bà góa giã gạo,
vơ ý để chày đụng phải trời, nên trời giật mình vụt lên cao. Chỗ chày đụng
phải lên cao nhất, còn xung quanh thấp dần nên trời mới có hình thù như
ngày nay... Hình ảnh người đàn bà góa cũng tiếp tục xuất hiện trong những
ừang thần thoại kể về việc kiếm tìm lương thực, trong đó có củ mài và lúa.
Củ mài xưa được người Thái hình dung giống như một loại quả sống ờ trên
cao, một hơm có một bà góa vào rững lấy củ mài, bà khơng có cách nào để


trèo lên lấy củ ờ trên cây cao được. Bực mình, bà ta đem dao chặt cây và còn
lấy tay dúi sâu củ mài xuống đất, miệng nói “Từ rày trở đi chúng mày phải
sống ở dưới đất này, nghe chưa...”. Từ đấy họ hàng nhà củ mài sợ hãi không
dám ở trên cây nữa mà phải chui sâu xuổng đất, làm cho ngày nay người
phải khó nhọc mới đào chúng lên được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

N ữ thần ữong thần thoại Việt Nam..

213



bé và con người phải vất vả đi gặt lúa mang về. Bởi những nguyên nhân như
bà lười biếng không dọn dẹp nhà cửa, mải gội đầu chải tóc, lấy chổi hay lấy
gậy đánh đập lúa, v.v... Ngoài các bà góa, những người phụ nữ khác cũng
góp phần làm cho lúa thay đổi đặc tính như người vợ lười, cô gái mải tâm sự
với bạn tình, gõ đập bồ lúa làm hồn lúa hoảng sợ, hai chị em lười nhác
không dọn nhà, hay người đàn bà bụng chửa đi đứng nặng n ề...


Có thể nói trong hầu hết các truyện kể về lúa, hình ảnh người phụ nữ
xuất hiện gần như xuyên suốt. Từ những người phụ nữ đầu tiên góp phần
quan trọng vào việc cho giống lúa giống ngơ, phát hiện và tìm ra cây lúa
trong giai đoạn sơ khai, được tôn vinh là Nữ thần Lúa, cũng như họ đã tiếp
tục góp phần vào công việc gieo trồng và chăm sóc lúa, đến những người
đàn bà xua đuổi, đánh đập lúa... Ở đây có lẽ khơng phải là sự hạ thấp dần về
địa vị vai trò của người phụ nữ, mà dường như chính là sự thay đổi về nhân
tố con người, nhân tố lao động trong quá trình tìm ra cây lúa và thuần hóa
giống lúa đã tạo nên hình ảnh những người phụ nữ đó. Thực tế cho thấy càng
về sau, vai trị của người đàn ơng trong q trình sản xuất đã ngày càng được
khẳng định, bởi khả năng lao động vượt trội, khả năng kỹ thuật và tổ chức
sản xuất của họ. Hình ảnh người đàn bà “lười biếng” sau này, có thể giải
thích theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hồng Bé thì “nếu như trước đây, vị
trí kinh tế hái lượm đã đưa người đàn bà lên vị trí xã hội chủ đạo (mẫu hệ),
thì nay kinh tế nông nghiệp dùng cày lại khẳng định vị trí xã hội thuộc về


đàn ông (phụ hệ)”. Dau sao thì dấu ấn bàn tay của người phụ nữ tác động
vào lúa đã in đậm trong mọi câu chuyện về lúa và trải qua hàng ngàn vạn
năm vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

214

Văn

h ó a t h ờ

Nữ

t h á n - MẪU ở

Việt

NAM VÀ CHAU Á


xí nhưng tốt bụng, do ngun hình của bà là con cóc bởi cóc cũng giống như
hạt thóc có vỏ xù xì, nhưng bên trong lại là hạt gạo trắng muốt nuôi sống con
người. Người phụ nữ này được người Xơ Đăng hết sức coi trọng. Thần có
quan hệ thân thiết với thần sấm sét, vậy nên mỗi khi có hạn hán người Xơ
Đăng hay lấy cóc ra, tức thần Lúa để cầu xin thần sấm sét cho mưa, V . V . . .


Ở các thiên thần thoại kể về nguồn gốc của lúa và nghề trồng lúa nước
của một số dân tộc như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan... ngồi hình ảnh
người phụ nữ gắn với cây lúa như trên còn phải kể tới hình ảnh vị nam thần
dưới hình dạng một ơng già được gọi là Thần Nơng, với các truyện như

<i>Ơng </i>


<i>Thần Nơng cùa người H ’mông</i>

(H'mông),

<i>Công việc bỏ dở của Thần Nông </i>



(Tày),

<i>Thần Lúa</i>

(Kinh). Thần Nông là một nhân vật thần linh, được trời sai
xuống trần để dạy loài người ăn ở, khai phá đất đai cày bừa và gieo cấy
giống lúa, vì vậy con người đời đời biết ơn và tôn thờ là vị thần của nông
nghiệp. Từ khi con người chưa biết trồng trọt, cấy lúa, thần đã đem các hạt
giống lúa và ngô đến giao cho con người. Thần làm mưa cho nhà nông cày
cấy. Thần dạy cách gieo trồng, dạy cách cất giữ lương thực lên gác bếp, cách
xay giã nấu ăn. Thần dạy cho người H'mông cách lấy sợi lanh dệt vải may
quần áo mặc, cách lấy thuốc khi ốm đau, lại dạy cách làm nhà. Từ đó người
H'mông biết tra lúa tra ngô, không phải lang thang đói rét.


Người Tày kể Thần Nơng đã cùng vợ tạo nên cánh đồng Thất Khê bao
la bằng phẳng. Núi đồi vây lấy cánh đồng này, từng dãy nhấp nhơ chạy từ


phía Bắc xuống phía Nam là dấu tích cơng việc bỏ dở của Thần Nông.
Người Cao Lan gọi Thần Nông là sằn Nông, vị thần đã gặp lúa trên đường
đi săn thú và đem về gieo ừồng, do giận người vợ lười đánh đập lúa khi lúa
chín bị về nhà, ông mang lúa lên sông Ngân Hà cày cấy. Vào tháng năm
tháng sáu đêm nào người trần nhìn lên trời cũng thấy dịng sơng sáng rực vỉ
đó là mùa cày cấy của ông. Người Kinh cũng gọi thần Lúa là Thần Nông, là
một vị thần rất khó tính, ai khơng biết chiều chuộng thì thần sẽ bỏ đi. Khi
nào thần xuất hiện với vẻ mệt nhọc lam lũ và thần chịu khó trơng nom mùa
màng thì vụ đỏ sẽ được bội thu, khi thần ăn mặc chỉnh tề thì mùa màng sẽ
thất bát, vì thần thờ ơ với công việc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

N ữ thần trong thần thoại Việt Nam..

<sub>215</sub>


<b>2. Lửa - Nữ thần trong những thần thoại về nguồn gốc của lửa</b>


Trong thời kỳ hoang sơ viễn cổ, con người chưa biết đến lửa, cũng
chưa biết dùng lửa và do khơng có lửa, con người phải chịu cảnh sống tối
tăm, lạnh giá và thường xuyên bị bệnh tật, thú dữ và thời tiết đe dọa. Chiến
công vĩ đại của Promete trong thần thoại Hy Lạp khi lấy được ngọn lửa cùa
Thần Trời (Thần Dơz, Thần Juypiter) đem xuống cho loài người, đã phản
ánh quá trình gian truân vất vả mà con người phải trải qua để tìm ra lửa và
biết sử dụng lửa như một thứ năng lượng thần diệu. Người Hy Lạp cũng kính
trọng và tôn vinh vị thần Thợ rèn hay vị thần Lửa cùa họ là Hephaistos và là
vị thần tâm linh có ảnh hưởng hết sức sâu rộng khi vị thần này còn được coi
là ông tổ của nhiều ngành công nghệ cùa người Hy lạp xưa.


Ở thần thoại của các dân tộc Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện kể về
nguồn gốc cùa lửa, về quá trình con người phải trải qua khi đi tìm lửa, lấy
lửa cũng như giữ lửa để phục vụ cho đời sống của mình. Đó là những truyện
như

<i>Người biết dùng lừa</i>

(Dao),

<i>Ruồi trâu đi xin lừa</i>

(Thái),

<i>Nạn hồng thủy </i>


<i>và ruồi trâu đi tìm lừa</i>

(Thái),

<i>Người cỏ lừa dừng</i>

(Xơ Đăng). Những truyện

đó kể rằng người được sưởi lửa Trời ấm áp, xin Trời cho lửa mang về. Trời
cho lửa nhưng dấu cách làm ra lửa. Người xin lửa nhiều lần nhưng bị Trời
bịt mắt nên không biết cách giữ lửa, để lửa bay về trời mất. Người khơng có
lửa nên thường phải ăn sống nuốt tươi, có con chuột có lửa nhưng lại đem
giấu rất kín. Người tìm học cách làm ra lửa bằng việc cử các con vật đi xin
lừa của Trời và chủ yếu là tìm hiểu xem cách thức làm ra lửa nhưng đều bị
thất bại. Chim cũng bị Trời bịt mắt bằng bông khi cho lửa, chỉ có ruồi trâu
(hay con ve) có mắt ở dưới cánh nên biết được bí mật làm ra lửa. Nhờ đó,
con người biết cách làm ra lửa và giữ lửa để lúc nào cũng có lửa dùng.


Trong các truyện

<i>Nguồn gốc loài người, Sự tích nước lụt</i>

của người
Mảng lại kể con người đầu tiên có cánh, con vật đầu tiên có lửa là con giơi.
Vì giơi bắt muỗi ăn nên không cần lửa, do đó người đã đổi cánh cho giơi để
lấy lửa sưởi và nấu chín thức ăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

216

Văn

h ó at h ờ

Nữ

t h á n - MẢU ở

VlỆT

NAM VÀ CHẢU

Á



Hephaistos, thì trong thần thoại của nhiều dân tộc Việt Nam vị thần Lửa lại
là một Nữ thần.


Nữ thần Lửa trong thần thoại người Việt (hay cịn có tên gọi là Bà
Hỏa), được Trời giao cho một trọng trách lớn là giữ lửa. Truyện

<i>Nữ thần </i>


<i>Lửa</i>

của người Việt kể:


“Dưới hình dạng một bà già mặt mũi cau có, khơ khan, Nữ thần Lửa
giữ ngọn lửa màu nhiệm, giúp nấu chín và tạo ra thức ăn. Lửa của Nữ thần
này có rất nhiều loại, có loại lửa xanh chì thần Sét mới được dùng, có thứ lừa
màu nhiệm có thể giúp người ta chi cần đặt nồi không mà nấu ra đù những
thức ăn ngon lành. Nhưng thứ lửa này chì nhà Trời mới được dùng, còn
người thường thì khơng bao giờ được biết đến. Lồi người ở hạ giới đều biết


đến thứ lửa đó, nhưng chưa ai có thể lấy được vì Nữ thần Lửa là một người
khó tính và hung dữ. Nữ thần có một bảo bối dùng làm vũ khí ln ngậm
trong miệng. Đó lắ chiếc lưỡi đỏ lịm, có thể liếm cháy trụi cả cánh đồng,
hàng dãy núi và làm khô cạn hết nước của các ao hồ. Thần có lúc hung dữ
sai bộ hạ đi tàn phá cây cối, nhà cửa. Lửa đốt nhà của Thần là thứ lửa liếm từ
trên nóc liếm xuống”.


Truyện cịn kể rằng con người đã phải tìm rất nhiều cách để khám phá
ra bí mật làm lửa và giữ lửa của Nữ thần, kể cả cách lấy trộm hay nhặt lấy
mẩu tàn tro bọc vào khố mang về ủ trong bếp cho thành ngọn lửa. Nhưng Nữ
thần Lửa hay bà Hỏa khi nhìn thấy con người (lão tiều phu) khám phá ra
ngọn lửa màu nhiệm của mình bà đã lấy bầu nước dập tắt và bỏ đi. Hoặc khi
con người đã lấy được lửa của thần thì chính sự bất cẩn của họ đã làm cho
ngọn lửa bị tắt hoặc làm Nữ thần giận dữ khiến ngọn lửa bốc cháy, gây ra
những đám hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Từ đó con người đã phải hết sức cẩn
thận giữ không để mất lửa, cũng như người ta rất sợ những cơn giận của Nữ
thần Lửa nên họ hết sức chiều chuộng ngọn lửa và kính trọng, thờ cúng vị
Nữ thần này”.


Trong thần thoại Tậy, Nữ thần Lửa thường nằm im trong khúc gỗ to,
Thần ăn rồi ỉa ra tro. Loài người biết ơn thần, nhưng khi cuồng nộ, thần đốt
cháy nhà cửa, cây rừng, nên mỗi nhà đều phải thờ thần Lửa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

N ữ thần trong thần thoại Việt Nam..

217



bắc Tây Nguyên, nay là cao nguyên Công Tum, địa bàn cư trú cùa người Xơ
Đăng, Ba Na. Thân rồng gò lưng lên cao ià vùng Gia Lai, quê hương của
người Gia Rai. Đuôi rồng là Đắc Lắc, Lâm Đồng, nơi cư trú của đồng bào
Mơ Nông”.



Như vậy trong thần thoại các dân tộc Việt Nam, Nữ thần Lửa vừa là
người giữ ngọn lửa thiêng màu nhiệm, vừa là người có quyền năng sai
ngọn lửa đi tàn phá, hủy diệt. Điều này thể hiện tính chất hai mặt của Lửa -
vừa hữu ích thiêng liêng vừa mang sức mạnh hủy diệt - như S.Freud đã
nói: “Lửa là hiện tượng duy nhất có thể tiếp nhận rõ rệt cả hai mặt giá trị
đối lập cái tốt và cái xấu. Nó sáng long lanh trên thiên đường và cháy rực
đị dưới địa ngục”.


Nhìn chung, hình ảnh Nữ thần Lửa trong thần thoại Việt cũng như hình
ảnh Thần Lửa trong thần thoại cùa nhiều nước đều là sự hình dung và nhân
tính hóa sức mạnh của một thực thể vật chất theo dạng thức của con người.
Theo

<i>Thần thoại Ân Độ,</i>

thần Agni - thần Lửa của người An cũng được hình
dung là “một ơng thần cầm một cái lao phóng bằng lửa, có hơi thờ đen ngịm
(khói), có tiếng kêu răng rắc (tiếng nổ của vật cháy, có nước da và râu tóc đỏ
rực, lưỡi dài vàng chói. Vị thần này vừa “dữ tợn... liếm sạch cả cây rừng,
chim muông hoa cỏ trong phút chốc và để lại những vết bánh xe đen ngòm
ghê rợn”, vừa được người Ấn xem là “người bạn tốt nhất, người chúa của
cải, con đẻ của Angira - thị tộc đã tìm ra lửa đầu tiên”.


Thần thoại về Nữ thần Lửa của người Việt có sự biến đổi khi gán cho
thần có bộ hạ là Bợ (ơng, thằng) - một nam nhân vật với tính tình hunng ác,
ăn cắp lừa của Thần gây cháy nhà, chết người. Những câu chuyện về nhân
vật này phổ biến ở vùng Nghệ Tĩnh, nơi khí hậu khắc nghiệt và hàng năm có
gió Lào thổi gây nạn hỏa hoạn cho người dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

218

Văn

h ó at h ờ NữTHẮN - MẪU

V lỆT NAM

CHÂU Á


hàng năm, phản ánh nét khí hậu đặc trưng của vùng Nghệ Tĩnh: “Cố Bợ sẵn
lửa trong người, nên đến mùa nam nắng thường hay đốt nhà để xem cho
thích. Khi ngọn lửa xanh bốc lên, từ đâu đó có tiếng cười rịn rã, tiếng vỗ tay


đơm đốp. Vũ khí của thần là lửa và có cả gió nữa vì thế thần đi đến đâu là
cháy nhà đến đó. Đặc biệt thần thường về đốt nhà vào mùa hè - mùa gió nam
Lào. Mỗi lần có đám cháy, người dân đều cho là cố Bợ đốt, họ bảo nhau:

<i>Lại </i>


<i>thằng Bợ rồi</i>



Truyện kể và nhân vật cố Bợ - thần Lửa của dân gian vùng Nghệ Tĩnh
rõ ràng là xu hướng thế tục hóa của thần thoại suy nguyên về nguồn gốc cùa
lửa. Là thần Lửa, sản phẩm của tư duy thần thoại nhưng cố Bợ cũng là nhân
vật của truyện trạng, truyện cười, truyện tiếu lâm của dân gian Nghệ Tĩnh.


Liên quan tới thần Lửa, trong truyện kể dân gian cũng như trong văn
hóa tâm linh người Việt với câu chuyện

<i>Ba ông đầu rau</i>

và tín ngưỡng thờ
thần Bếp với tục lệ Tết ông Công ông Táo vào 23 tháng Chạp hàng năm.
Thần Bếp có nhiệm vụ trơng nom củi lửa bếp núc cho trần thế, gồm một
bộ ba, một bà và hai ơng. Tín ngưỡng này cũng cổ ở người Mường, một
dân tộc có quan hệ gần gũi, gắn bó lâu đời với người Việt. Ở đây người
phụ nữ được đặt bên cạnh những người đàn ơng bởi chính những hành
động, việc làm của người phụ nữ này đối với hai người đàn ông (một là
chồng cũ và một là chồng mới) đã làm cho thần Trời (Ngọc Hoàng) cảm
động mà phong cho họ làm Thần Bếp.


Thần Bếp hay cịn gọi là thần Táo (Ơng Táo, Táo Quân) hay thần Núc
thực sự là một dạng chuyển đổi vai trò của thần Lửa khi xã hội đã xuất hiện
hình thức gia đình cá thể thay cho hình thức cơng xã thị tộc nguyên thủy. Ở
đây thần Lửa đã thu hẹp ý nghĩa của mình vào phạm vi gia đình, bằng việc
gắn với vai trò quan trọng của bếp lửa. Thần Bếp đã trở thành một vị thần
hết sức gần gũi, thân thiết và cũng là người có sứ mệnh điều tiết và dõi theo
hành vi, đạo đức, thành quả lao động của mọi gia đình trần thế. Cùng với Nữ
thần Lửa, Táo Quân ừong bộ ba thần Bếp là những vị thần tâm linh có vị trí
và ý nghĩa quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

N ữ thần trong thần thoại Việt Nam..

219



hội tụ cùa những nội dung hoạt động khác đã dần dần nhấn chìm dấu ấn
sùng bái tín ngưỡng này”.


Vì vậy, từ thần Lửa, các vị Táo Quân đã trờ thành thần ữông coi bếp
lửa cùa gia đình, nơi trú ngụ cùa thần là bếp lửa. Bàn thờ và lễ thức thờ cúng
thần cũng được đặt ngay cạnh bếp lửa. Đặc biệt đối với đồng bào Mường,
bếp lò - nơi thể hiện tín ngưỡng thờ Vua Bếp được coi là nơi hết sức thiêng
liêng, gấn với sự thịnh vượng, vững chắc và khát vọng no ấm cùa mọi gia
đình. Với người Việt, những thói quen kiêng kị xung quanh lửa và bếp lửa
vẫn được bảo lưu như luôn giữ cho bếp lửa sạch sẽ, không dùng những thứ
uế tạp để nhóm lửa hay đun bếp, trong các ngày tết phải luôn giữ ngọn lửa
ấm nóng trong bếp, kiêng kị việc đi xin lửa láng giềng vì lửa tượng trưng
cho sự may mắn, cho vận đỏ của từng gia đình.


Từ Nữ thần Lửa - một vị thần tự nhiên, phản ánh tín ngưỡng nguyên
thủy của người xưa đến những nhân vật nam thần như cố Bợ hay bộ ba thần
Bếp... ngọn lửa đã chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa mang nội dung xã hội phù
họp với tâm lý của từng thời đại. Song dù hình thức biểu hiện có thay đổi thì
tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng cổ xưa nhất về Nữ thần Lửa vẫn được bảo
lưu trong chiều sâu của tâm thức dân gian các dân tộc Việt Nam. Nữ thần
Lửa - một vị thần mang tính nữ, gắn với chế độ mẫu hệ của thời kỳ săn bắt
hái lượm, đó chính sự hình dung của con người trong việc thần kỳ hóa khả
năng đặc biệt của lửa, là sự đề cao sức mạnh kỳ diệu mà lửa đã đem đến cho
con người từ khi có lửa cho đến ngày nay. Nữ thần Lửa là một biểu tượng
của thần thoại cổ xưa về lửa, trải qua thời gian, Lửa đã được thiêng hóa và vị
Nữ thần này là người có vai trị trọng trách giữ thứ lửa thiêng liêng ấy, thứ
lửa màu nhiệm của Trời ban cho loài người và mãi mãi được người dân Việt


Nam tơn thờ, kính trọng.


<b>3. Nước - Nữ thần trong những thần thoại về nước</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i>r</i>


2 2 0 V a n hó a th ờ N ữ th ắ n - MẪU ở V iệ t NAM VẢ chAu A


dân Mường Bằng bị hạn hán lâu ngày, hỏi ra thì họng trời bị tắc. Họng trờii
tắc là bởi:


<i>“Nàng Ạc chưa cho trời gầm,</i>


<i>Nàng An chưa cho trời chớp,</i>


<i>Nàng Nè chưa cho trời sét,</i>



<i>Chưa có sấm sét thì chưa cỏ mưa</i>



Sau phải nhờ Lang Cặp Lang Kè chặt rễ cây đa, cây si, họng trời mới
thông và các Nàng - tức các nữ thần đã cho trời gầm, trời chớp, trời sét. Dân
gian nghe sấm sét thì sợ, phải “hú vía” để hồn khỏi bay đi. Nhưng trước khi
ra lệnh cho sấm chớp, các Nàng cũng đã cho cây cỏ báo trước:


<i>“Rau hác mọc, trời sẽ có bão,</i>


<i>Rau dang lên, trời sẽ cỏ sấm,</i>



<i>Măng lành - anh mọc, trời sẽ có sét</i>



Chính vì vậy mà từ xưa dân các mường thường ra xem rau, xem măng
để đoán mưa bão. Truyện kể về dòng sông Mã cũng kể rằng các dịng sơng
Đà sơng Mã đều do các Nữ thần sông nước canh giữ với những mỏ vàng mỏ


bạc dưới lịng sơng.


Trong các thần thoại Thái của vùng Mường Then, người Thái quan
niệm các vị thần canh giữ nguồn nước của ba con sông Nặm

<b>u, </b>

Nặm Rốn,
Nặm Núa là các Nữ thần và được gọi là Luông Mẹ (Rồng Mẹ). Thần thoại
về sơng Mã kể rằng các mị bạc, mỏ vàng dưới lịng sơng Mã, sông Đà đều
do các Nữ thần sông canh giữ. Cũng trong thần thoại về sông Mã đã giải
thích hiện tượng lũ lụt hàng năm là do các Nữ thần cai quản dịng sơng này
hay ngủ quên, nhân đó mà con người lấy đi nhiều bạc dưới lịng sơng. Vì vậy
khi tinh ngủ các nữ thần đã rất tức giận bèn dâng nước để đòi lại bạc mà
người đã ăn trộm, gây ra nạn hồng thủy cho vùng đất hai bên bờ sông. Và
cũng trong thần thoại Thái, thần Mưa cũng được coi là một vị nữ thần, trong
các bài ca nghi lễ cầu mưa người Thái đã hát xin Nữ thần Mưa (Bà Chủ
Mưa) cho mưa xuống để lấy nước cấy trồng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

N ữ thần trong thần thoại Việt Nam...

2 2 1


Theo tài liệu của nhà Thái học cầm Trọng thì người Thái trắng ở
Mường Muỗm, Bảo Lạc, Cao Bằng gọi thần Nước của họ được gọi là Già
Vài Khao (Bà thần trâu trắng) và cho rằng bà trú ngụ ở khúc suối Pák Miều.
Hiện tượng này cũng thấy có ở người Tày Khao sống tập trung ở vùng tả
ngạn sông Hồng như Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và họ cũng dùng danh
xưng Gìa Vài Khao để chỉ Nữ thần Nước


Thần thoại Việt trong nguyên mẫu cổ xưa coi các thần tự nhiên trong
đó có Thần Nước đều là nữ thần, như Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Điều này
xuất phát từ từ điều kiện của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời của Việt Nam
và vùng Đông Nam Á nói chung. Với nghề chính là trồng trọt canh tác lúa,
nguời phụ nữ vốn được coi trọng trong vai trò phát hiện và tìm thấy giống
cây lương thực quý báu này, hệ quả dẫn đến là truyền thống đề cao nữ giới


in sâu đậm trong tâm thức dân gian của nhiều dân tộc. Do vậy trong hệ thống
các thần của người Việt và cùa một số các dân tộc khác, Nữ thần đã chiếm
ưu thể và tục thờ nữ thần đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam điển hình.


Khi Phật giáo vào Việt Nam đã diễn ra q trình bản địa hóa Phật giáo,
Man Nương đã trờ thành Phật Mau với công lao tỉm nước chống hạn cho cả
vùng dân cư sinh sống là vùng Dâu thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nơi nền nông
nghiệp lúa nước phát triển sớm nhất của Việt Nam. Và các nữ thần tự nhiên
cùa vùng Dâu đã đã trở thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (bà Mây), Pháp
Vũ (bà Mưa), Pháp Lơi (bà sấm), Pháp Điện (bà Chóp). Đó là các vị nữ thần
có khả năng đem nước đến cho con người, là những vị phúc thần bảo trợ cho
cuộc sống người dân nơi đây. Sự tôn vinh và phụng thờ các vị thần Tứ Pháp
đã có ảnh hưởng và lan tỏa khắp vùng Bắc Bộ mang ý nghĩa thể hiện ước
vọng điều hòa và chế ngự nguồn nước cho những người nông dân nông
nghiệp Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

2 2 2

Van

h ó at h ờ

Nữ

t h á n - MẪU ở

Việt

NAM VÀ CHẢU

Á



Theo dân gian, Mẩu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để giúp đỡ mọi
người mỗi khi đi qua các vùng sơng nước. Cũng có truyện kể Mầu Thoải là
vợ của vua Thủy Tề, vị vua ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trơng coi các
việc ở biển, cịn Mẩu Thoải trông coi các việc ở sông, suối. Do sông suối có
ở khắp nơi nên Mầu cũng có mặt ở khắp nơi, nhất là tại các bến sơng lớn.
Cũng vì vậy, Mau Thoải được thờ ở nhiều nơi, có nơi được thờ là Thành
hồng và có sắc phong đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương" như ở
làng Viêm Xá, Yên Phong, Bắc Ninh - một làng thuần về nông nghiệp của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Trong quá trình phát triển đã có những thay đổi trong tín ngưỡng về
Nước, Nữ thần Nước đã được thay thể bằng những nam thần. Thần thoại


Việt - Mường về Nước có sự biến đổi khi coi các vị thần liên quan đến Thần
Nước như Thần Mưa, Vua Thùy Tề, Thần Hà Bá, ông Pồng Pêu, Vua Khú -
Vua Nước là Nam thần. Ngày nay hầu như chúng ta thấy, trong các thiên
thần thoại về nước của người Việt, các nhân vật thường là những nam thẩn
và cô dấu ấn ảnh hường cùa thần thoại Trung Hoa, một quốc gia láng giềng
có chế độ phụ quyền và vương quyền phát triển sớm. Truyện

<i>Thần Mưa</i>

của
người Việt hình đung về “Thần Mua và Thần Nước đều cùng có hình rồng,
cùng một tộc nhưng mỗi thần nhận nhiệm vụ khác nhau. Thần Mưa được
Ngọc Hoàng ủy thác cho việc làm mưa. Thân Thần hình rồng, thường xuống
hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước
làm ra mưa cho thế gian có nước uống và cày cấy, cây cỏ trên mặt đất được
tốt tươi. Thần Mưa thường theo lệnh Trời đi phân phát nước ờ các nơi. Thần
Mưa có tính hay qn, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới,
có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội’”. Truyện Thần Nước lại kể: “Thế
giới sông biển ao hồ, Ngọc Hoàng đều giao cho Thần Nước. Cũng như Thần
Mưa, Thần Nước có một hình thù rồng rất vĩ đại. Tất cả các giống thủy tộc
như cá, rắn, cá sấu, thuồng luồng... đều là bộ hạ của thần và chia nhau quản
lý cai trị mọi khu vực”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

N ữ thần toong thần thoại Việt Nam...

223



Thần thoại Mường gọi vị thần cai quản về Nước là ông Pồng Pêu và kể
trong

<i>Đè đất đè nước-.</i>

“Khi xưa Trời làm đại hạn 12 năm, nhờ có ơng Pồng
Pêu gọi mưa nên mới có nước, đất đai ngấm nước mới mọc được cây si, rồi
mới đẻ ra mường, có người và muôn vật ngày nay” . Người Mường kính
trọng ơng Pồng Pêu và thờ ông ở bờ sông, hàng năm vào ngày xuống đồng
được mùa cơm mới ngày tết, đều đặt cỗ cúng ơng. Trong tín ngưỡng của
người Mường cịn có tục thờ ông Vua Khú - Mó Nước, tức thờ nơi nguồn
nước chảy từ các khe núi. Khi gặp hạn hán hay vào dịp đầu năm mới người
dân thường lên đầu nguồn nước làm lễ cúng Mó Nước và làm lễ cầu mua.

Người Mường quan niệm Vua Khú hay Mó Nước là vị thần Nước thường
sống ở vực nước sâu, có hình dạng rắn nhưng cũng có lúc mang hình dạng
người. Vị thần này vừa gây họa vừa mang phúc lại cho con người nên họ
vừa kính trọng vừa nể sợ và luôn thờ cúng để thần mang lại bình yên cho
mọi nhà.


</div>

<!--links-->

×