Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 17 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
V [ ữ thần là một hệ thống nhân vật độc đáo trong thần thoại, nữ thần
^ có nhiều địa vị và thân phận khác nhau. Ngày Iiay, khi tiếp cận
một số thần thoại về nữ thần, chúng ta thường thấy nữ thần xuất hiện với
thân phận là vợ, con gái hoặc thuộc hạ của nam thần. Song đầy khơng hồn
tồn là diện mạo nguyên thủy của thần thoại về nữ thần.Trong những câu
chuyện thần thoại cổ xưa nhất của thế giới, song song bên cạnh các nam thần
là những vị nữ thần đảm nhiệm các chức vụ khác nhau như: Sinh ra con
người (thần Nữ Oa, Tây Vương Mầu - thần thoại Trung Hoa); Bảo hộ hôn
nhân và sinh đẻ (nữ thần Hera - thần thoại Hy Lạp, nữ thần Frigg - thần thoại
Bắc Âu); Nữ thần tình yêu và sắc đẹp (nữ thần Aphrodite - thần thoại Hy
Lạp, nữ thần Freyja - thần thoại Bắc Âu); nữ thần chiến tranh (nữ thần
Athena - thần thoại Hy Lạp)...
Chính đơng đảo các vị nữ thần này đã cùng với nam thần tạo nên một
thế giới thần thoại hoàn chỉnh. Hình ảnh các nữ thần thường xuất hiện bên
cạnh những nam thần nhằm tôn vinh tầm quan trọng của người phụ nữ trong
xã hội cổ xưa và làm phong phú thêm cho các câu chuyện thần thoại. Xét từ
diện mạo nguyên thủy đến những diễn biến của thần thoại nữ thần, chúng ta
sẽ thấy sự phản ánh tiến trình văn minh lịch sử của nhân loại. Bởi xã hội loài
người đã trải qua quá trình diễn tiến từ xã hội mẫu hệ sang xã hội phụ hệ,
thần thoại cũng trải qua quá trình từ kiểu thần thoại nữ thần sang kiểu thần
thoại nam thần. Vì vậy, nghiên cứu thần thoại về nữ thần - một bộ phận đặc
208
biệt trong thần thoại là một công việc cần thiết và có ý nghĩa khi nghiên cứu
Tham luận trên cơ sở khảo sát 3 hệ thống thần thoại tiêu biểu về nữ
thần của Việt Nam: Thần thoại về Nữ thần Lúa, thần thoại về Nữ thần Lửa,
thần thoại về Nữ thần Nước, để từ đó hình dung về diện mạo của nữ thần
trong thần thoại Việt Nam. Đồng thời cũng từ đó đi sâu tìm hiểu quá trình
diễn biến của thần thoại nữ thần, sự chuyển hóa của vị trí trung tâm từ nữ
thần sang nam thần, khuynh hướng thế tục hóa và ý thức tự ngã ở những vị
nữ thần này.
Nếu như ừong thần thoại Hy Lạp có thần Demeter (hay Ceres trong
thần thoại La Mã) là Nữ thần Nông nghiệp, hiện thân của sự tnàu mỡ, thì
trong thần thoại của Việt Nam - vị thần Lúa, vị thần cùa nền văn minh nông
nghiệp lúa nước cũng là một vị Nữ thần.
Thần thoại về cây lúa và Nữ thần Lúa có ở hầu hết các dân tộc Việt
Nam, thần có tên gọi Nữ thần Tiên Tiên Mái Lúa (Mường), Mẹ Lúa (Khơ
Mú) hay Nữ thần Jang Xri (Xơ Đăng)... Thần thoại các dân tộc coi sứ mệnh
tạo trồng, sản sinh giống lúa thuộc về Nữ thần Lúa và những người phụ nữ.
Thần thoại về lúa và Nữ thần Lúa có sự biến đổi khi (thần thoại Kinh, Tày,
H'mông, Cao Lan) coi sứ mệnh bảo vệ, chăm lo nghề nông, nghề trồng lúa
nước thuộc về vị Nam thần là Thần Nơng.
Chúng ta có thể thấy những thần thoại về lúa, phàn ánh tính chất chung
của các yếu tố văn hoá, xã hội, tinh thần của cư dân nông nghiệp Việt Nam
trên con đường dài phát hiện, tìm tịi và thuần hóa cây lúa, làm cho nó trở
thành nguồn lương thực chính ni sống con người. Đồng thời chúng ta
cũng có thể thấy những thần thoại về lúa có những biến đổi qua tiến ứình
Truyện
Người Mường trong sử thi
Ở truyện của các dân tộc Tây Nguyên, lúa cũng được coi là một vị Nữ
thần, là hiện thân của mối quan hệ giữa con người với thần trời, có hình dạng
một bà già tốt bụng đã cho con người giống lúa... Trong truyện
2 1 0 V a n h ó a t h ờ
Con người không cần gieo gặt mà cứ mùa xuân đến “Các hạt lúa tự mọc lên
xanh, cuối vụ lại tự động lăn về nhà, người ta chì việc dọn sạch nhà để đón
lúa mà thôi” (Cao Lan) và “Lúa gặt xong lại trổ lại và chín tiếp, khơng sao
gặt hết” (Kinh). Hay “Ngày xưa khi lúa, ngơ, cây cỏ bị lồi người phạt đến
đâu, nó liền mọc đến đó. Mọi người chỉ cần làm một đám ruộng bé tẹo, chỉ
to bằng “cái dạng háng chân chim” là gặt mãi không hết” (Tày). Tương tự,
truyện của người Mạ cũng kể “Hạt giống lúa, bắp, cà, ớt, chi cần nấu bảy hạt
là tự nhiên nồi cơm sẽ đầy lên” và.“Lúa là những chiếc lá dài, to bằng bàn
tay mọc khắp nơi. Chỉ cần hái bỏ vào nồi nấu là có cơm ăn”.
Song cũng chính những người phụ nữ đã là người làm thay đổi đặc
tính của Lúa. Truyện của người Cao Lan, người Kinh, người Thái, người
Tày, người Khơ Me đều nói về hành động bất cẩn của người phụ nữ khiến
cho đặc tính ban đầu của lúa bị thay đổi. Một người đàn bà lười biếng để
nhà cửa bẩn thiu hay mải gội đầu chải tóc, khi lúa chín kéo nhau về bà ta
mà phải cấy cày hàng vụ hàng năm. Là những sáng tạo tài tình của con
người thời xưa về lúa, các câu chuyện trên ẩn chứa sâu xa nhiều ý nghĩa về
sự phản ánh bước đường con người tiếp cận cây lúa, từ việc tìm ra giống lúa,
thuần hóa cây lúa và các con vật, chuyển đổi từ hái luợm sang trồng trọt,
chăm sóc cây lúa, đến việc thu hoạch lúa và vai trò người phụ nữ. Trong ký
ức xa xưa của nhiều dân tộc, họ tin rằng giống lúa (giống ngô) là do những
vị Nữ thần ở trên trời ban phát cho con người. Ký ức này có ở nhiều dân tộc
Như vậy, lúa gạo có nguồn gốc thật thiêng liêng. Câu chuyện mang tới
ý nghĩa biểu tượng sâu xa, chuyển tải thông điệp của người xưa về một phát
hiện có ý nghĩa to lớn cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, đó là việc con người
tìm ra cây lúa. Ở đây có sự gặp gỡ chung giữa phương Đơng và phương Tây
trong sự khẳng định giá trị của loài cây được coi là “nguyên sơ và thanh
khiết” này: “Không những người ta đã biết truyền thuyết về quả bầu
nguyên thủy ữong đó có cây lúa và cả các giống người nữa, mà cây lúa còn
giống như thứ thức ăn trời cho, mọc lên và làm đầy các vựa thóc một cách
tự nhiên. Tất cả các truyền thuyết Á Đơng đều nói đến điều này. Việc trồng
lúa cơng phu, khó nhọc là quan hệ giữa trời và đất bị cắt đứt... Người Nhật
coi lúa gạo là biểu tượng cùa sự sung túc nhờ trời mà có...N gay cả ở
phương Tây, lúa gạo cũng là biểu tượng của hạnh phúc và khả năng sinh
sản dồi dào”.
Các câu chuyện đã cho thấy rằng việc tìm ra cây lúa không chi là một
phát hiện vĩ đại của con người, mà nó cịn tạo ra một bước chuyển biến
mang ý nghĩa xã hội quan trọng. Đó là đưa con người từ nền kinh tế săn bắt
hái lượm hoang dại khi “chi biết ăn rau rừng và quả dại” hay “ chỉ biết bẫy
thú để kiếm sống”, chuyển sang giai đoạn đầu cùa kinh tế nông nghiệp trồng
lúa. v ề hiện tượng này, nhà nghiên cứu Hoàng Bé trong bài
<i>r</i>
V a n h ó a th ờ
Việc con người lấy tên cô gái đặt tên cho hạt Lúa, hoặc đặt ra Tục cúng
Nữ thần Lúa (Mường), Tục cúng hồn Lúa (Khơ Mú)... đã hàm chứa ý nghĩa
một thông điệp của người xưa trong việc khơng qn ơn người có cơng tìm
ra lúa, ban phát giống lúa đem gieo trồng để làm lương thực. Điều này nói
tới sự đóng góp quan trọng của người phụ nữ trong giai đoạn đầu kiếm tìm
giống lúa. Mặt khác đây cũng chính là những tình tiết phản ánh sự xuất hiện
nền nông nghiệp trồng lúa và cũng là giai đoạn con người đang tiến vào một
giai đoạn mới - từ kinh tế chiếm đoạt các sản phẩm có sẵn (chữ dùng cùa
Ăng ghen) của thiên nhiên sang kinh tế sản xuất - để đảm bảo đời sống ổn
định hơn.
Một điều đáng lưu ý nữa là ờ việc
là hình ảnh người đàn bà, trong đó có hình ảnh người đàn bà góa (người đàn
bà khơng chồng, người đàn bà ở một mình...). Hình ảnh người đàn bà góa
này cũng từng xuất hiện trong những thần thoại chất phác thô sơ của người
Thái kể về thuở khai sinh vũ trụ trời đất, nhiều sự việc đã được gán do chính
bàn tay người đàn bà góa tạo nên. Có truyện kể ngày xưa trời đất còn ở gần
nhau, người ta lên trài xuống đất một cách dễ dàng vì lúc đó ở hồ Uva
(Mường Thanh) có dây leo mọc lên gọi là “chựa khâu cát”. Vì trời đất gần
nhau nên con người ở mặt đất “giã gạo trời vướng chày, phơi thóc mây
vướng cót, quay sợi trời vướng guồng”. Có người đàn bà góa, thấy người
trần khổ cực quá, nên sinh bực tức, đem dao chặt “chựa khâu cát”, thế là từ
đó trời lên cao, lên cao m ãi... Một truyện khác lại kể có một bà góa giã gạo,
vơ ý để chày đụng phải trời, nên trời giật mình vụt lên cao. Chỗ chày đụng
phải lên cao nhất, còn xung quanh thấp dần nên trời mới có hình thù như
ngày nay... Hình ảnh người đàn bà góa cũng tiếp tục xuất hiện trong những
ừang thần thoại kể về việc kiếm tìm lương thực, trong đó có củ mài và lúa.
Củ mài xưa được người Thái hình dung giống như một loại quả sống ờ trên
cao, một hơm có một bà góa vào rững lấy củ mài, bà khơng có cách nào để
bé và con người phải vất vả đi gặt lúa mang về. Bởi những nguyên nhân như
bà lười biếng không dọn dẹp nhà cửa, mải gội đầu chải tóc, lấy chổi hay lấy
gậy đánh đập lúa, v.v... Ngoài các bà góa, những người phụ nữ khác cũng
góp phần làm cho lúa thay đổi đặc tính như người vợ lười, cô gái mải tâm sự
với bạn tình, gõ đập bồ lúa làm hồn lúa hoảng sợ, hai chị em lười nhác
không dọn nhà, hay người đàn bà bụng chửa đi đứng nặng n ề...
Có thể nói trong hầu hết các truyện kể về lúa, hình ảnh người phụ nữ
xuất hiện gần như xuyên suốt. Từ những người phụ nữ đầu tiên góp phần
quan trọng vào việc cho giống lúa giống ngơ, phát hiện và tìm ra cây lúa
trong giai đoạn sơ khai, được tôn vinh là Nữ thần Lúa, cũng như họ đã tiếp
tục góp phần vào công việc gieo trồng và chăm sóc lúa, đến những người
đàn bà xua đuổi, đánh đập lúa... Ở đây có lẽ khơng phải là sự hạ thấp dần về
địa vị vai trò của người phụ nữ, mà dường như chính là sự thay đổi về nhân
tố con người, nhân tố lao động trong quá trình tìm ra cây lúa và thuần hóa
giống lúa đã tạo nên hình ảnh những người phụ nữ đó. Thực tế cho thấy càng
về sau, vai trị của người đàn ơng trong q trình sản xuất đã ngày càng được
khẳng định, bởi khả năng lao động vượt trội, khả năng kỹ thuật và tổ chức
sản xuất của họ. Hình ảnh người đàn bà “lười biếng” sau này, có thể giải
thích theo nhận xét của nhà nghiên cứu Hồng Bé thì “nếu như trước đây, vị
trí kinh tế hái lượm đã đưa người đàn bà lên vị trí xã hội chủ đạo (mẫu hệ),
thì nay kinh tế nông nghiệp dùng cày lại khẳng định vị trí xã hội thuộc về
xí nhưng tốt bụng, do ngun hình của bà là con cóc bởi cóc cũng giống như
hạt thóc có vỏ xù xì, nhưng bên trong lại là hạt gạo trắng muốt nuôi sống con
người. Người phụ nữ này được người Xơ Đăng hết sức coi trọng. Thần có
quan hệ thân thiết với thần sấm sét, vậy nên mỗi khi có hạn hán người Xơ
Đăng hay lấy cóc ra, tức thần Lúa để cầu xin thần sấm sét cho mưa, V . V . . .
Ở các thiên thần thoại kể về nguồn gốc của lúa và nghề trồng lúa nước
của một số dân tộc như Kinh, Tày, H'mông, Cao Lan... ngồi hình ảnh
người phụ nữ gắn với cây lúa như trên còn phải kể tới hình ảnh vị nam thần
dưới hình dạng một ơng già được gọi là Thần Nơng, với các truyện như
(Tày),
Người Tày kể Thần Nơng đã cùng vợ tạo nên cánh đồng Thất Khê bao
la bằng phẳng. Núi đồi vây lấy cánh đồng này, từng dãy nhấp nhơ chạy từ
Ở thần thoại của các dân tộc Việt Nam cũng có nhiều câu chuyện kể về
nguồn gốc cùa lửa, về quá trình con người phải trải qua khi đi tìm lửa, lấy
lửa cũng như giữ lửa để phục vụ cho đời sống của mình. Đó là những truyện
như
Trong các truyện
Hephaistos, thì trong thần thoại của nhiều dân tộc Việt Nam vị thần Lửa lại
là một Nữ thần.
Nữ thần Lửa trong thần thoại người Việt (hay cịn có tên gọi là Bà
Hỏa), được Trời giao cho một trọng trách lớn là giữ lửa. Truyện
“Dưới hình dạng một bà già mặt mũi cau có, khơ khan, Nữ thần Lửa
giữ ngọn lửa màu nhiệm, giúp nấu chín và tạo ra thức ăn. Lửa của Nữ thần
này có rất nhiều loại, có loại lửa xanh chì thần Sét mới được dùng, có thứ lừa
màu nhiệm có thể giúp người ta chi cần đặt nồi không mà nấu ra đù những
thức ăn ngon lành. Nhưng thứ lửa này chì nhà Trời mới được dùng, còn
người thường thì khơng bao giờ được biết đến. Lồi người ở hạ giới đều biết
Truyện cịn kể rằng con người đã phải tìm rất nhiều cách để khám phá
ra bí mật làm lửa và giữ lửa của Nữ thần, kể cả cách lấy trộm hay nhặt lấy
mẩu tàn tro bọc vào khố mang về ủ trong bếp cho thành ngọn lửa. Nhưng Nữ
thần Lửa hay bà Hỏa khi nhìn thấy con người (lão tiều phu) khám phá ra
ngọn lửa màu nhiệm của mình bà đã lấy bầu nước dập tắt và bỏ đi. Hoặc khi
con người đã lấy được lửa của thần thì chính sự bất cẩn của họ đã làm cho
ngọn lửa bị tắt hoặc làm Nữ thần giận dữ khiến ngọn lửa bốc cháy, gây ra
những đám hỏa hoạn, thiêu rụi tất cả. Từ đó con người đã phải hết sức cẩn
thận giữ không để mất lửa, cũng như người ta rất sợ những cơn giận của Nữ
thần Lửa nên họ hết sức chiều chuộng ngọn lửa và kính trọng, thờ cúng vị
Nữ thần này”.
Trong thần thoại Tậy, Nữ thần Lửa thường nằm im trong khúc gỗ to,
Thần ăn rồi ỉa ra tro. Loài người biết ơn thần, nhưng khi cuồng nộ, thần đốt
cháy nhà cửa, cây rừng, nên mỗi nhà đều phải thờ thần Lửa.
bắc Tây Nguyên, nay là cao nguyên Công Tum, địa bàn cư trú cùa người Xơ
Đăng, Ba Na. Thân rồng gò lưng lên cao ià vùng Gia Lai, quê hương của
người Gia Rai. Đuôi rồng là Đắc Lắc, Lâm Đồng, nơi cư trú của đồng bào
Mơ Nông”.
Như vậy trong thần thoại các dân tộc Việt Nam, Nữ thần Lửa vừa là
người giữ ngọn lửa thiêng màu nhiệm, vừa là người có quyền năng sai
ngọn lửa đi tàn phá, hủy diệt. Điều này thể hiện tính chất hai mặt của Lửa -
vừa hữu ích thiêng liêng vừa mang sức mạnh hủy diệt - như S.Freud đã
nói: “Lửa là hiện tượng duy nhất có thể tiếp nhận rõ rệt cả hai mặt giá trị
đối lập cái tốt và cái xấu. Nó sáng long lanh trên thiên đường và cháy rực
đị dưới địa ngục”.
Nhìn chung, hình ảnh Nữ thần Lửa trong thần thoại Việt cũng như hình
ảnh Thần Lửa trong thần thoại cùa nhiều nước đều là sự hình dung và nhân
tính hóa sức mạnh của một thực thể vật chất theo dạng thức của con người.
Theo
Thần thoại về Nữ thần Lửa của người Việt có sự biến đổi khi gán cho
thần có bộ hạ là Bợ (ơng, thằng) - một nam nhân vật với tính tình hunng ác,
ăn cắp lừa của Thần gây cháy nhà, chết người. Những câu chuyện về nhân
vật này phổ biến ở vùng Nghệ Tĩnh, nơi khí hậu khắc nghiệt và hàng năm có
gió Lào thổi gây nạn hỏa hoạn cho người dân.
hàng năm, phản ánh nét khí hậu đặc trưng của vùng Nghệ Tĩnh: “Cố Bợ sẵn
lửa trong người, nên đến mùa nam nắng thường hay đốt nhà để xem cho
thích. Khi ngọn lửa xanh bốc lên, từ đâu đó có tiếng cười rịn rã, tiếng vỗ tay
Truyện kể và nhân vật cố Bợ - thần Lửa của dân gian vùng Nghệ Tĩnh
rõ ràng là xu hướng thế tục hóa của thần thoại suy nguyên về nguồn gốc cùa
lửa. Là thần Lửa, sản phẩm của tư duy thần thoại nhưng cố Bợ cũng là nhân
vật của truyện trạng, truyện cười, truyện tiếu lâm của dân gian Nghệ Tĩnh.
Liên quan tới thần Lửa, trong truyện kể dân gian cũng như trong văn
hóa tâm linh người Việt với câu chuyện
Thần Bếp hay cịn gọi là thần Táo (Ơng Táo, Táo Quân) hay thần Núc
thực sự là một dạng chuyển đổi vai trò của thần Lửa khi xã hội đã xuất hiện
hình thức gia đình cá thể thay cho hình thức cơng xã thị tộc nguyên thủy. Ở
đây thần Lửa đã thu hẹp ý nghĩa của mình vào phạm vi gia đình, bằng việc
gắn với vai trò quan trọng của bếp lửa. Thần Bếp đã trở thành một vị thần
hết sức gần gũi, thân thiết và cũng là người có sứ mệnh điều tiết và dõi theo
hành vi, đạo đức, thành quả lao động của mọi gia đình trần thế. Cùng với Nữ
thần Lửa, Táo Quân ừong bộ ba thần Bếp là những vị thần tâm linh có vị trí
và ý nghĩa quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam.
hội tụ cùa những nội dung hoạt động khác đã dần dần nhấn chìm dấu ấn
sùng bái tín ngưỡng này”.
Vì vậy, từ thần Lửa, các vị Táo Quân đã trờ thành thần ữông coi bếp
lửa cùa gia đình, nơi trú ngụ cùa thần là bếp lửa. Bàn thờ và lễ thức thờ cúng
thần cũng được đặt ngay cạnh bếp lửa. Đặc biệt đối với đồng bào Mường,
bếp lò - nơi thể hiện tín ngưỡng thờ Vua Bếp được coi là nơi hết sức thiêng
liêng, gấn với sự thịnh vượng, vững chắc và khát vọng no ấm cùa mọi gia
đình. Với người Việt, những thói quen kiêng kị xung quanh lửa và bếp lửa
vẫn được bảo lưu như luôn giữ cho bếp lửa sạch sẽ, không dùng những thứ
uế tạp để nhóm lửa hay đun bếp, trong các ngày tết phải luôn giữ ngọn lửa
ấm nóng trong bếp, kiêng kị việc đi xin lửa láng giềng vì lửa tượng trưng
cho sự may mắn, cho vận đỏ của từng gia đình.
Từ Nữ thần Lửa - một vị thần tự nhiên, phản ánh tín ngưỡng nguyên
thủy của người xưa đến những nhân vật nam thần như cố Bợ hay bộ ba thần
Bếp... ngọn lửa đã chứa đựng thêm nhiều ý nghĩa mang nội dung xã hội phù
họp với tâm lý của từng thời đại. Song dù hình thức biểu hiện có thay đổi thì
tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng cổ xưa nhất về Nữ thần Lửa vẫn được bảo
lưu trong chiều sâu của tâm thức dân gian các dân tộc Việt Nam. Nữ thần
Lửa - một vị thần mang tính nữ, gắn với chế độ mẫu hệ của thời kỳ săn bắt
hái lượm, đó chính sự hình dung của con người trong việc thần kỳ hóa khả
năng đặc biệt của lửa, là sự đề cao sức mạnh kỳ diệu mà lửa đã đem đến cho
con người từ khi có lửa cho đến ngày nay. Nữ thần Lửa là một biểu tượng
của thần thoại cổ xưa về lửa, trải qua thời gian, Lửa đã được thiêng hóa và vị
Nữ thần này là người có vai trị trọng trách giữ thứ lửa thiêng liêng ấy, thứ
lửa màu nhiệm của Trời ban cho loài người và mãi mãi được người dân Việt
<i>r</i>
2 2 0 V a n hó a th ờ N ữ th ắ n - MẪU ở V iệ t NAM VẢ chAu A
dân Mường Bằng bị hạn hán lâu ngày, hỏi ra thì họng trời bị tắc. Họng trờii
tắc là bởi:
Sau phải nhờ Lang Cặp Lang Kè chặt rễ cây đa, cây si, họng trời mới
thông và các Nàng - tức các nữ thần đã cho trời gầm, trời chớp, trời sét. Dân
gian nghe sấm sét thì sợ, phải “hú vía” để hồn khỏi bay đi. Nhưng trước khi
ra lệnh cho sấm chớp, các Nàng cũng đã cho cây cỏ báo trước:
Chính vì vậy mà từ xưa dân các mường thường ra xem rau, xem măng
để đoán mưa bão. Truyện kể về dòng sông Mã cũng kể rằng các dịng sơng
Đà sơng Mã đều do các Nữ thần sông nước canh giữ với những mỏ vàng mỏ
Trong các thần thoại Thái của vùng Mường Then, người Thái quan
niệm các vị thần canh giữ nguồn nước của ba con sông Nặm
Theo tài liệu của nhà Thái học cầm Trọng thì người Thái trắng ở
Mường Muỗm, Bảo Lạc, Cao Bằng gọi thần Nước của họ được gọi là Già
Vài Khao (Bà thần trâu trắng) và cho rằng bà trú ngụ ở khúc suối Pák Miều.
Hiện tượng này cũng thấy có ở người Tày Khao sống tập trung ở vùng tả
ngạn sông Hồng như Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và họ cũng dùng danh
xưng Gìa Vài Khao để chỉ Nữ thần Nước
Thần thoại Việt trong nguyên mẫu cổ xưa coi các thần tự nhiên trong
đó có Thần Nước đều là nữ thần, như Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước. Điều này
xuất phát từ từ điều kiện của nền nông nghiệp lúa nước lâu đời của Việt Nam
và vùng Đông Nam Á nói chung. Với nghề chính là trồng trọt canh tác lúa,
nguời phụ nữ vốn được coi trọng trong vai trò phát hiện và tìm thấy giống
cây lương thực quý báu này, hệ quả dẫn đến là truyền thống đề cao nữ giới
Khi Phật giáo vào Việt Nam đã diễn ra q trình bản địa hóa Phật giáo,
Man Nương đã trờ thành Phật Mau với công lao tỉm nước chống hạn cho cả
vùng dân cư sinh sống là vùng Dâu thuộc đồng bằng Bắc Bộ, nơi nền nông
nghiệp lúa nước phát triển sớm nhất của Việt Nam. Và các nữ thần tự nhiên
cùa vùng Dâu đã đã trở thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (bà Mây), Pháp
Vũ (bà Mưa), Pháp Lơi (bà sấm), Pháp Điện (bà Chóp). Đó là các vị nữ thần
có khả năng đem nước đến cho con người, là những vị phúc thần bảo trợ cho
cuộc sống người dân nơi đây. Sự tôn vinh và phụng thờ các vị thần Tứ Pháp
đã có ảnh hưởng và lan tỏa khắp vùng Bắc Bộ mang ý nghĩa thể hiện ước
vọng điều hòa và chế ngự nguồn nước cho những người nông dân nông
nghiệp Việt Nam.
2 2 2
Theo dân gian, Mẩu Thoải có mặt ở khắp mọi nơi để giúp đỡ mọi
người mỗi khi đi qua các vùng sơng nước. Cũng có truyện kể Mầu Thoải là
vợ của vua Thủy Tề, vị vua ở dưới Thủy cung. Vua Thủy Tề trơng coi các
việc ở biển, cịn Mẩu Thoải trông coi các việc ở sông, suối. Do sông suối có
ở khắp nơi nên Mầu cũng có mặt ở khắp nơi, nhất là tại các bến sơng lớn.
Cũng vì vậy, Mau Thoải được thờ ở nhiều nơi, có nơi được thờ là Thành
hồng và có sắc phong đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương" như ở
làng Viêm Xá, Yên Phong, Bắc Ninh - một làng thuần về nông nghiệp của
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong quá trình phát triển đã có những thay đổi trong tín ngưỡng về
Nước, Nữ thần Nước đã được thay thể bằng những nam thần. Thần thoại
Thần thoại Mường gọi vị thần cai quản về Nước là ông Pồng Pêu và kể
trong