Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

2019 mot so bai nghi luan van hoc dung lam khung trien khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.79 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>GỢI Ý NGHỊ LUẬN VĂN HỌC</b>
<b>VỢ NHẶT</b>


Trong nền văn học VN hiện đại, Kim Lân là một nhà văn có nhiều đóng góp tích cực về thể loại
truyện ngắn và đề tài nông dân. Mặc dù trong hai giai đoạn sáng tác ông viết không nhiều tuy
nhiên khi nhắc đến ông người đọc không thể không nhớ đến các truyện ngắn như: <b>Làng, Đứa </b>
<b>con người vợ lẽ, Vợ nhặt</b>….


Trong đó có thể nói “Vợ nhặt” là truyện ngắn đặc sắc. Qua câu chuyện Tràng tình cờ nhặt
người đàn bà về làm vợ trong hoàn cảnh XH đang diễn ra nạn đói khủng khiếp Kim Lân đã đặt
ra những vấn đề hết sức sâu sắc. Đó là giá trị nhân phẩm của con người và những phẩm chất tích
cực của những người lao động nghèo khổ trong hoàn cảnh XH tối tăm.


Tràng là một thanh niên có thân phận và địa vị XH thấp kém. Anh có một ngoại hình xâu,
q kệch với đơi mắt nhỏ tí và hai quai hàm bạnh ra. Anh lại mồ côi cha, sống với bà mẹ già
trong một ngơi nhà rúm ró, xiêu quẹo. Bản thân anh cũng khơng có một nghề nghiệp vững
chắc, ổn định. Hằng ngày anh gò lưng kéo xe bị chở thóc mướn để kiếm miếng ăn ni thân và
nuôi bà mẹ già. Anh lại thuộc hạng dân ngụ cư, hạng dân lép vế nhât trong hệ thống làng xã VN
trước kia.


Với thân phận và địa vị như thế theo lẽ thường cuộc đời Tràng rồi sẽ tàn lụi trong cảnh cơ
đơn, bần cùng nói chi đến chuyện hạnh phúc lứa đôi. Bởi lẽ không một người đàn bà nào lại dại
dột gắn cả cuộc đời mình với một người thanh niên như vậy. Thế nhưng trong diễn biến câu
chuyện Tràng lại có vợ hay nói đúng hơn là tình cờ nhặt được vợ khơng phải mất tiền tổ chức
nghi lễ cưới hỏi theo lẽ thường tình.


Tràng gặp người đàn bà ấy vỏn vẹn chỉ hai lần. Lần thứ nhất khi kéo xe bò vào dốc tỉnh
thấy mấy chị con gái đang ngồi vêu ra, Tràng cất giọng hò chơi một câu cho đở mệt: “Muốn ăn
<i>cơm trắng với giò này! Lại đây mà đẩy xe bị với anh ni”. Tràng khơng có chủ tâm chọc ghẹo cô </i>
nào nhưng không ngờ một chị cong cớn hỏi lại Tràng: “Này, nhà tơi ơi nói thật hay nói khốc
<i>đấy?” Rồi chị ta lon ton chạy lại giúp Tràng đẩy xe bò lên dốc. Lần thứ hai khi Tràng đang ngồi</i>


uống nước ở cổng chợ tỉnh, người đàn bà xuất hiện đột ngột trước mắt Tràng và mắng anh là


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>nói đùa chớ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng về”</i><b>. </b>Nhưng không ngờ người đàn bà
đồng ý . Thế là Tràng và người đàn bà nên vợ nên chồng.


Tràng có vợ là việc khác thường ngồi sức tưởng tượng của mọi người từ người dân xóm
ngụ cư đến bà cụ Tứ và cả chính bản thân Tràng. Càng khác thường hơn nửa vì sự kiện ấy diễn
ra trong cảnh nạn đói và nạn chết đói xảy ra khốc liệt. Bao gia đình ở Nam Định, Thái Bình phải
rời bỏ quê hương dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngỗn ngang khắp lều
chợ, người chết đói như ngã rạ. Khơng buổi sáng nào, người trong làng đi chợ đi làm đồng
khơng gặp ba, bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác
rưởi và mùi gây của xác người. Nạn đói đã chẳng buông tha ai.


Trong hồn cảnh nạn đói và nạn chết đói đang hồnh hành, một thanh niên có thân phận
và địa vị xã hội thấp kém như Tràng mà vẫn nhặt được vợ nhờ vài bát bánh đúc, sự kiện đó đã
làm nối bật lên chủ đề của tác phẩm đó là vấn đề nhân phẩm của con người trong hoàn cảnh xã
hội tối tăm. Chủ đề vừa nêu có ý nghĩa phê phán xã hội gây gắt.


<b> “Vợ nhặt”</b> không chỉ được viết bằng cảm hứng tố cáo vạch tội các thế lực thống trị, tác
phẩm cịn tốt lên tinh thần nhân đạo sâu sắc thể hiện qua cái nhìn phát hiện và khẳng định
những phẩm chất tích cực của người lao động trong hoàn cảnh xã hội tối tăm.


Trước hết đó là khát vọng về hạnh phúc đơi lứa của người lao động cùng khổ. Đọc lướt qua
truyện chúng ta thấy việc Tràng và người đàn bà về chung sống với nhau diễn ra hình như là hết
sức ngẫu nhiên tình cờ nhưng nếu ở cả hai con người khốn khổ ấy không tiềm ẩn nổi khát khao
về hạnh phúc lứa đơi thì chắc hẳn họ đã khơng nên vợ nên chồng và cuộc gặp gỡ ấy có thể dẫn
đến một cuộc mua bán đổi chát giữa kẻ có cái ăn trong tay và một người đang đói khát. Chính
khát vọng hạnh phúc đã khơi dậy ở họ những tình cảm mới lạ.


Trên đường về nhà mặt Tràng có vẻ gì phớn phở khác thường, anh tủm tỉm cười nụ một


mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Có lúc Tràng quên đi cuộc sống tối tăm ê chề hằng ngày,
quên cả cái đói đang đe doạ. Anh cảm thấy một cái gì mới mẽ lạ lắm nó ơm ấp mênh mang khắp
da thịt. Cịn người đàn bà mặc dù chị có vẻ khó chịu trước ánh mắt tò mò và những lời true chọc
trong xóm ngự cư nhưng vẫn khơng giấu được vẻ e thẹn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Rõ ràng là đằng sau vẻ tình cờ ngẫu nhiên xoay quanh việc Tràng nhặt được vợ thì chính
khát vọng hạnh phúc lứa đơi đã thúc đẩy Tràng và người đàn bà đến với nhau và nên vợ nên
chồng bất chấp sự bần cùng và nạn đói đang đè nặng lên xã hội.


Đáng lưu ý hơn nữa dù sống trong cảnh tối tăm thê thảm nhưng người lao động vẫn thể
hiện một tấm lòng nhân hậu vị tha cao cả. Điều đó thể hiện tập trung qua thái độ suy nghĩ của bà
cụ Tứ đối với người đàn bà xa lạ mà Tràng nhặt về nhà làm vợ.


Theo lẽ thường trong hồn cảnh nạn đói đang đe doạ từng ngày, từng giờ, bà cụ Tứ có đủ lí
do ngăn cấm và xua đuổi người đàn bà kia. Bởi vì nếu bà đồng ý cho người đàn bà về chung
sống với con mình thì điều đó cũng có nghĩa là rước về nhà thêm một miệng ăn, rước cái đói về
nhà. Thế nhưng bà cụ Tứ lại khơng làm như vậy. Trái lại, bà cụ cịn cảm thông, tủi hổ cho chị và
vui vẻ chấp nhận chị làm con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới
<i>lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Khơng xua đuổi hắt hủi một con người cùng </i>
đường khốn khổ mà còn xem như là một ân nhân, tấm lòng nhân hậu vị tha của bà cụ Tứ thật là
cao cả hiếm thấy.


Cùng với khát vọng hạnh phúc là khát vọng đổi đời, khát vọng vùng lên giành lấy áo cơm,
giành lấy sự sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo khổ. Khát vọng chính đáng
ấy được gợi mở khéo léo qua thái độ ngạc nhiên của vợ Tràng khi nghe bà cụ Tứ nói đến chuyện
đóng thuế. Đặc biệt là hình ảnh đồn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện ra
trong suy nghĩ của Tràng.


Truyện thành công với tình huống truyện độc đáo, tài năng thể hiện diễn biến tâm lí nhân
vật tinh tế và cách dùng ngơn ngữ lời ăn tiếng nói của người dân lao động<b>. “Vợ nhặt”</b> được xem


là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân.


<b>“Vợ nhặt”</b> là truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân lấy đề tài về nạn đói 1945 nhưng truyện
được sáng tác sau CM tháng Tám nên Kim Lân đã có một khoảng thời gian cần thiết đề suy
ngẫm nhìn nhận vấn đề và dụng cơng nghệ thuật. Nhờ đó Kim Lân đã nêu lên được những vấn
đề XH, con người một cách sâu sắc dựa trên tình huống truyện độc đáo kết hợp với nghệ thuật kể
chuyện linh hoạt và ngòi bút miêu tả tinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm
của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với
đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất
riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đị Sơng Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ
bằng văn xuôi đã thể hiện được nhưng nét tiêu biểu về phong cách đó.


Người lái đị sơng Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông.
Nhưng dưới ngịi bút đầy hứng thú và tài hoa của ơng mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành
những công trình mĩ thuật, con ngưõri đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.


Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vơ cùng giàu
có, chuẩn xác Nguyễn Tn đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng
kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.


Người lái đị trên sơng Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già 70 tuổi đã giành một
phần lớn đời mình cho nghề lái đị dọc trên sơng Đà. Đó là một người lái đị lão luyện: “Trên
dịng sơng Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...”
trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.


Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến
trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng đất tất cả những luồng nước
của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối


với con người này: “Sơng Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã
thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách
so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyền Tuân”.


Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn
quánh như chất sừng, chất mun” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ
tráng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách
thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hồng:
khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà
quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy
để vồ lấy thuyền”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ cùa người cầm lái
để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đị sơng Đà với
người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh
tay, có tiến lên, lùi lại “cịn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có
lao đi chứ khơng lùi lại, khơng lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ
khơng có lùi gì cả...” vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác
giả đã tả sơng Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người
lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ
muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sơi khổng lồ”.
“Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xốy sâu như lịng giếng
“cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...


Thật là một dịng sơng Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái
đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì
những địn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh
táo của người cầm lái”.



Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến
một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của
ơng lái đị, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đị về đến bến bình n, khơng phải
chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức
giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dịng sơng vặn
mình vào một cái bến cát có hang lạnh (...). Sơng nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đị đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam...”


Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn
văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đị, cả sau khi đã thơi nghề vài chục năm, trên ngực người lái
đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh quý giá của
một thứ huân chương lao động siêu hạng”.


Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một cơng trình nghệ thuật
đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về cuộc sống, về văn
hóa và lịch sử địa lí, về ngơn ngữ... tác phẩm đích thực ấy cịn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc
đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của thiên nhiên của tạo hóa
và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động: Người lái đị sơng Đà.


Nguyễn Tn đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy vinh quang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm
của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình u tha thiết. “Người lái đị sơng Đà” là bài tùy bút
lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sơng Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ
sỹ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã
rất thành công khi xây dựng hình tượng sơng Đà bằng chất liệu ngơn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tn, sóng Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chơc slaij
bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo léo mới có thể nhận


ra sự chuyển đổi của sơng đà như vậy.


Sơng đà hiện lên là dịng sơng hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo khuôn
khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông, dựng vách thành,
mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lịng sông đà như
một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với
nhiều phức tạp, khó khăn, nguy hiểm khơn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn
sông này “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất
vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh tế. Sông Đà
đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.


Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tn cịn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả sự hùng vĩ,
hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sõng xơ gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuyết bất cứ người lái đị nào
tóm được qua qng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của
những ai vơ tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.


Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng trước sơng đà
hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm
xúc. Một cảnh tưởng hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong
văn học. Nguyễn Tuân thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến
con chữ như biết nói, biết rung động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thuyền bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lá đò, với tất cả đặc
tính nham hiểm, thâm độc nhất.



Tuy nhiên bên cạn vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà cịn hiện lên thật nên thơ và trữ
tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sơng đà tn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mùa khói mèo đơý nương xn”. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện
lên giữa rừng núi hiểm trở Tây bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dịng sơng mới thật
tuyệt vời và thi vị biết bao “Mùa xuân dịng xanh ngọc bochs, chứ nước sơng đà khơng xanh màu
canh hến của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sơng đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì ruơu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Những từ
ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dịng sơng tưởng chừng chỉ có giận
dỗi và hung dữ.


Sơng Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ đẹp nhẹ nhàng, chân
chất và tươi mới biết bao nhiêu.


Qua đôi mắt người lái đị, hay là đơi mắt của tác giả sơng Đà tạo nên những dịng cảm xúc thật lạ
kì, thần tiên và mộng mơ q đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều
tốt lên vẻ đẹp khơng phải nơi nào cũng có được. Và sơng Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người
đọc phải ngỡ ngàng.


Gấp trang sách lại nhưng hình ảnh con sơng Đà trong tùy bút “Người lái đị sơng Đà” lại ám ảnh
người đọc cho đến sau này. Một vẻ đẹp hùng vĩ, hung dữ của thiên nhiên đan xen sự thơ mộng,
nhẹ nhàng như chốn bồng lai. Đó chính là sự thành công của Nguyễn Tuân.


RỪNG XÀ NU
Cây xà nu


“Rừng xà nu” là truyện ngắn của Nguyễn Trung Thành , tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam thời kì 1945-1975. Chủ đề của tác phẩm được bộc lộ


sâu sắc do ý nghĩa khái quát và giàu chất lãng mạn, tạo hình của hình tượng cây xà nu.


Đi suốt chiều dài tác phẩm, xà nu là hình tượng bao trùm là mạch sống mạch hồn của tác phẩm.
Khi cầm bút sáng tác thiên truyện này, hình ảnh đầu tiên hiện về trong tâm trí ơng là cây xà nu,
những cánh rừng xà nu. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phẩm, nó chiếm
giữ những vị trí quan trọng nhất của truyện ngắn : nhan đề, mở đầu và kết thúc. Hình ảnh cây xà
nu còn trở đi trở lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

truyện. Cây xà nu luôn gắn bó gần gũi với đời sống của dân làng Xơ man, có mặt trong đời
sống hàng ngày của dân làng. Lửa xà nu cháy dần dật trong mỗi bếp, trong đống lửa của nhà ưng
tập hợp dân làng, khói xà nu xông bảng nứa để Tnu và Mai học chữ. Khi Tnu trở về đơn vị, cụ
Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu cạnh con nước lớn. Cây xà nu còn tham gia vào những
sự kiện trọng đại của dân làng: ngọn đuốc xà nu dẫn đường cho cụ Mết và dân làng vào rừng lấy
giáo, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ chuẩn bị nổi dậy. Mười ngón tay Tnu bị đốt vì giẻ tẩm nhựa xà nu,
và chính vì cảnh tượng đau thương ấy dân làng đã nổi dậy để “ đống lửa xà nu lớn giữa nhà” soi
rõ “xác mười tên lính giặc nằm ngổn ngang”. Cây xà nu cũng đã thấm sâu vào nếp cảm, nếp nghĩ
của người Tây Nguyên. Tnu cảm nhận về cụ Mết “ ngực cụ căng như cây xà nu lớn”. Trong câu
truyên vê Tnu, cụ Mết cũng nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự
hào: “khơng có gì mạnh bằng cây xà nu nước ta”, cây xà nu đã trở thành máu thịt trong đời sống
vật chất và tinh thần của con người Tây Nguyên.


Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách
mạng. Ta có thể thấy ý đồ nghệ thuật này khi tác giả miêu tả song hành hai hình tượng cây xà nu
và những con người Tây Nguyên . Thứ nhất, thương tích của rừng xà nu do đại bác của giặc
gây ra tượng trưng cho những mất mát đau thương vô bờ mà người dân Tây Nguyên phải chịu
đựng. Nếu rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào khơng bị thương thì con người Tây Ngun
cũng vậy. Những cây xà nu non bị đại bác chặt đứt làm đơi thì tượng trưng cho những đứa con
của Tnu và Mai. Còn những cây xà nu trưởng thành đại bác khơng giết nổi chúng thì cũng giống
như Tnu và Dít, những con người trưởng thành từ những đau thương mất mát của chiến tranh.
Thứ hai, cây xà nu có đặc tính ham ánh sáng, đặc tính ấy tượng trưng cho niềm khát khao tự do


của người dân Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết “ít có lồi cây nào ham ánh sáng mặt trời
đến thế…” Con người Tây Nguyên cũng vậy luôn khao khát tự do, mặc dù bon giặc đã giết bà
Nhan, anh Xút vầ cả anh cán bộ Quyết nhưng Tnu và Mai vẫn kiên trì ni giấu cán bộ. Thứ ba,
khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu và sự rộng lớn của rừng xà nu giúp ta gợi liên tưởng
dến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Tây Nguyên. Nguyễn Trung Thành viết “Trong rừng ít có
loại cây nào sinh sơi nảy nở khỏe như vậy , cạnh một cây xà nu mới ngã đã có bốn, năm cây con
mọc lên xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Làng Xơ man cũng có hững thế hệ
tiếp nối như vậy: cụ Mết là cây xà nu lớn. Tnu, Mai và Dít là những cây xà nu trưởng thành và
bé Heng là cây xà nu con rắn rỏi. Thứ Tư, sự tồn tại của rừng xà nu qua những hành động hủy
diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt và khả năng vươn lên mạnh mẽ của con người
Tây Nguyên trong chiến đấu.


Những cây xà nu trưởng thành nhanh chóng liền vết thương, vượt lên cao hơn đầu người thay thế
cho những cây xà nu đã ngã. Vì thế bon hủy diệt không thể nào hủy diệt được rừng xà nu. Người
Tây Nguyên cũng vậy, các thế hệ thay nhau che chắn bảo vệ cho cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

trời trong màu xanh bất diệt khi con người chưa thấm thía bài học “chúng nó đã càm súng mình
phải cầm giáo”.


Tác giả đã kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan khi miêu
tả cây xà nu tạo nên hình ảnh cây xà nu đầy sức lực, tràn trề sưc sống. Tác giả ln miêu tả hình
tượng cây xà nu với con người, các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tượng trưng đều được vận dụng
nhằm thể hiện sống động vẻ hung vĩ của thiên nhiên và gợi ra những lien tưởng về con người.
Nhờ thế những đoạn văn miêu tả rừng xà nu giống như một bài thơ trữ tình với giọng văn đầy
biểu cảm.


Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt suốt tác phẩm tượng trưng cho vẻ đẹp hào hung
đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Qua đó chất thơ và chất sử thi hịa làm
một thể hiện rõ phong cách văn xi Nguyễn Trung Thành: vừa say mê, vừa trầm tư, vừa giỏi
tạo hình vừa giàu tính khái qt.



<b>Nhân vật Tnu</b>


Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam, Đà Nẵng.
Có thể nói: Mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ với những tập tục văn hóa lâu đời, với truyền thống
đấu tranh bất khuất đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhà văn. Rừng xà nu là một trong
số những tác phẩm tiêu biểu, là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về
cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần
thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là T nú.


Bằng ngịi bút khắc họa nhân vật tài tình và khuynh hướng sử thi làm chủ đạo, nhân vật T nú
hiện ra với một góc nhìn vừa mới vừa đầy tính chất anh hùng của thời đại. Đây là một nhân vật
anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa
bằng những đường nét độc đáo. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có
số phận riêng nhưng thực ra T nú lại đại diện cho số phận và con đường đi lên của dân tộc.
Cuộc đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng.
Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác nằm dưới tầm đại bác của giặc. Cho
dù dưới những cuộc chiến tàn khốc của đại bác và bom đạn của giặc mỹ, những cây xà nu bị cưa
ngang thân nhưng ở dưới chúng những cây con lại bắt đầu nhú lên nhọn hoắt. Khơng cây nào
khơng bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu – T nú cũng phải chịu những thương tích do
giặc gây ra.


Ngơi Làng Xơ Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của tội ác quân thù “ Bà Nhan bị
chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cơ bé Dít đã trở thành bia cho bọn giặc nhắm bắn vui cười…Đắng
cay hơn,khi chính mắt anh phải nhìn phải chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con
mình chết, và chính mình khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón
tay… đớn đau thấy cảnh tượng nhìn người thân mình chịu địn roi của chính kẻ giặc, rồi T nú
cũng lên đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ
khí và xây dựng làng chiến đấu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị
giặc bắt tra khảo anh đã quyết không khai, anh đã chỉ vào bụng mình – nói “Cộng sản ở đây”.
Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng khơng kêu van. Và hành
động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp
cái chết của Tnú,anh có thể làm tất cả mọi thứ dù hi sinh và cái chết đang đợi mình. Câu chuyện
về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị về nghỉ phép trong
một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất đúng kỷ luật của đơn
vị, tôn trọng kỷ luật của làng.


Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để sống đẹp.
Tnú từ nhỏ đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác chuẩn bị
cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai.Khơng gì đau đớn hơn có người vợ hiền
thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của
vợ con. Khơng những thế, Tnú cịn là nạn nhân của bọn giặc man rợ.


Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa, gắn bó với cách mạng, hết lịng
với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ.


Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả. Dân
làng là những ngươi đùm bocjanh chính vì thế sau này khi lớn lên khi am hiểu hơn thì anh có thể
làm mọi thứ để cứu lấy dân làng của mình. Được nghỉ phép một ngày mà vừa tới đầu làng anh đã
cảm nhận được mọi thứ thân thuộc.anh là người giữa tình cảm trọng tình nghĩa, gắn bó với cách
mạng và q hương. Chính bản tính gan góc của anh đã khiến cho tinh thần chiến đấu thêm gan
dạ,kiên cường giống như hình ảnh của những cây xà nu.


Mỗi khi chúng ta nhắc đến T nú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa đó là
tay T nú- bàn tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ
vào bụng mình nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con
nước lớn của làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác… và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả.
Hình ảnh nữa là hai cánh rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần


cuối, rồi mười đầu ngón tay của Tnú bốc lửa. Trải qua bao nhiêu khốc liệt bao nhiêu trận đánh và
chứng kiến bao cảnh chết chóc,bàn tay ấy tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn
giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù.


Tác phẩm”Rừng xà nu” của tác giả Nguyễn Trung Thành dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng
tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt
Nam. Song song với anh là những nhân vật mang tính nguồn cội như cụ Mết hay những thế hệ
tiếp nối như Dít. Câu chuyện và tinh thần bất khuất kiên cường ấy vẫn mãi bùng cháy trong mỗi
con người dân Tây Nguyên.


Nhân dân anh hùng


<b>Truyện ngắn “Rừng xà nu”(1965) in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện </b>
<b>Ngọc” là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số những tác phẩm của Nguyễn Trung Thành viết </b>
<b>về Tây Nguyên thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

khí phách hiên ngang bất khuất trước kẻ thù, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Họ mang
trong mình chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Việt.


Có thể nói “Rừng xà nu” là tác phẩm kết tinh được những vẻ đẹp truyền thống của Tây Ngun.
Vẻ đẹp đó khơng chỉ được thể hiện qua biểu tượng của thiên nhiên mà còn biểu hiện trực tiếp, cụ
thể ở hình tượng con người. Con người được cuốn vào một vấn đề bức thiết đó là vận mệnh của
cả dân tộc. Mỗi con người đã hịa nhập cái tơi vào vận mệnh chung của đất nước. Vận mệnh đã
chi phối tính cách các nhân vật, nâng họ lên tầm vóc anh hùng.


Cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần, vật chất có tinh thần truyền thống và cội nguồn
của Tây Nguyên. Cụ vừa là linh hồn của tác phẩm, vừa là linh hồn của làng Xô Man. Một cụ già
sáu mươi tuổi, sáng suốt, mưu trí tiêu biểu cho thế hệ thứ nhất. Đó là con người “quắc thước”,
“tiếng nói ồ ồ vang dội trong lồng ngực”, “bàn tay nặng trịch nắm lấy vai Tnú như một kim
sắt”…



Cụ Mết được xem là người nuôi dưỡng khát vọng tự do, là trụ cột của dân làng, là cầu nối giữa
dân làng với cách mạng. Lời cụ vang vang khắp núi rừng như lời phán truyền của lịch sử. Hiện
lên trong tác phẩm không chỉ với dấu ấn phi phàm mà còn là một con người đời thường, một già
làng thương bản, thương người Strá mình.


Là biểu tượng của sức mạnh tinh thần, vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của dân tộc
Tây Nguyên. Chính vì vậy, ơng là cây xà nu lớn nhất, vững chãi nhất của núi rừng Tây Nguyên.
Mai và Dít là hiện thân cho hình ảnh người phụ nữ thời đại mới ở Tây Nguyên. Nguyễn Trung
Thành đã dành trọn tình cảm yêu mến xen lẫn khâm phục khi nói về Mai và Dít, phẩm chất anh
hùng đã được hình thành trong họ từ nhỏ. Họ là những vụ nữ Tây Nguyên tiêu biểu cho thời đại
mới.


Bé Heng là tương lai của cách mạng, là đại diện thế hệ cây xà nu non của núi rừng. Hình ảnh bé
không thể thiếu trong một bức phù điêu về hình tượng nhân dân anh hùng. Em là cây xà nu kiên
cường, bất khuất nối tiếp truyền thống anh hùng của làng Xơ Man, mang trong mình bao sinh lực
và nhựa sống, hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu mạnh mẽ và bất tử.


Tnú là nhân vật trung tâm, người anh hùng, người con vinh quang của làng Xô Man của người
Strá được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo, giàu chất sử thi. Anh
là tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của dân tộc Tây Nguyên.


Nhân vật là linh hồn của tác phẩm, chuyển tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Những kì tích của
mỗi nhân vật trong rừng xà nu đều thể hiện tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
chân lí của thời đại. Lịng u nước, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc của họ mãi là khúc ca hùng
tráng khơng chỉ có tác dụng biểu dương cho tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trong những
năm kháng chiến mà cịn có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, khí phách cho thế hệ mai sau.


<b>TÂY TIẾN</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói riêng từ lâu đã đi
vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về người lính với tất cả niềm kiêu
hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm như vậy, Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây
<i>Tiến là một trong những bài thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì</i>
đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền thơ Việt
Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến.


Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va
miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao
gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).


Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh,
sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu thốn về vật chất, thuốc men với căn
bệnh sốt rét hồnh hành dữ dội nhưng những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến
đấu rất dũng cảm. Có thể nói những người lính Thủ đơ đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo
vẹn nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.


Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng đội và những ngày
tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả với đồn qn Tây Tiến, gắn với
vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức
để kết tinh tập trung trong bức chân dung người lính Tây Tiến.


Bằng bút pháp lãng mạn mà khơng thốt li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng sững bức tượng
đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời gian.


Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:


<i>Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc</i>
<i>Quân xanh màu lá dữ oai hùm</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>Trên má anh vàng nghệ</i>


Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của những người lính
Tây Tiến:


<i>Mắt trừng gửi mộng qua biên giới</i>
<i>Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm</i>


Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh chữ “Mơ”. Câu thơ
mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được
sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào
dâng và đong đầy trong ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:


<i>Những đêm dài hành quân nung nấu</i>
<i>Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.</i>
<i>{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)</i>


Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính ln là hạnh phúc. Nỗi nhớ
của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai nhân u kiều, thướt tha, thanh lịch
nào đó ngồi cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống
tương lai hạnh phúc mà họ khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa,
niềm hi vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.


Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang Dũng không hè né
tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh:


<i>Anh bạn dãi dầu khơng bước nữa</i>
<i>Gục lên súng mũ bỏ quên đời;</i>
<i>– Rải rác biên cương mồ viễn xứ</i>


<i>Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;</i>
<i>Áo bào thay chiếu anh về đất</i>


<i>Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

quên mình vì Tổ quốc“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ
đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến.


Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với mn đời. Dịng lịch sử có thể đổi
thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi
tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian
khổ, hi sinh nhưng lúc nào cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi
sôi nổi, lúc lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ xưa,
để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.


Thiên nhiên


Thơ Quang Dũng vừa có hơi hướng cổ điển vừa mới mẻ hiện đại . Ơng có một hồn thơ tài hoa
,tinh tế đa cảm . “Tây tiến” là bài thơ đặc sắc của Quang Dũng .Bài thơ thể hiện nỗi nhơ thương
da diết cháy bỏng về đồng đội Tây Tiến hào hoa kiêu dũng chiến đấu giữa miền tây hùng vĩ
lệ.Bài thơ thành công một phần là là nhờ cách xây dựng hình tượng núi rừng Tây bắc hùng vĩ
diễm lệ.


Bài thơ được viết bằng 2 p.c nghệ thuật chính đó là bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn ,nhờ
vậy thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng đc hiện lên một cách chân thực. Đồng
thời qua thủ pháp cường điệu ,Quang Dũng đã tô đậm cái phi thường mới lạ dựng hình tượng
nghệ thuật mĩ lệ.


Bai thơ đc sáng tác trong cảm hứng nhơ một thời chiến đấu oanh liệt của đồn qn TT đầu thời
kì chống pháp ở vùng biên giới Việt lào .Bài thơ dựng lên bức tranh núi rừng Tây bắc trong niềm


hoài niệm thiết tha . Đó là bức tranh núi rừng hùng vĩ dữ dội .


Những địa danh xuất hiện từ đầu bài thơ đưa người đọc vào không gian Tây bắc “sơng Mã ,sài
Khao Mường Lát gợi khơng khí núi rừng xa xôi lạ lẫm .


Quang Dũng sử dụng một loạt hình ảnh dựng lên khung cảnh rừng núi dữ dội hùng vĩ:


<i>Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm</i>
<i>Heo hút cồn mây súng ngửi trời</i>


Hình ảnh đèo dốc “khúc khuỷu “. “thăm thẳm” đc hiện lên đầy hiểm trở gập ghềnh nhờ cách sử
dụng từ láy tượng hình .Câu thơ “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm ‘dày đặc thanh trắc càng
nhấn manh sự hùnh vĩ hiểm nguy của cảnh núi rừng .Hai chữ “dốc” mở hai nhịp thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

đã đẩy con đường “khúc khuỷu” “thăm thẳm” lên đến tận cùng.Cảnh thơ vừa thực vừa khoa
trương cường điệu.


Hình ảnh “cồn mây” cũng góp phàn cực tả dộ cao của đèo dốc ,tô dậm cái hùng vĩ của cảnh núi
rừng, độ cao ấy đc hình dung cụ thể hơn qua hình ảnh “súng ngửi trời” .Một đọ cao chỉ thấy cái
hiểm nguy nghẹt thở đe doa cuộc sống con người nhưng lại đc nhà thơ nói theo kiểu nhẹ tênh
pha chút ngang tàng kiểu lính .


Câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống “nhịp gấp khúc tả con đường hành quân khắc
nghiệt ,dữ dội .Câu thơ như đc bẻ gập đôi cực tả hai bên lên xuống của đèo dốc “khiến độc giả
như đnag đc thể nghiệm một trò chơi bập bênh đến chóng mặt”(phan huy dũng)


Cảnh núi rừng miền tây khơng chỉ hùng vĩ ,dữ dội mà cịn đầy bí hiểm .


<i>Chiều chiều oai linh thác gầm thét</i>
<i>Đêm đêm Mường hịch cọp trêo người</i>



Thủ pháp cường điệu tô đậm vẻ đẹp hoang dại ,dữ dội bí hiểm :thác dữ gầm gào,hổ dữ rình rập
đe doạ .Khung cnảh núi rừng miền tây hiện lên đày vẻ oanh linh ,bí hiểm .Cả thiên nhiên miền
Tây Bắc bóng chiều và đêm tối như đồng loã với tác dữ và cọp dữ đẻ uy hiếp con người


Thiên thiên miền tây trong thơ Quang Dung ,trong Tây tiến không chỉ đc vẽ bằng những nết
khoẻ ,gân guốc và đi cùng vói nó là những nét vẽ mềm mại nên thơ .bút pháp lãng mạn khắc hoạ
cho người dọc một Tây bắc thơ mộng mĩ lệ .


Câu thơ


<i>Nhà ai Pha luông mưa xa khơi</i>


trải dài chuỗi thanh bằng , âm điệu mượt mà ,phác hoạ không gian mưa rừng mênh mông biển
nước .Tất cả những cảnh hùng vĩ dữ dội và nguy hiểm của một miền tây như biến mất nhường
vào đó là khung cảnh nên thơ “mưa xa khơi”.MÀn mưa menh mang hiện lên thật khiến lòng
người phải xao động .


cảnh núi rừng miền Tây thơ mộng nhuốm màu sương khói mờ ảo “sương lấp”,nhữg bóng nhà
thấp thống trong mưa ,khói cơm chiều lững lờ lưng núi .


Cảnh tây bắc mĩ lệ thơ mộng còn đc hiện về trong khung cảnh sinh hoạt của con người với
những nét vẽ tài hoa tinh tế .


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Xứ sở miền tây tươi đẹp mĩ lệ hiện lên trong doạn thơ


<i>Người đi châu mộc chiều sương ấy</i>
<i>Có thấy hồn lau nẻo bến bờ</i>


<i>Có nhơ dáng người trên độc mộc</i>


<i>Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa</i>


Cảnh tiễn biệt trong chiều sương hiện lên băng bút pháp lẵng man,những câu thơ rất nhiều thanh
bằng làm âm điệu như chung xuống .Khung cảnh miền tây trong lúc này đc tác giã diễn tả bằn vẻ
tươi đẹp hài hoà .


Ngịi bút tài hoa tơ đậm linh hồn non nứơc ,bóng ngưuơì thấp thống chiều sương hoa lau phất
phơ hồn thiêng sơng núi .Ngơn ngữ tạo hình phác hoạ dáng người ,dáng hao,dáng thuyền lung
linh huyền ảo .Ngôn ngữ tả dáng dấp sự vật đẻ tả dáng dấp tâm hồn .Hồn thơ Quang Dũng nhay
cảm với vẻ đẹp mong mnah huyền ảo mơ hồ .


Bức tranh sơng nước xứ lạ hoang sơ là dịng hồi niệm nhơ nhung ngọt ngào về một miền đất lạ
nhưng vơ cùng thưuơng mến gắn bó .Miền đất ấy đã trở thnàh một nơi “hoa tâm hồn “trong lòng
ngươi thi sĩ .


Bài thơ tây tiến của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa thành công một thiên nhiên miền tây hùng
vĩ hiểm nguy nhưng không kem phần lãng mạn ,mĩ lệ .Bài thơ dã tạc hình tượng thiên nhiên
miền tây mãi mãi vào lòng độc giả trong tình cảm u mến gắn bó thiết tha.


ĐẤT NƯỚC


Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người .
Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt
mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình
tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi
đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp
một cái nhìn tồn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư
tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua
những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý
thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm


chống Mĩ cứu nước .


Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ
bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu abây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết


trồng tre mà đánh giặc .


Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở
ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích
ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt
Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vơ cùng quyết liệt
khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất
nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.


Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc
giầu truyền thống văn hóa , giầu tình u thương gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi
mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở
thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hơm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn
xin đừng quên nhau .


Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa :
Cái kèo cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng



Đất Nước có từ ngày đó .


Ở đây Đất nước khơng cịn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản gị biết
bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước
với quan niệm “Đất nước của nhân dân” .


Vẫn bằng lời trị chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã
diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :


Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hị hẹn


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Đất nước khơng chỉ được cảm nhận bởi khơng gian địa lí mênh mơng từ rừng đến bể mà cịn được
cảm nhận bởi khơng gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, khơng gian của tình u đơi lứa,
khơng gian của nỗi nhớ thương . Ý nịêm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp
thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô
nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc
điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .


Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với
thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Khơng những thế, đất nước cịn người
bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và
em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi
nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống
đất …”, một lần nữa lại khiến lịng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những
tâm hồn yêu thương say đắm.


Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim



phượng hồng bay về hịn núi bạc, con cá ngư ơng móng nước biển khơi mang phong cách dân ca
miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng
đơi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái
chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng
hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .


Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông
để mãi mãi là nơi dân mình đồn tụ, là khơng gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế
hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng
Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa
Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân
Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dịng giống Rồng Tiên của mình .


Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất


Những ai bây giờ


Yêu nhau và sinh con đẻ cái


Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong
tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .


Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất
nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của
nhà thơ .



Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
Trong anh và em hơm nay


Đều có một phần đất nước


Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự
sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con
người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và
bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .


Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư
tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .


Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng
cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non
Nghiên … khơng cịn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh
ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân
của những con người khơng tên tuổi : “Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất nước những
núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái” , “Người học trò thắng cảnh” . Ở
đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn,
máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc
đời mình lên mỗi ngọn núi , dịng sơng . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ
thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc :


Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ơng cha
Ơi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy


Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta .



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước


Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn
hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng
đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới
cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước này là Đất nước nhân dân


Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại


Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước . Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện
những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc : Thật đắm say trong
tình u, biết q trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc
quan phơi phới . Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui …


Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước . Từ
những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước khơng cịn xa lạ, trừu tượng mà trở nên
thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta khơng chỉ tìm về cội
nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .


VIỆT BẮC


Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể nói những tác
phẩm của ơng khơng chỉ thể hiện tư tưởng,lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta cịn thấy
được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà. Tháng 10- 1954 sau khi chiến thắng


Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở
người đi lòng khơng khỏi nhớ thương nuối tiếc tình qn dân trong mười lăm năm khánh chiến.
nhân sự kiện trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt bắc.


Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi
đây:


“Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly


Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay. . . ”


Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ cũng vậy “Khi ta
ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.


Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình qn dân chan hịa nồng
thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế bây
giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi thân thiết của cản bộ và người
dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ đầu là
lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người chiến sĩ có cịn nhớ
mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những người chiến sĩ về có cịn nhớ
khơng, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại
những ân tình ấy. Trong lịng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây khơng


khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của những
người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khng, bồn chồn khơng muốn bước. Có thể nói các từ láy
ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lịng người chiến sĩ. Nghệ thuật hốn dụ với hình ảnh “áo
chàm” chính là để chỉ người dân Viêt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với
thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại khơng biết nói lên điều gì. Có lẽ khơng cần nói
mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau.


Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ
niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:


“Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu


Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà


Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son
Mình về, cịn nhớ núi non


Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ
về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân ln có những chiến sĩ kề
bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay khơng, chiến khu ấy nghèo chỉ có


cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân
nơi đây. Và trong hồn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá
đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến
sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có cịn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám
bùi thì để rụng cịn măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những
chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp
đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lịng người những nhớ thương khơng muốn rời. Cặp
xưng hơ mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ
người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh
chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một
tấm lịng son sắc khơng phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những trận
chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.


Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lịng
mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:


“Ta với mình, mình với ta


Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình


Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu


Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương


Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre



Ngịi Thia sơng Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày


Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. . .
Thương nhau, chia củ sắn lùi


Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ


Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Chày đêm nện cối đều đều suối xa. . . ”


Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy. Dù người chiến
sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn khơng thể nào qn được những kỉ niệm tình cảm
ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi
mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc.
Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát
cơm thì sẻ nữa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên
nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả
những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả
mọi người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc
sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đơ gió ngàn vẫn khơng sao qn
tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai
bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.


Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua những lời kể ấy


thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi đây, bốn mùa thiên nhiên
hiện lên vơ cùng đẹp:


“Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng


Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng


Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hịa bình


Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

tươi của ho chuối. Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân
thì cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người thì hiện lên
với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại đến thiên nhiên được
thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách. Người con gái hái măng một mình.
Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến
những người nhân dân việt bắc với khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ
thiên nhiên và con người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.


Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của những người
chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm mỗi người chiến sĩ về tình
quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:



“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày


Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lịng.
Ai về ai có nhớ không?


Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng


Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà. . . ”


Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những núi đá dựng
thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân dân nơi đây khỏi những bom
đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân đều cùng nhau làm nên lịch sử. Trên dưới một
lòng quyết tâm đánh địch. Người về nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảng khắc đánh trận và
những địa danh kia.


Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn bị hành quân
cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy chính là lúc tình qn dân thể
hiện rõ nhất:


“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền


Hịa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê


Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. ”


Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như
một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ cịn mũ nan chính là những người dân qn Việt bắc. Cả hai
cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc
trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu
để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thẩy với sức mạnh giống như là nát đá.
Bằng biện pháp nghệ thuật phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn
đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm tối vậy.
Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của
những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một
niềm tin vào tự do hạnh phúc. Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta
một cuộc sống tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã
dành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hịa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên cũng
như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy đều như thể hiện niềm vui của
cả nước.


Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất lên những
niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về cảnh sinh hoạt đảng, biết
bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:


Ai về ai có nhớ khơng?


Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.


Nắng trưa rực rỡ sao vàng


Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông


Nông thôn phát động, giao thơng mở đường
Giữ đê, phịng hạn, thu lương


Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. . .
Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi


Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào. ”


Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xi nghe trong lịng vẫn bâng khuâng nhớ đến
những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm vui đều được thể hiện
trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng minh cho thắng lợi của nhân dân ta.
Ở đâu cịn rợp bóng qn thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả hãy trơng về
miền Bắc mà ni chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi việc, thắng trận ngay cả khi
quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng
những người chiến đấu và cả nhân dân ở đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình cảm.


Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất cả những chiến
sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ
đây khi phải xa nhau thấy lịng mình thật muốn vỡ ịa trong nức nở. Chân khơng muốn rời xa.


Qua đây ta thấy được tình nghĩa đồn kết keo sơn của con người Việt Nam mà cụ thể đó là tình
quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên mặt trận ấy thì khơng thể nào qn ơn những người
nhân dân Việt Bắc được.


Bức tranh tứ bình


Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác phẩm lưu mãi
với thời gian. Thơ ơng viết về chính trị nhưng không khô khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lịng người
bởi tình cảm và giọng văn trữ tình truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong hồn cảnh chia ly tiễn biệt
giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như lời tâm
tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt người đọc chắc hẳn sẽ
không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”.


Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho
quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những
hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có
một tình cảm da diết, phải là người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ
lục bát nhuần nhuyễn như vậy.


Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc
qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình,
nên thơ của “xứ Tiên” này.


Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”:


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này. Ngôn ngữ gần gũi,
cách diễn tả nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi
“mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám
phá nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.



Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông
ấm áp, tràn đầy tin yêu:


<i>Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi</i>
<i>Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng</i>


Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng
tuy là mùa đơng nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng,
rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng
làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc
điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt
vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống
sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cảo đã tạo
thành một bức trang mùa đông rạng rớ, đầy hi vọng.


Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tinh, thơ mộng như tiên cảnh:


<i>Ngày xuân mơ nở trắng rừng</i>
<i>Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang</i>


Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật
hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu
sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt
gặp treenn những con đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan
nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi
diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố
Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên
sự hòa hợp thiên nhiên và con người.


Bức tranh mùa hè sơi động dưới ngịi bút của Tố Hữu:



<i>Ve kêu rừng phách đổ vàng</i>
<i>Nhớ cô em gái hái măng một mình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa rúi
bao la, thấp thống bóng dáng “cơ gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.


Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:


<i>Rừng thu trăng rọi hịa bình</i>
<i>Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung</i>


Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa
thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Khơng phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi
đây là trăng của hịa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh
trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát
gợi nhắc ân tình và thủy chung.


</div>

<!--links-->

×