Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 15 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
NCS. Phan Thị Kim Anh*
Tóm tắt
Việc nghiên cứu mẫu người phụ nữ miền Tây Nam Bộ dưói góc
nhìn văn hóa giới có thể tiến hành khảo sát qua nhiều dữ liệu. Tuy nhiên,
dữ liệu ca dao - một dạng thức của văn hóa truyền khẩu do nhân dân
nhiều đời sáng tạo - là một chỉ sơ' tiêu biểu. Quan hệ giói là một vân đề có
thực của tổn tại xã hội. Tùy theo từng vùng văn hóa mà quan hệ giói vói
những định kiến ràng buộc và sự khai phóng cởi mở sẽ được thể hiện
dưói nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Vói riêng miền Tây Nam Bộ,
do nhiều nguyên nhân, quan niệm về giói ở đây thường là bộc trực,
mạnh mẽ, táo bạo mà phóng khống, vượt ra khỏi những định kiêh của
Nho giáo. Nhân vật người nữ miên Tây Nam Bộ dưới cái nhìn văn hóa
<i>giói tập trung ở hai biểu hiện chính: vẻ đẹp hình ử\ẽ, tâm hổn và vân đề </i>
tình yêu và tính dục. Vốn được kế thừa từ tín ngưỡng phồn thực tù cội
nguồn, ít chịu ảnh hưởng Nho giáo hơn so với miền Bắc và miền Trung,
lại trải qua hai cuộc tiếp biến vói văn hóa phương Tây, nên văn hóa giói
<i>ở người nử nơi đây mang tính chất phóng khống, gần vói thiên tính tự </i>
nhiên, gần vói nữ tính và mẫu tính Việt, nghĩa là gần vói văn hóa đầu
nguồn Việt. Đó chính là vẻ đẹp của nhân vật người nữ miền Tây Nam bộ
truyền thơng. Từ đây có thế gợi dẫn đêh một sơ' suy tư về sự khai phóng
từ nhũng ràng buộc của người nữ miền Tây Nam Bộ hôm nay.
*
* *
1. Đặt vân đề
Văn hóa dân gian là một trong những bộ phận sông động và quan
trọng nhất của một nền văn hóa. Và trong các thành tơ' của văn hóa dân
gian, văn học dân gian lại là một thành tô' thiết yếu để cấu tạo văn hóa
vì nó là một phức hợp giá trị văn hoá, văn học, lịch sử, triết học, ngôn
<i>ngữ, tôn giáo, đạo đức... của mỗi dân tộc. ĐÔI với mảnh đất phương </i>
Nam, từ những buổi đẩu khai phá mở cõi, văn học dân gian gắn liền
vói đời sơng của người bình dân Nam Bộ, nên nó có vai trị quan trọng
đặc biệt, vừa là kết quả vừa góp phần kiến tạo nền văn hóa nơi đây.
Trong khơng gian văn hóa miền Tây Nam Bộ, mẫu người phụ nữ
đã trở thành tâm điểm của vẻ đẹp văn hóa vùng. Bản sắc người phụ nữ
Việt Tây Nam Bộ dưói góc nhìn văn hóa giới được hiện lên với tất cả sự
<i>sông động và phong phú vơn có. Nhin nhận vấn đề này, có thể khảo sát </i>
nhiều tư liệu phong phú thuộc các dâu chỉ văn hóa khác nhau. Trong sơ'
các biểu hiện đó, nguồn ca dao - một di sản văn hóa truyền khẩu độc
đáo sẽ giúp ta có một cái nhìn khá cụ thể xuyên suô't từ cội nguồn
truyền thông đến thời kỳ sau này.
Trước khi đi vào khảo sát nguồn ca dao miền Tây Nam Bộ, cẩn đặt
nhân vật người nữ trong bơì cánh văn hóa vùng Tây Nam Bộ. Theo nhà
nghiên cứu Ngơ Đức Thịnh, văn hóa lãnh thổ hay văn hóa vùng là một
dạng thức văn hóa: "Đ ể trở thành một vùng văn hóa vói tư cách là một
bộ phận của nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, vừng văn
hóa Nam Bộ phải trải qua quá trinh lịch sử nhất định mới thật sự định
hình và tạo dựng nên những sắc thái riêng trên nền tảng chung của hệ
giá trị văn hóa dân tộc".
<i><b>Người phụ n ữ m iền Tây Nam B ộ và s ự khai ph ón g khỏi n h ữ n g...</b></i>
Khi nói đến văn hóa vùng miền Tây Nam Bộ, thực châ't là nói đến
tọa độ văn hóa - nơi chủ thể văn hóa, trong đó có chủ thể người nữ hiện
lên vừa như một kết quả vừa như một hiện thân văn hóa. Tọa độ văn
<i>hóa có thể được hình dung qua các phạm trù cơ bản như khơng gian văn </i>
<i>hóa, thời gian văn hóa, chủ thể văn hóa. Trong tiểu luận này, chúng tơi </i>
khơng có điều kiện phân tích kỹ tọa độ văn hóa miền Tây Nam Bộ như
một điều kiện lẽ ra phải thực hiện để trình bày mẫu nhân vật người nữ
trong ca dao bởi thiết nghĩ vân đề này đã được đề cập tương đơì kỹ
lưỡng và thuyết phục trong một số cơng trình của các tác giả như Trần
Ngọc Thêm, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Cơng Bình, Thạch Phương
<b>và </b>một <b>SỐ </b>tác <b>giả </b>khác...
Trong quá trình triển khai nghiên cứu mẫu người phụ nữ miền Tây
Nam bộ dưới góc nhìn văn hóa giới, chúng tơi ln có ý thức đặt trong
tọa độ văn hóa vùng để hiếu rõ hơn mối quan hệ hữu cơ giữa các thành
tố của tọa độ văn hóa nói riêng và văn hóa vùng nói chung.
<b>2. Phụ nữ Việt Tây Nam Bộ truyền thống nhìn từ văn hóa giới</b>
<i>2.1. Vấn đ ề quan hệ g iớ i - những ràng buộc v à k h a i phóng</i>
Trong cách hiểu chung, nhiều người thường lẫn lộn giữa "giới" và
"giới tính", khơng phải ở mặt thuật ngữ mà trong thực tế. Họ thường
đánh đổng những khác biệt giữa nam và nữ vể vai trò giới (do học mà
có) với những khác biệt về mặt sinh học (do di truyền mà có). Sai lầm
phổ biến là hiểu khoa học giới như "giới tính" - chỉ những khác biệt giới
thuộc về sinh học, hoặc đổng nghĩa với khái niệm "phụ nữ" - coi giới là
mối quan tâm của phụ nữ và' vì lợi ích riêng của phụ nữ.
Có thể nói, "giới" là một khái niệm mới xuất hiện vào cuối những
kinh tế, xã hội, văn hoá và tâm lý gắn vói việc là phụ nữ hay nam giói.
Trong phần lớn các xã hội, là một người đàn ông hay là một người phụ
nữ không chỉ có các đặc điểm sinh học khác nhau mà cịn phải đơi diện
với những mong đợi khác nhau của xã hội về mặt ngoại hình, cách cư
xử, tính cách và những cơng việc được cho là thích hợp đối vói giói tính
của người đó.
Xét về mối quan hệ giói, nếu như với người phụ nữ Việt Bắc Bộ,
ảnh hường Nho giáo đậm đà nên sự phân biệt giới tính rõ nét, thì ở
Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng vói tinh thần thống mở,
họ không quá khắt khe khi đề cập đến những mối quan hệ khác giói. Vả
lại, một sơ' nhà nghiên cứu văn hóa đều cho rằng ảnh hưởng của Nho
giáo đốỉ với Việt Nam có tình trạng càng ngược Bắc thì càng đậm, càng
xi Nam thì càng nhạt.
Ở phía Bắc thời phong kiến, các cụ ta ngày xưa vôn chủ trương
"nam nữ thụ thụ bâ't thân", "nam nữ hữu biệt". Tuy nhiên, theo Toan
<i>Ánh trong Phong tục Việt Nam, thì việc nam nữ "hữu biệt" hay "bất </i>
thân" như thế chỉ có ở những gia đình trưởng giả, cịn trong giói bình
dân khơng đến nỗi q khắt khe,vì phong tục cũng như sinh hoạt hằng
ngày đã tạo nên nhiều dịp để họ có thể gặp nhau. Thực ra, văn hóa
Nam Bộ thuộc dịng phi chính thống dẫu sao cũng chịu bị chi phôĩ bời
<i><b>Người phụ n ữ m iền Tây Nam </b><b>Bộ </b><b>và s ự khai </b><b>phóng </b><b>khỏi những...</b></i>
<i>Trong khi các cô gái Bắc Bộ thì e ấp, kín đáo hơn nhiều: Người về ta </i>
<i>chẳng cho vêĩ Ta níu vạt áo, ta đ ề câu thơ. Quen thuộc với câu ca đầy tình </i>
tứ của Bắc Bộ này, ta không khỏi ngỡ ngàng khi bắt gặp lối bày tỏ tình
cảm ữên của cô gái Nam Bộ. Táo bạo nhưng không thô thiến, táo bạo
mà vẫn đằm thắm, dịu dàng. Đặc biệt, việc không quá e dè và do dự
trong quan hệ về giới tính là một nét rất riêng của người phụ nữ Nam
<i>Bộ: Khoan khoan buông áo em ra/Đ ể em đi chợ kẻo hoa em tàn/Hoa tàn thì mặc </i>
<i>hoa tàn/Mây thưở gặp nàng, nàng biểu buông ra. Ở câu ca dao trên, thực </i>
châ't hai câu đẩu trước đây vốn của miền Bắc, qua quá trình di cư người
Bắc đã đem theo vào Nam và thêm vào hai câu cuối cho phù hợp với
châ't của người Nam Bộ, và bây giờ nó trở thành ca dao của miệt vườn
Bến Tre.
Như vậy, qua các câu ca dao trữ tình liên quan đến giới tính của
vùng miền Tây Nam Bộ, chúng ta nhận thấy tuy vẫn còn chưa thoát
hẳn những định kiến của lễ giáo Nho giáo, nhưng thực sự người dân
Nam Bộ đã có cách nhìn phóng khoáng và cởi mở hơn đối với người
phụ nữ miền Tây Nam bộ về quan hệ lứa đôi. Đây là điểm có tính chầt
quyết định trong cách nhìn và biếu đạt về hình ảnh người nữ miên Tây
Nam Bộ trong hệ thông ca dao thuộc vùng văn hóa này.
<i><b>2.2. Vẻ đẹp hình th ể và tâm hồn người nữ miền Tây Nam Bộ</b></i>
Như đã phân tích ở trên, do có cái nhìn thơng thống hơn về giới,
nhất là giới nữ, cho nên người dân miền Tây Nam Bộ đã không ngần
ngại phơ bày những vẻ đẹp về hình thê’ và tâm hồn người nữ; và qua đó
thể hiện niềm tự hào cũng như sức sông của người phụ nữ nơi đầy.
Khảo sát hệ thông ca dao bày tỏ tiêu chuẩn lựa chọn bạn tình sẽ nói lên
nhiều điều có ý nghĩa về văn hóa giới.
Có nhiều yếu tơ' thuộc tổng thể văn hóa vùng chi phối tình u lứa
đơi, nhâ't là việc lựa chọn người thương.
Việt Bắc Bộ thể hiện việc chuộng từ lơi ăn tiêng nói đến vẻ đẹp ngoại
<i>hình cũng theo quan niệm thầm mỹ riêng: Một thương tóc bỏ đi gà/ Hai </i>
<i>thương ăn nói mặn mà có dun... thì vẻ đẹp bề ngoài của người con gái </i>
Nam Bộ không phải là yếu tố hàng đầu, thậm chí khơng được chú trọng
<i>lắm: Đừng chê em xấu,, em đen/ Nước kia dù đục lóng phèn củng trong; Gió </i>
<i>đưa mười tám lá me/ Mặt rỗ hoa mè ăn nói có duyên; Khoai lang tôĩ củ xấu </i>
<i>dây/ Bề ngồi anh xâu nhưng lịng đầy tình thương... Nếu như ca dao miền </i>
Bắc ca ngợi nhiều về gương mặt trái xoan thanh tú, tinh tế, thì ca dao
Nam Bộ lại ca ngợi những gương mặt phúc hậu, đầy đặn, hiền lành như
<i>tính cách người Nam Bộ: Trầu vàng nhỏ lá, rau giãp cá nhai giòn/ Khéo khen </i>
<i>phụ mẫu sanh em / mặt trịn có duyên. Vơi người Việt ở phía Bắc, quan </i>
<i>niệm về cái đẹp của thiêu nữ vói nước da trắng ngần: c ố tay em trắng </i>
<i>như ngà /Con mắt em liếc như là dao cau ì Miệng cười như thể hoa ngẫu / Cái </i>
<i>khãn đội đầu như thểhoa sen. Người dân miền Trung cũng quan niệm làn </i>
<i>da phụ nữ đẹp là phải trắng mịn như đọt chuôi non: Da em như đọt chuôĩ </i>
<i>non/ Lưng em thắt đáy như con tò vò. Ca dao người Việt Tây Nam Bộ lại </i>
chuộng những cô gái có nưóc da đen giịn, rám nắng, một hình ảnh
Ưa chuộng nét đẹp mểm mại, đôn hậu, dịu dàng, cả ba miền Bắc,
Trung và Nam đều lấy mái tóc dài làm tiêu chuẩn mang vẻ đẹp duyên
dáng của người phụ nữ, đó là nét đẹp chung thể hiện dáng Việt, hổn
Việt. Tuy nhiên, người Nam Bộ lại ưa thích kiêu tóc dài bói sau gáy cho
gọn gàng trong công việc lẫn sinh hoạt. Những phụ nữ làm việc đồng
áng thường có thêm cái bao lưói bên ngồi giữ cho tóc chặt và khơng bị
<i>cản trở khi làm công việc: Ngó lên đầu tóc em bao/ Chéo khăn em bịt dạ nào </i>
<i>chằng thương; Tóc ngang lưng vừa chỉmg em bới/ Để chi dài bôĩ rôĩ dạ anh.</i>
<i><b>Người phụ n ữ m iền Tây Nam B ộ và s ự khai phóng khỏi nh ữn g...</b></i>
<i>của họ: Mỹ An bần chát mà chua/ Chẳng hay người ây có chua như bần/ Năm </i>
<i>ngối em còn e còn ngại/ Năm nay em kêu đại bằng mình/ Áo bà ba nút ốc </i>
<i>chung tình ai may?! Đ ể tơi cậy mơĩ tìm đường sang chơi.</i>
Về vóc dáng thì người con gái Bắc Bộ vừa có khn mặt đẹp, vừa
có thân mình "ngực nờ eo thon", đẹp cả phương diện thẩm mỹ lẫn
<i>phương diện tưóng sơ': Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều </i>
<i>chong, lại khéo nuôi con. Ở Trung Bộ cũng khá giông Bắc Bộ về quan </i>
niệm vẻ đẹp người phụ nữ gọn gàng và có biểu hiện của sự phồn thực:
<i>C ổ cao ba ngâh, tóc qn ba vịng/ Thắt đáy lưng ong, con dòng cháu giống. </i>
Còn miền Tây Nam Bộ lại chuộng những cơ gái mình "dây", "anh thây
<i>em nhỏ xíu anh thương": Khăn rằn nhỏ sọc,, khăn rằn tày! Thày em ơm ốm </i>
<i>mình dẫy anh ưng lịng; Nước chảy re re, lục bình líu ríu / Thày dáng em ngoi </i>
<i>nhỏ xíu anh thương.</i>
Đây là quan niệm về cái đẹp của người bình dân miền Tây Nam Bộ.
Tất nhiên, quan niệm này xuất phát từ việc họ gắn bó với cơng việc đổng
áng, ruọng vườn nên nét đẹp của người phụ nữ cũng phải tương xứng,
hòa hợp vói khung cảnh lao động làng Việt Nam Bộ. Chẳng hạn như
ngưòi Việt Bắc bộ yêu chuộng vẻ đẹp những cô gái liễu yếu đào tơ thì các
chàng trai Nam Bộ vốn bản tính thiết thực nên lại thích chọn những cơ gái
mặn mà, khỏe mạnh, phù họp vơi lao động hơn là những cô gái dưng
<i>nhan yểu điệu: Mặt em má phâh anh mn kềí Hình nhan yểu điệu khó bề có </i>
<i>đơi; Mh chơi chậu cúc tam hường/ Liễu huê kiêm hiệm dọc đường thiếu chi.</i>
<i>Thứ nữa là quan niệm v ề vẻ đẹp tâm hổn của/về người nữ. Phụ nữ là </i>
phái đẹp, trước hết là bởi vẻ đẹp hình thể bên ngoài. Tuy nhiên, chỉ đẹp
bên ngồi thơi chưa đủ, người phụ nử cần phải có một tâm hổn đẹp. Bởi vì
người phụ nữ có tâm hồn đẹp mới là người có sức lôi cuốn. Ngươi xưa
quan niệm một trong những biểu hiện của vẻ đẹp tâm hổn người phụ nữ
là sự đảm đang khéo léo, nhâ't là trong việc tề gia nội trợ, nữ công gia
<i>chánh. Ca dao Tây Nam Bộ cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hổn ây: Bêh Tre gái đẹp </i>
<i>thiệt thà/ Nói năng nhỏ nhẹ mặn mà có dun; Nước chảy xi, làn sóng ngược/ </i>
<i>Sơng đầy khơng được, don xuống Ba Tri/ Em ơi đừng sợ chuyện đó làm chi/ Anh </i>
<i>đây chưa vợ như mì nêì na. Tuy nhiên, do câu trúc "mở" điển hình của làng </i>
xã ở miền Tây Nam Bộ dẫn đến quan hệ con người lòng lẻo nhiều hơn là
chặt chẽ. Quan hệ trong gia đình ít điểu kiện được giám sát bởi quan hệ
cộng đổng, do đó những nguyên tắc úng xử nhằm mang lại một trật tự, ổn
định trong cuộc sơng gia đình cũng được buông lỏng hơn. Cũng như các
môi quan hệ khác, quan niệm cái nết và cái đẹp giữa các lứa đôi người Việt
ở Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng tiến dần đến những biểu
hiện có giá trị thiết thực đơì vói cuộc sơng khẩn hoang hơn là giá trị đạờ lý
truyền thơng. Vì vậy, ca dao Tây Nam bộ thể hiện được đầy đủ nét đẹp
Thực ra, truyền thông văn hóa Việt ở vùng nào cũng vậy, đều quan
tâm đên vẻ đẹp hài hòa giữa hình thức bên ngồi và tâm hổn bên trong.
<i>Điều này cũng có mặt ở ca dao Tây Nam Bộ: .. .Thây em đẹp nêị đẹp cười/ Đẹp </i>
<i>người, đẹp nêl lại tươi răng vàng/ Vậy nên anh gởi thư sang/ Tinh cờ anh quyêl lâỳ </i>
<i>nàng mà thôi. Tuy nhiên, cuộc sông khẩn hoang của người dân miền Tây </i>
Nam Bộ cũng góp phần chi phơi những tiêu chí chuẩn mực về đơi tượng.
Người Việt ờ Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng thể hiện sự
cẩu thị, ưa chuộng những phẩm chất, năng lực có tính thiết thực hơn là danh
<i>nghĩa, hình thức: Khoai lang tơĩ CU, xâu dây/ Bế ngồi anh xấu, nhưng lịng đầy </i>
<i>tình thương. Thậm chí khi phát hiện minh bị lẩm bời cái mã bề ngồi, họ </i>
<i>cũng "bng": Ơ rơ tía, bạc hà củng tía! Ngọn lang giâm, ngọn mía cũng giâm/ </i>
<i>Anh thâỳ em tơĩ mã anh lẩm/ Bây giờ rõ lại, vàng cẩm cũng bng.</i>
Vói văn hóa trọng tình, người Việt Bắc Bộ vơn khinh miệt nghề buôn,
coi việc buôn bán dễ làm mất tình cảm, thuận hịa... Trái lại, người Việt ở
Nam Bộ nói chung lại có tiêu chí chọn lựa xuất phát từ yêu cầu thiết thực
của cuộc sông hiện tại hơn là truyền thô^ig. "Giỏi bán buôn" được xem là
<i>một tiêu chí hàng đầu trong việc chọn người yêu, người bạn địi: Một </i>
<i>thương em giỏi bán bn/Hai thương bới tóc cài gương trên đầu; Trăng lên khì </i>
<i>núi, bụi chi trăng mờ/ Tiếng em ở chợ sao khờ bán buôn.</i>
<i><b>Người phụ n ữ m iền Tây Nam B ộ và s ự khai ph ón g khỏi những..</b></i>
sàng thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh sông di cư của họ. Với những
phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng người phụ nữ Việt truyền thông
ở miền Tây Nam Bộ được hiện lên một mặt không đứt đoạn với truyền
thôrig người phụ nữ Việt nói chung, mặt khác họ đã xác lập cho mình
3. Hình ảnh người nữ Tây Nam Bộ với tình yêu và tình dục
Trong phần này, chúng tôi tập trung tìm hiểu tín ngưỡng phổn
thực gắn liền với nhân vật người nữ được thể hiện trong hệ thống ca
dao miền Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu về nó, chúng tơi
cũng khơng quên đê' cập một cách khái lược vấn đề quan hệ nam nữ
nhìn từ văn hóa tình dục.
Có thế nói, vân đề quan hệ giữá hai giới đã có từ hàng triệu năm
nay, kể từ khi xuất hiện sự phân chia đực - cái trong tiên trình phát
triêh của động vật. Nhung chi có ở con người, hoạt động ây mới mang
đủ ba yếu tố sinh học, tâm lý và tâm linh. Chỉ có ở con người, hoạt động
ấy mới có "chẩt văn hóa" và trở thành một hoạt động thiêng liêng. Nhà
nghiên cứu Starowicz Z.L. đã cho rằng: "không thể hiểu sâu sắc một nền
văn hóa nào đó nếu ta bỏ qua lĩnh vực tình dục". Có thể nói, tính dục
(sexuality) là một hiện tượng văn hóa. Quan niệm về tính đục là rất đa
dạng trong trục không gian và khả biến trong trục thời gian. Foucault
cho rằng: "Không nên nghĩ về tính dục như một cái gì đó tổn tại khách
quan mà quyển lực cô' gắng kiềm chế hoặc như một lĩnh vực mờ tôi mà
tri thức CỐ gắng từng bước khám phá ra. Tính dục là một tạo tác mang
tính lịch sử (historical construct)".
Trong văn hoá Việt Nam, ngay từ rất sớm đã xuất hiện tín ngưỡng
phồn thực, gắn liền với nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước. Nhà
nghiên cứu Trần Ngọc Thêm cho rằng: "Đ ể duy trì cuộc sơng, cần cho
mùa màng tươi tô't. Để cho phát triển cuộc sông cần cho con người sinh
của tự nhiên và con người (phổn = nhiều, thực = nảy nở). Tín ngưỡng
phổn thực ở Việt Nam từng tổn tại theo suốt chiều dài lịch sử, và có tới
hai dạng: thờ cơ quan sinh dục và thò bản thân hành vi giao phôi"
[Trần Ngọc Thêm 2006: 234]. Tín ngưỡng phồn thực này là một minh
chứng sơng động của văn hóa giói, nhất là giới nữ. Điều này thể hiện
rất rõ trong thế giới ca dao vùng miền Tây Nam Bộ.
Trước hết, ca dao đã trực diện vân để quan niệm về mơì quan hệ
giữa người nam và người nữ. Do ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo,
"tình dục" được nhắc đến một cách khéo léo, có phần dè dặt. Nêu như ở
miền Bắc, quan niệm chữ Trinh râ't nặng nề, thì ở miền Nam, chữ Trinh
<i>được nhìn nhận một cách phóng khống hơn: Chĩ bảo rằng chỉ đong </i>
<i>trinh</i><b> / </b> <i>Chuôi đứng một mình sao chĩ có con; Nhớ khi chung chạ chiếu </i>
<i>giường/ Bây giờ đành đoạn đứt đường tơ dun; Đói lịng ăn trái khổ qua/ </i>
<i>Nuôỉ vô thì đắng, nhả ra bạn cười/ Bạn cười thì mặc bạn cười /Tháng năm đi </i>
<i>cưới tháng mười có con.</i>
Khi đơi trai gái mói bắt đầu tiếp xúc, cảm xúc được ngồi gần, nắm
<i>tay nhau là một cảm xúc bổi hồi thương nhớ và rạo rực khó tả: Nguyệt </i>
<i>cịn khi tỏ khi lu/Mâỳ hôm thôn thức ưu tư/Gần nhau một thuở hơn tu mười </i>
<i>đời; Tôĩ trời đom đóm chớp giăng/Xa em một bữa mây cái khăn ướt dầm/ Mưa </i>
<i>sa sấm chớp ầm âm/Tuy chưa gặp cuộc ăn nằm cũng thương. Nhưng ngay </i>
sau đó nhu cầu được gần gũi, ơm hơn nhau được người miền Tây Nam
<i>Bộ nói theo phong cách đặc trưng trong ngơn ngữ của mình: Đơi mình </i>
<i>mới gặp ngày nay! Cho hun một cái em Hai đừng phiêh/Có hun thì hun cho </i>
Theo tiến triển của tình cảm, lứa đơi Tây Nam Bộ lại muôn tiên xa
hơn nửa trong quan hệ yêu đương của minh, mà cụ thể là gần gũi, chăn
gôi. Hơn thê nữa, vượt qua các nghi lễ Nho giáo, đôi trai gái mn hịa
quyện vói nhau trong đam mê yêu đương bằng việc được ôm ấp, gần
<i>gủi vói nhau qua chuyện gổì chăn: Mẹ cha an giấc, đừng cho động đất mà </i>
<i>mẹ cha hay/Lén nhau ôm ấp đêm nay/Giữ sao cho nhẹm việc này xâu thay; </i>
<i>Công thầy nghĩa mẹ chưa đêh/Sao con lại dám kéo men đắp chung.</i>
<i><b>Người p h ụ n ữ m iền Tây Nam B ộ và sự khai phóng khỏi nh ữn g...</b></i>
<i>Ai ơi hãy lấy anh thợ bào/Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm. Dân gian </i>
mượn chuyện thợ bào đẩy bào để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn để
ngụ ý về chuyện vợ chồng chơn phịng the. Tương tự cho chuyện "bào"
<i>là chuyện "cày" trong câu ca dao sau đây: Chồng em nào phải ừ âu càỵ/Mà </i>
<i>cho chị mượn cả ngày lẫn đêm (3). Khi cô gái và chàng trai muốn gần gũi </i>
<i>nhau, cô gái đã "đổng lõa" nên dặn người mình yêu như sau: Chuột kêu </i>
<i>chút chít trong rương/Anh đi cho khéo kẻo đụng giường má hay.</i>
Với tính cách thẳng thắn "ăn ngay nói thật", người miền Tây khơng
thích sự vịng vo trong đời sông. Điều này cũng đúng trong môi quan hệ
nam nữ. Do đó việc dùng từ ngữ mạnh bạo khi đề cập đến cơ quan sinh
dục cũng khá tự nhiên. Có nhiều bài ca dao nói cụ thể vê' hình ảnh này:
<i>Ví dầu chôhg thấp vợ cao/Chịu mua cây sào, quơ vú khỏi mãn; Ví dầu vợ thấp </i>
<i>chồng cao/Khum lưng bcnp vú, khỏi sào mất công; Hai tay em cắm xuống </i>
<i>bùn/Mình mẩy lâm hết, chớ anh hun chỗ nào/Cầu trời đơ’trận mưa rào/Bùn sình </i>
<i>trơi hẽì, chỗ nào anh cũng hunỊ Và táo bạo hơn, một câu ca có miêu tả trực </i>
<i>tiếp yếu tơ' sinh thực khí của nữ giới: Cơ kia cây lúa Nanh Chồn/Chôhg mông </i>
<i>cô để cái ỉ... cô lên. Quan hệ ân ái vợ chổng cũng được nhắc đến trong </i>
Ca dao trữ tình về người phụ nữ Tây Nam Bộ là mảnh đất phì nhiêu
tạo nên nguồn sông khá mãnh liệt cho những câu ca, tiếng hát chứa đựng
các yếu tô’ dục tình. Mảng ca dao táo bạo có đơi phần trần trụi này có lẽ
ra đời chủ yếu trong giai đoạn tiếp biến với phương Tây. Lối ứng xử của
xã hội phương Tây phần nào đã thâm nhập vào địi sơng của những
người phụ nữ Nam Bộ nói chung và Tây Nam Bộ nói riêng.
<i>Phải thừa nhận rằng trong khi Nho giáo đề cao "tiết hạnh khả </i>
<i>phong", xem trọng việc cưới hỏi theo khuôn mẫu "cha mẹ đặt đâu con </i>
ngồi đó" thì văn hóa dân gian Nam Bộ ln phản ứng và tìm mọi cơ hội
đê’ con người được sống tự nhiên, thật với bản nằng và lòng trung hậu
sẵn có của mình. Quá trình giao lưu và tiếp biến của hai dòng văn hóa
dân gian và chính thơng ở Nam Bộ diễn ra lúc mạnh lúc yếu, lúc cơng
khai lúc kín đáo, lúc chơng đơì lúc trực diện... Tuy nhiên, xét về khía
cạnh quan hệ nam nữ, văn hóa dân gian ở Tây Nam Bộ với sức mạnh
bản địa ln có ưu thế hon hẳn so vói văn hóa chính thơng trong việc
để cao một cuộc sơng đích thực, có u thương, có tình dục rất tự nhiên
của con ngưòi.
Những dữ liệu ca dao này không phải là những câu ca dao vu vơ
mà nó chứa đựng hàm ý rất sâu sắc.
<i>Thứ nhâí, những yếu tơ' miêu tả sinh thực khí và hoạt động tình dục </i>
của người lao động miền Tây là để họ tự cười cợt, đùa vui cho khuây khoả
những tháng ngày vất vả một nắng hai sương trên cánh đồng thửa ruộng.
<i>Thứ hai, ở đó ẩn chứa khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, khát vọng </i>
thể hiện vẻ đẹp về hành động duy trì sự sinh tổn của con người Tây
Nam Bộ, nhưng đôi khi bị dư luận hà khắc, cấm đoán.
<i>Thứ ba, qua các bài ca dao này đã thây rõ sự mỉa mai, châm biêin </i>
mạnh mẽ ở nhiều cấp độ, nhiều cung bậe, dành cho những định kiến
của tầng lớp thượng lưu đương thòi của người Tây Nam Bộ bằng
nhừng yếu tơ' tình dục trong ca dao.
Như vậy, việc đề cập đến tình dục như là một nhu cầu tâ't yếu để
thể hiện tình cảm của người phụ nữ Tây Nam Bộ. Đặc biệt, vói vùng đất
mang tính mở như nơi đây, sắc giói và tình dục cũng được thể hiện
trong ca dao không che giấu nhưng cũng rất tự nhiên và hóm hỉnh. Có
lẽ đây là nét khác biệt nhất trong văn hóa lứa đơi giữa Tây Nam Bộ vói
các vùng miền khác. Như vừa phân tích ở trên, hình ảnh người nữ
trong ca dao miền Tây Nam Bộ thực chất rất gần gũi với đời sông tự
nhiên, chưa bị nhiễm bởi các ràng buộc xã hội.
4. Kết luận
định và ngợi ca. Họ đã góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thơng của dân tộc Việt Nam.
(2) Tuy vùng đất Nam Bộ có lịch sử chưa lâu đời so với các vùng
văn hóa Bắc và Trung Bộ, nhưng đây vẫn là vùng đất của sự nối tiếp và
phát huy truyền thơng có q trình tích lũy lịch sừ lâu đời của dân tộc.
Nhìn chung, nhân vật người nữ Tây Nam Bộ tuy vẫn bắt rễ từ nền tảng
sâu xa của văn hóa Việt Nam, nhưng đã hình thành những nét bản sắc
riêng: tính khai phóng năng động, tính giản dị thiề't thực, đậm đà vẻ
(3) Từ những khảo cứu và phân tích nhân vật người phụ nữ miền
Tây Nam Bộ trong ca dao xưa dưới góc nhìn văn hóa giói, có thể liên hệ
với đời sống hiện đại ngày hôm nay. Ở Tây Nam Bộ, chính sách đổi mói
và mở cửa đã tạo ra những thay đổi lớn trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa và xã hội. Quyền tự do cá nhân và địa vị của người phụ nữ Tây
Nam Bộ được cải thiện rõ rệt do có cơ hội nâng cao thu nhập và độc lập
về kinh tế. Một yếu tô' quan trọng khác dẫn đêh những biến đổi văn
hóa, xã hội là cơ hội tiếp xúc vói văn hóa phương Tây. Những quan
niệm, tâm thế và lôi sông mơi đã được hình thành. Đáng chú ý nhất là
những biên đối trong quan hệ giói tính và trong quan niệm về tình dục,
đến mức đã có những ngươi nghĩ đến một cuộc cách mạng tình dục ở
Tây Nam Bộ. Trong quan niệm của vùng đất Tây Nam Bộ nói chung thì
quan niệm của giói trẻ có sự thay đổi nhiều nhất. Khác vói những thế
hệ trưóc, những người trẻ tuổi có sự cởi mờ khi thảo luận về các chủ đề
tình dục, họ cho rằng hoạt động tình dục đóng vai trị quan trọng trong
cuộc sông của con người
C ũ n g n h ư n h ữ n g d ân tộc k h ác trên th ê 'g ió i, n g ư ờ i V iệt N am nói
ch u n g và Tây N am Bộ n ó i riên g cũ n g có n h ữ n g q u an n iệm nhâ't đ ịn h v ề
tin h d ục và n h ữ n g q u a n n iệm n ày b iế n th iê n theo thời g ian và theo
h o àn cản h lịch sử củ a đ ất n ư ơ c. T ro n g qu á khứ , co n n g ư ờ i p hải sô n g
trong sự kiềm chê' b u ộ c ràn g k h ắ t k h e trư ó c các nhu cầu v ật chất/ h y
sin h tất cả n hữ ng gì thuộc v ề riêng tư v à k h ô n g d ám b ộ c lộ tình cảm
của chính m ình. S ự p h án x ét kh ắc n g h iệt, sự thiêu thông tin, thậm chí
cả n h ũ n g h ìn h p h ạt n ặn g n ề đã k h ôn g chỉ d ằn v ặt m ột th ế h ệ n g ư ờ i
<i><b>Người phụ n ữ m iền Tây Nam B ộ và s ự khai p h ó n g khỏi nh ữn g...</b></i>
Việt Nam nói chung và Tầy Nam Bộ nói riêng sinh ra và lớn lên ở thời
kỳ đó mà còn đế lại hậu quả tới tận bây giò. Những khai phóng, đổi
mơi ờ giai đoạn sau làm quan hệ nam nữ trở nên cởi mở hơn nhưng
điều đó khơng có nghĩa vấn đề giới khơng tổn tạì nữa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
<i>1. Đỗ Lai Thuý (1995), Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hô" Xn Hương từ </i>
<i>góc độ tín ngưỡng phẩn thực, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học lịch sử, Bộ </i>
Văn hóa Thơng tin, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
<i>2. Huỳnh Lứa (cb) và nnk (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, NXB </i>
TP. HỔ Chí Minh.
<i>3. HỔ Ngọc Đại (1991), Chuyện ây... ~ NXB Hà Nội/</i>
4. <i>Khuâ't Thu Hổng (1996), Nghỉên cứu v ề tình dục ở Việt Nam - những điểu </i>
<i>biết và chưa biêì</i>
<i>5. Nguyễn Phương Thảo (1997): Văn hóa dân gian Nam Bộ - những phác </i>
<i>thảo, Tập tiểu luận (in lẩn thứ 2), NXB Giáo dục.</i>
6. <i>Nguyễn Công Binh - Lê Xuân Diêm - Mạc Đường (1990), Vãn hóa và cư </i>
<i>dân Đơhg bằng sông cừ u Long, NXB Khoa học xã hội.</i>
<i>7. Ngô Đức Thịnh (2004): Văn hóa vùng và các vùng văn hóa Việt Nam, Viện </i>
Nghiên cứu văn hóa dân gian, NXB Trẻ.
<i>8. Lê Bạch Dương - Khuất Thu Hổng (2009), Tình dục ở Việt Nam - chuyện </i>
<i>9. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đơĩ mới ở Việt Nam, NXB </i>
Phụ nữ.
10. Phạm Tuârt Vũ (2000), "Văn hóa dân gian trong Phú Nơm". Tạp chí
<i>Văn hóa dân gian, sô' 4, tr. 42-47.</i>
<i>11. Thạch Phương, Hổ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn </i>
<i>hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.</i>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO TRÊN INTERNET</b>
<i>1. Đinh Thị Dung Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ từ góc nhìn lịch sừ- </i>
http://www. vanhoahoc.edu. vn/index.php?option=com_content&:task=
view&id=1496&Itemid=74
<i>2. Trần Ngọc Thêm 2008, Tính cách văn hóa người Nam bộ- http:// </i>
namkyluctùih.org/a-vh-vmmh/tranngocthem-vanhoanguomambo.pdf
<i>3. Hổ Tĩnh Tâm, Đi tìm vẻ đẹp ca dao dân ca, </i>
option=com_content&view=article&id=334:i-tim-v-p-ca-dao-dan-
ca&catid=4:dan-ca&Itemid=l 13
<i>4. Trần Minh Thương, Cách nói của người Tây Nam bộ qua ca dao- </i>
http://www. vanhoahoc.edu. vn/mdex.php?option=com_content&task=
viewổđd=1883&:Itemid=74