Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ngoại giao văn hóa Nhật Bản: tiếp cận nghiên cứu từ góc độ lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NGOẠI GIAO VÃN HÓA NHẬT BẢN:</b>


<b>TIẾP CẶN NGHIÊN </b>

cứu

<b>TỪ GÓC ĐỘ LỊCH sử</b>



NCS. Phạm Lê Dạ Hương*


Tóm tắt


Ngoại giao văn hóa là cơng cụ quan trọng của chính phủ Nhật Bản
nhằm nâng cao ảnh hưởng quốc gia thông qua việc sử dụng linh hoạt
các hoạt động văn hóa hướng tói cơng chúng của các nước khác. Mục
đích chính của bài viết này là phân tích sự thay đổi trong chính sách
ngoại giao văn hóa của Nhật Bản từ sau Thế chiên II đến nay từ góc độ
lịch sử. Luận điểm chính của bài viết này là trưóc những thay đổi của
thế giới, Nhật Bản đã điều chỉnh chính sách ngoại giao văn hóa của
mình nhằm có được hình ảnh của một nước Nhật ngày một thân thiện,
cởi mở, tích cực và có trách nhiệm hơn. Bài viết gồm ba phần, trong đó
phần một phân biệt một sơ' khái niệm như "Ngoại giao văn hóa", "Giao
lưu văn hóa" và "Ngoại giao cơng chúng". Phần hai phân tích sự phát
triển của ngoại giao văn hóa Nhật Bản trong thê'kỷ XX vói mục đích là
xóa bỏ hình ảnh tiêu cực về đâ't nưóc Mặt trời mọc, nhưng chính phủ
Nhật Bản còn thụ động. Phần ba đánh giá những nỗ lực có tính chủ
động hơn của Nhật Bản trong việc phát triển ngoại giao văn hóa trong
bơì cảnh tồn cầu hóa. Đặc trưng của ngoại giao văn hóa Nhật Bản giai
đoạn này là chủ động hơn, có sự tham gia của nhiều chủ thể hơn và có
đóng góp nhiều giá trị vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại.


*


* *


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>NCS. Phạm L ê Dạ H ương</b></i>



I. Phân biệt khái niệm "Ngoại giao văn hóa", "Giao lưu văn hóa" và
"Ngoại giao công chúng"


Tại Nhật Bản củng như nhiều nước trên thế giới, khái niệm "Ngoại
giao văn hóa" hay "Chính sách giao lưu văn hóa" thường hay bị sử dụng
lẫn lộn. Về mặt thực tiễn, giao lưu văn hóa giữa các qc gia vói nhau
cũng là một khía cạnh của ngoại giao văn hóa, nhưng khơng có nghĩa
rằng hai khái niệm này đổng nhất. Có thế nói, ngoại giao văn hóa của
một quốíc gia là tận dụng văn hóa vói mục đích nâng cao sức ảnh hưởng
chính trị của quốc gia đó. Vì ngoại giao văn hóa là một phần của chính
sách ngoại giao nên đương nhiên không thể thiếu ý thức chính trị trong
đó. Ngược lại, giao lưu văn hóa quốc tế không chắc chắn gắn liền vói
chiến lược hay ý đồ chính trị quốíc gia nếu chỉ diễn ra trong một thời gian
ngắn. Các hoạt động văn hóa khơng phải là phương thức chính trị nhằm
đẩy mạnh hình ảnh của một quốc gia, mà được tố chức một cách sáng tạo
có hiệu quả với mục đích tìm hiểu lẫn nhau thông qua giao lưu quốc tế.


Nếu coi chính sách văn hóa là một chính sách cơng thì nó cũng
nằm trong khái niệm giao lưu văn hóa, nhưng khơng hẳn có những yếu
tơ' phù hợp vói khái niệm ngoại giao văn hóa thơng thường.


Các cuộc họp tư vâh xây dựng chính sách văn hóa dưói hầu hết các
địi thủ tướng đều được gọi bằng Hội nghị về giao lưu văn hóa quốíc
tế1. Tuy nhiên, những diễn đàn cùng mục đích dươi trướng nội các
Koizumi lại có tên là "Hội nghị xúc tiến ngoại giao văn hóa"2. Cùng
thời kỳ này, Bộ Ngoại giao Nhật Bản củng hợp nhất ban Giao lưu văn
hóa quốc tế vói bộ phận Quan hệ công chúng với nhau thành ban Giao
lưu văn hóa cơng chúng3.



Những biến chuyến này cho thấy chính phủ Nhật Bản đã chuyển
môi quan tâm trọng điểm của mình từ giao lưu văn hóa sang ngoại giao


1 Cụ thể hơn, tên chính thức của cuộc họp tư vấn năm 1994 được gọi là "Hội
nghị tư vân liên quan đêh Giao lưu Ván hóa Quốc tê*'.


2 Tên của Hội nghị năm 2004.


3 Bộ phận phụ trách các hoạt động ván hóa quốc tế tại Bộ Ngoại giao Nhật Bản
trước đây là "Ban Giao lưu văn hóa" được thành lập năm 1984.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật B ản: T iếp cậ n nghiên cứu từ g ó c độ...</b></i>


văn hóa. Trên thực tế, những chính sách của chính phủ về giao lưu văn
hóa quốc tê' cũng hướng đến đạt được mục đích trong chính trị hay
ngoại giao một cách rõ ràng hơn. Nhiều ý kiến cho rằng đây là tình hình
chung khi nhiều nước trên thế giới bắt đầu chú trọng tới ngoại giao
công chúng, nhưng không thể phủ nhận những giao lưu - trao đổi về
văn hóa, tri thức chính là một trong những cách thức có hiệu quả nhất
đối với ngoại giao cơng chúng.


Xin phép trình bày những điểm khác biệt giữa định nghĩa "ngoại
giao công chúng" với ngoại giao văn hóa trên quan điểm chính sách
ngoại giao Nhật Bản.


Ngoại giao cơng chúng là chính sách ngoại giao hướng tới việc tạo
ảnh hường lên dư luận quốc tế thông qua các hoạt động giao lưu công
<b>chúng - giao lưu trí tuệ hướng tới giới truyền thơng, tói các cơng dân.</b>
Theo đó, ngoại giao cơng chúng khác với ngoại giao văn hóa, ngoại giao
cơng chúng có liên quan mật thiết với một mục đích <b>chính </b>trị rõ ràng


trong một thời điểm nhất định, hướng tới một đối tượng xác định, còn


<b>ngoại giao văn hóa khơng nhất thiết phải có một mục đích chính trị cụ</b>


thể cho một giai đoạn. Nhưng đúng là trong ngoại giao công chúng
cũng bao gồm mục đích nâng cao hình ảnh quốc gia thơng qua hoạt
động văn hóa, nên trong một số trường hợp có sự trừng lặp giữa hai
khái niệm ngoại giao văn hóa và ngoại giao công chúng. Tuy nhiên dù
trong trường hợp như vậy, một chính sách ngoại giao công chúng vẫn
gắn liền trực tiếp với việc nâng cao hình ảnh quốc gia với một mục đích
chiến lược cụ thể, nên giữa hai khái niệm vẫn có sự khác biệt nho.


Mặc dù vậy, không thể đơn giản hóa ý nghĩa của việc giaio lưu
quôc tế hay trao đổi kiêh thức trong văn hóa nghệ thuật thành hành
động chính trị dưới vỏ bọc văn hóa. Dù những hoạt động giao lưiu này
được chính phủ hay các cơ quan chính phủ viện trợ, cũng khơmg có
nghĩa tất cả các hoạt động văn hóa mang tầm quôc tế đều gắn trực tiếp
với lợi ích q'c gia. Điều này đúng với thời buổi tồn cẩu hóa hiệni nay.


Dưới đây, xin được giới thiệu một vài hình thức ngoại giao cơng
chúng và chính sách giao lưu văn hóa của Nhật Bản dựa trên kỉ ái niệm


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i><b>NCS. Phạm L ê Dạ H ương</b></i>


<b>II. Nhìn lại ngoại giao văn hóa Nhạt Bản (từ sau Chiến ữanh thế giói thứ II)</b>


Nếu như những mục đích chính của ngoại giao văn hóa là sử dụng
linh hoạt nhiều mặt trong lĩnh vực văn hóa như nghệ thuật, sân khâu,
đào tạo ngôn ngữ hay tri thức truyền thông... để nâng cao thanh thế và
hình ảnh quốc gia thì vấn đề đầu tiên đặt ra đơi vói ngoại giao văn hóa


Nhật Bản có lẽ là "Thông qua ngoại giao văn hóa, Nhật Bản mn cho
thế giói thấy mình như thế nào?", v ề điểm này, ngoại giao văn hóa
Nhật Bản đã trải qua một sô' giai đoạn phát triến.


Mục tiêu ngoại giao văn hóa Nhật Bản trong thập niên 50 đến đầu
thập niên 60 là thay đổi hình ảnh từ một quốc gia theo chủ nghĩa quân
phiệt sang quốc gia dân chủ u hịa bình. Hướng tới phục hổi địa vị
quốc tế, hành động đầu tiên sau chiến tranh tạo ấn tượng tô't của Nhật
Bản là gia nhập UNESCO năm 1951l. Tóm lại, phương thức xây dựng
một Nhật Bản dân chủ u hịa bình phải gắn liền mật thiết với xúc tiến
các hoạt động văn hóa, và thơng qua đó tìm hướng xác lập bản sắc qc
gia mói cho Nhật Bản.


Theo hướng đó, trong quá trình xúc tiên hoạt động văn hóa tại nưóc
ngồi của minh chính phủ Nhật Bản đã đặt trọng tâm vào văn hóa truyền
thông như trà đạo hay nghệ thuật cắm hoa Ikebana vói ý định mang đến
thế giới một nưóc Nhật có chất tĩnh và yêu chuộng hịa bình. Những hình
ảnh đặc trưng thương được in trên nhiều tờ rơi cũng như ấn bản giói thiệu
về Nhật Bản thời kỳ này thể hiện sự tĩnh lặng của Nhật Bản như hoa anh
đào, tuyết phủ trên đính núi Phú Sĩ.. <i>2</i> Bộ Ngoại giao Nhật Bản cũng bắt
đầu phát lịch ảnh nghệ thuật Ikebana dành cho người dân và các cơ quan
nước ngoài cùng thời điếm này, và vẫn t\ếp tục cho đến hiện nay.


Củng trong thòi kỳ này, những yếu <i>tố</i> đặc trưng trong văn hóa
truyền thông Nhật Bản như tinh thần võ sĩ đạo hay những truyền thông


1 Matsumura Masayoshi, 'T ịch sử giao lưu quốc tê", NXB Chijinkan,'1996,
trang 3 6 9 -3 7 0 .


2 Tờ rơi quảng cáo ' Japan of Today" do Bộ Ngoại giao Nhật Bản phát hành có


đặc tnmg là những bức ảnh về hoa anh đào hay đinh núi Phú Sĩ phủ tuyết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật Bản: T iếp cậ n n gh iên cứu từ g ó c</b></i><b> độ...</b>


từ thịi phong kiến khơng được khuyến khích phổ cập tại nưóc ngồi1.
Cũng giơng như vậy, cho đến đẩu thập niên 70, hoạt động giáo dục
tiếng Nhật cũng không được xúc tiến một cách tích cực. Lý do bải việc
này gợi lại hoạt động phổ cập tiếng Nhật tại châu Á trưóc Thê' chiên,
khiến nhiều trí thức Nhật Bản và những người Hàn Quốc, Trung Quốc
phải trải qua sự cai trị của phát xít Nhật cảm thây có liên quan tói <i>ỷ</i> đồ
chủ nghĩa thực dân của Nhật Bản.


(2) Ngoại giao văn hóa Nhật Bản bước vào giai đoạn hai từ cì
những năm 60 đêh đầu thập niên 70. Vào thời gian này, từ sau Olympic
mùa đông năm 1964 được tổ chức tại Tokyo, phương châm trọng điểm
chuyển từ hình ảnh ''Nhật Bản hịa bình" sang một Nhật Bản vói nền
kinh tế phát triển. BÔI cảnh của sự thay đổi đó là do phản ứng của các
nưóc Âu Mỹ trưóc sự phát triển kinh tế thần kỳ của Nhật Bản từ cuôi
thập niên 50 đến đầu những năm 1960.


Lúc đó tại nhiều quôc gia, các mặt hàng Nhật Bản được coi là hàng
nhập khẩu <i>iãĩẻ</i> tiền", các doanh nghiệp xuất khẩu hàng Nhật Bản phải
đối mặt vói những thiệt hại khi bị quy kết bán phá giá gây nhiễu loạn
thị trường. Ngoại giao văn hóa được huy động để đáp trả lại những
luận điệu trên, vừa mở rộng cách nhìn về một giai đoạn mói của kinh tế
Nhật Bản, đổng thịi mang lại hình ảnh mói của một đâ't nưóc phát triển
cả về kinh tế lẫn kỹ thuật. Tóm lại, thay cho chính sách ngoại giao "bị
động" với mục đích xóa tan hình tượng chủ nghĩa quân phiệt trước Thế
chiến, từ cuối những năm 60 đến thập niên 70, một chính sách ngoại
giao văn hóa tích cực hơn đã được triển khai (Tuy nhiên, cần phải chú ý


rằng ngay tại chính sách ngoại giao tích cực hơn này cũng bao gổm
động cơ bị động là để xóa bị hình ảnh "phủ định" về kinh tế Nhật Bản).


Những thay đổi như vậy. trong ngoại giao văn hóa Nhật Bản thời
gian này đã đặt nền móng mói cho Nhật Bản với tư cách là một thành
viên có trách nhiệm vói xã hội quôc tế. Tất'cả những động thái như tổ
chức Olympic Tokyo năm 1964, thành lập Cục Hợp tác kinh tế và


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i><b>NCS. Phạm L ê Dạ H ương</b></i>


Phịng Giao lưu văn hóa công chúng - Ban Giao lưu văn hóa, gia nhập
TỔ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (Organization for
Economic Co-operation and Development)... không chỉ giúp nâng cao
địa vị của Nhật Bản mà còn xác lập bàn sắc mới về một quốc gia dân
chủ có nền kinh tê'phát triển.


Khuynh hướng trên cũng được phản ánh trong việc đẩy mạnh các
hoạt động văn hóa tại nưóc ngoài của Nhật Bản, được chỉ ra rõ ràng
nhất trong các cơ sở hạ tầng dành cho văn hóa. Những ví dụ đáng chú ý
như thành lập Trung tằm văn hóa cơng chúng thuộc các khu ngoại giao,
thành lập Hội Giáo dục tiêng Nhật năm 1962, kí kết các hiệp định giao
lưu văn hóa vói một loạt 8 nước xã hội chủ nghĩa, bắt đầu triến khai từ
năm 1969 vói Yugoslavia cho đến năm 1979 vói Trung Quốíc. Đây cũng
là thời kỳ kịch Noh và Kabưki được giói thiệu một cách tích cực tại
nưóc ngồi.


Sự thành lập Quỹ Giao lưu Quốc tế (The Japan Foundation) năm
1972 cũng là một bằng chứng xác thực hơn nữa về mạt tích cực trong
xúc tiến ngoại giao văn hóa của Nhật Bản. Khi mới bắt đầu thành lập,
sơ' tiên chính phủ đầu tư cho Quỹ Giao lưu Quốc tế là 5 tỷ yên (sô' liệu


mới nhất, năm 2012 là 78 tỷ yên) để hoạt động trên 3 lĩnh vực chính là
1) Hỗ trợ giáo dục tiêng Nhật tại nước ngồi, 2) Giao lưu văn hóa, trong
đó bao gồm giao lưu giữa các nghệ sĩ, nhạc sĩ và 3) Khuyên khích
nghiên cứu Nhật Bản tại nươc ngồi.


Trong chính sách của chính phủ Nhật Bản nhằm hướng tói mục
tiêu phổ biến nghiên cứu Nhật Bản tại nưóc ngồi, những nghiên cứu
về kinh tế Nhật Bản đặc biệt được chú trọng. Có thể kể tới việc thành
lập Quỹ Tanaka đế hỗ trợ cho nghiên cứu Nhật Bản tại 10 trường đại
học hàng đầu của Mỹ được coi là <i>bước</i> khởi đầu trong lĩnh vực này.
Nhật Bản chi cho môi trường 1 triệu USD, góp phần to lón nhân rộng
nghiên cứu Nhật Bản tại Mỹ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật B ản: T iếp cận ngh iên cứ u từ g ó c</b></i><b> độ...</b>


Nhật Bản. Sự phụ thuộc kinh tế vào Nhật Bản tại nhiều mặt như thương
mại, đầu tư, viện trợ khai thác... đã dẫn tới sự khó chịu của nhiều nước
châu Á đối với Nhật Bản. Nhật Bản thường bị chế nhạo bằng những từ
như "đất nước giấu mặt" hay "chuôi"... Bị gọi là "chi" bời ngưịi
Nhật cũng có nước da vàng (ngoại hình chung giơng người châu Ả)
nhưng bên trong lại có màu trắng (liên tưởng đến người châu Au), nên
người Nhật không thể hiểu được châu Á. Hơn nữa, có nhiều lịi chỉ
trích cho rằng những hình ảnh đại diện cho Nhật Bản lúc bây giò là
Sony, Honda, hay đổng tiền Yên không xây dựng được quan hệ trực
tiếp người vói người trong quan hệ đối tác giữa Nhật Bản và châu Á.


Trước tình hình đó, một mặt Nhật Bản nhanh chóng đẩy mạnh
hoạt động văn hóa tại châu Á. Việc xây dựng các văn phòng đại diện
của Quỹ Giao lưu Quốc tế tại nhiều quốc gia Đông Nam Á đã thể hiện
rõ sự khởi đầu của những chính sách mói. Một mặt khác, Trung tâm


Văn hóa ASEAN thuộc Quỹ Giao lưu 'Quốc tế được thành lập tại
Tokyo năm 1990 chịu trách nhiệm giói thiệu văn hóa của các nước
ASEAN, giúp người Nhật có thêm kiến thức và quan tâm đến khu vực
Đông Nam Á.


Cũng trong thời kỳ này, Trung tâm Đào tạo tiếng Nhật được
thành ỉập tại Bắc Kinh - Trung Quốc (tên thường gọi là "Trựờng Thái
Bình"), tổ chức đào tạo tập trung giáo viên dạy tiếng Nhật. Năm
1985, phát triển từ thành cơng của mơ hình này, Trung tâm Nghiên
cứu Nhật Bản học tại Trung Quôc (tên hiện nay: Trưng tâm Nghiên
cứu Nhật Bản học Bắc Kinh) được thành lập đào tạo trình độ cao học,
xúc tiến nghiên cứu Nhật Bản từ quan điểm nghiên cứu kinh nghiệm
phát triển kinh tế Nhật Bản để đóng góp cho chính sách cơng nghiệp
hóa mới của Trung Quôc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i><b>NCS. Phạm L ê Dạ H ương</b></i>


sự thịnh v ư ợ n g chung củ a th ế giới, và n g ư ờ i dân N h ật B ản cũ n g cần
p hải n h ận thức đ ư ợ c m ụ c tiêu n à y " 1. Có nghĩa rằn g , N h ật Bản cần
n g ư ò i dân phải n h ạy cảm h ơ n trư ó c n h ữ n g gi m ìn h có th ể đ ón g góp
ch o xã h ội tồn cầu th ơn g qua giao lư u q u ô c tế.


(4) G iai đ oạn -p h át triển tiếp theo của ngoại giao v ă n h óa N h ật B ản
b ắ t đầu vào cì thập n iên 80. Đ ộ chín tron g phát triể n k in h tê 'v à tầm
qu an trọng của N h ật B ản trên trư ơn g q u ô c tế đư ợc n ân g lên kéo theo
n h iều trông đợi vào sự cô n g h iến của N h ật Bản v ó i vai trò của m ộ t đổi
tác đáng tin cậy. C ù n g v ớ i việc công h iên trong các h o ạ t động d u y trì
h ị a bình, ch ín h sách v iện trợ kinh t ế và hô trợ p h á t triển ch ín h p h ủ ,
n goại giao văn h óa cũ n g là m ột tron g " 3 trụ cộ t" củ a ch ín h sách n g o ại
giao N h ật Bản.



T ron g thời kỳ này, m ộ t khái n iệm m ó i là "h ợ p tác v ăn h ó a " cũ n g
có vai trị vơ cù ng q u an trọn g đ ơì vơi n g o ạ i giao v ă n h ó a N h ật Bản. C ó
th ể k ề đến m ột số h oạt đ ộn g hợ p tác văn h óa như hỗ trợ các b u ổ i d iễn
n g h ệ thu ật sân khấu, trang bị các thiết bi thu âm - ch iếu sáng, tran g bị
các kệ trưng b àv cho các bảo tàng, hỗ trợ kỹ thuật cho v iệ c qu ản lý v à
v ậ n h àn h n g h ệ th u ậ t... cho các n ư ó c đang p h át triển. Đ ầ u n h ữ n g n ăm
1990, việc thành lập m ột tổ chứ c đ ặc b iệt n h ằm b ảo tổ n d i sản v ă n h ó a
ch o các n ư ớ c đ ang p hát triển đ ư ợ c N hật B ản đ ề xuâ't lên U N E S C O cũ n g
x u ấ t p h át từ tinh th ẩn n à y 2.


N goài ra, cu ố i n h ữ n g năm 80 đến đầu n h ữ n g năm 90, m ộ t tron g


1 Hội nghị dành cho nhân viên ngoại giao Hạ nghị viện lần thứ 68 (15/3/1972)
( />


2 Mục đích ban đầu của Quỹ Giao lưu Quốc tế là viện trợ cho việc bảo tồn các di
tích tại các nưóc đang phát triển đang bị bỏ mặc trong sự thay đổi của tình hình
kinh tế - xã hội. Nhưng sau đó, đỏi tượng bảo tổn đã được mờ rộng sang cả
những tài sản vãn hóa vơ hình như âm nhạc hay múa... Đồng mục đích, đầu
thập niên 90, chính phủ Nhật Bản đã lên kế hoạch tổ chức một Đại hội thể thao
châu À truyền thống cấp quôc tế, mời nhũng vận động viên võ thuật hay các
môn cầu truyền thông thường được lưu truyền trong các dân tộc thiểu sô', đến
Nhật Bản. Kế hoạch được kỳ vọng sẽ thu hút sự quan tâm của dư luận quôc tế
đốn nhũng môn thế thao này và thúc đấy thêm nỗ lực bảo tổn truyền thông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i><b>Ngoại giao ván hóa Nhật Bản: T iếp cận n gh iên cứu từ g ó c đ ộ ...</b></i>


những mục tiêu của ngoại giao văn hóa Nhật Bản là làm cho giói tài
phiệt Âu Mỹ dịu đi cảm giác bị đe dọa bởi kinh tế Nhật Bản trong các
lĩnh vực đầu tư và xuâ't khẩu. Theo "Thuyết Nhật Bản khác biệt" của


James Fallows/ đại diện giới tri thức Mỹ coi Nhật Bản là một xã hội khác
biệt, nên cách thoát khỏi sự đe dọa từ Nhật Bản chỉ có thể là "cách ly".
Phản ứng của họ tiêu biểu cho cảm nhận của người Âu Mỹ về sự đe dọa
từ kinh tế Nhật Bản1. Để xóa bỏ những lo lắng này, chính phủ Nhật Bản
đã triển khai chính sách ngoại giao cơng chúng nhằm nhấn mạnh ý chí
mn xây dựng quan hệ đối tác chiên lược với toàn thế giới, đặc biệt là
với các nước phát triển. Kết quả của chiến dịch ngoại giao này, năm
1991, Trung tâm Nhật Mỹ thuộc Quỹ Giao lưu Quổc tế(CGP) đã được
thành lập nhằm thúc để giao lưu văn hóa cũng như trao đổi kiêh thức
theo một dạng mới với Mỹ. Mục đích của CGP là xúc tiên nhiều chương
trinh được gọi bằng "vấn đề toàn cầu" (global agenda). Nhiều chương
trình đã được thành lập nhằm xúc tiến đôi thoại liên quan đến những
vân đề đặt ra chung cho hai nước như dân chủ hóa tại các nước đang
phát triển, vâh đề môi trường, bệnh truyền nhiễm... CGP còn gắn kết
xúc tiến giao lưu giữa các tổ chức NGO của hai nưóc với nhau. Song
song với những động thái trên, hai chính phủ Nhật - Mỹ cũng bắt đầu
<b>những chuẩn bị hợp tác m ang tính tồn cẩu trước những vân đ ề ch u n g</b>
đặt ra cho cả hai nước (common agenda). Trong đó, việc đảm bảo


<b>nguồn tài chính và nhân lực cần thiết đơì với các dự án mang tầm quiôc</b>


tế cho các chuyên gia hai nước tại các lĩnh vực như dân chủ hóa tại
nước Cộng hịa E1 Salvador hay bảo vệ rặng san hơ trên Thái Bình
Dương... được đẩy mạnh2. Đối với các vấn đề chung, có những vârn. đề
khơng thuộc lĩnh vực "văn hóa", nhưng những hoạt động này cũng
được coi là một phẩn của chính sách ngoại giao công chúng của chánh
phủ Nhật Bản trước cái nhìn về một Nhật Bản "khác người".


1 Ý kiến tiêu biểu cho nhũng người chủ trương về thuyết "Nhật Bản khác búệt"
của Mỹ thuộc về James Fallows, được đăng tải trên tờ Atlantic Monthly (số


tháng 5/1989)


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>NCS. Phạm L ê Dạ H ương</b></i>


Trong nưóc Nhật cũng có những phản luận trưóc "Thuyết Nhật
Bản khác biệt" của Mỹ, đại diện là cuốn <i>Một Nhật Bản biết nói KHƠNG</i>
do Morita Akio và Ishihara Shintaro viê't chung. Những phê phán dành
cho phe "Nhật Bản khác biệt" nảy sinh từ nhũng cảm xúc "ghét Mỹ"
hay những phê phán dành cho chủ nghĩa "thân Mỹ" từ một bộ phận
trong tầng lóp tri thức Nhật Bản. Và chính sách ngoại giao cơng chúng
cũng như ngoại giao văn hóa Nhật Bản cũng phải điều chỉnh theo
nhửng phản úng trong <i>nước</i> này.


Một ảnh hưởng khác do phê phán của thế giói trưóc sự phát triển
mạnh mẽ của Nhật Bản là sự thay đổi trong tâm tính của người Nhật.
Khi đón nhận những phê phán từ bên ngoài, người Nhật đã biết hiểu
hơn cho suy nghĩ và cảm xúc của người nước ngoài, và nhận thức sâu
sắc hơn tầm quan trọng của giao lưu quốc tế.


Kết quả là, toàn thể người dân được yêu cầu phải giải phóng bản
thân về mặt văn hóa, tri thức đơi với xã hội quốc tế, hay nói cách khác
Nhật Bản cần phải đẩy mạnh hơn "qc tế hóa". Từ bối cảnh này, ngay
cả các khu vực tự trị địa phương cũng thành lập các bộ phận phụ trách
mảng giao lưu quốc tế, đồng thời, chương trình JET program (Chương
trình mời các thanh niên nước ngoài đến dạy tiếng Anh - The Japan
Exchange and Teaching Programme) cũng được bắt đầu, hàng trăm
giáo viên ngoại ngữ và điều phôi viên giao lưu quôc tê' được mời đến
Nhật hàng năm. Chương trình đã trở thành một thử nghiệm mới hướng
đến quốc tế hóa xã hội địa phương tại Nhật Bản1.



Nhìn lại nhũng tiến triển từ cuối thập niên 80 đêh đầu thập niên 90,
một lần nữa có thể thấy rằng Nhật Bản đã cô' gắng xây dụng một bản


s ắ c m ó i là m ộ t q u ô c g ia có trá c h n h iệ m v ớ i h ò a b ìn h , th ịn h v ư ợ n g , a n


1 JET <b>d ư ợ c </b>bắt đẩu thực hiện từ năm 1987. Kinh phí hoạt động năm tài khóa
1989 là 300 triệu yên, đến năm 2008 tăng lên 1 tỷ 100 triệu. Trong chương
trình này, hàng năm có khoáng từ 4-5000 thanh niên tù gần 40 quốc gia được
mời hô trợ đào tạo ngoại ngữ, hoặc điểu phôi giao lưu quôc tế tại các địa
phưcỵng. Tham khảo từ bài của VVada Jun "G iao lưu văn hóa qc tế và ngoại
giao văn hóa Nhật Bản tại Đông Á ", đăng trong: <i>Soeya Yoshihide và Tadokoro</i>
<i>Mascìỵuki "Nhật Bản xây dựng Đông Átấ,</i> NXB Đại học Keio, 2004.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i><b>Ngoại giao ván hóa Nhật Bản: T iếp cận nghiên cứu từ g ó c</b></i><b> độ...</b>


ninh thế giới mà không cần đêh quân sự. Hội Tư vân về Giao lưu quốc
tế được thành lập dưới trướng Nội các Takeshita kết luận, một trong
những mục đích tơi thượng của giao lưu văn hóa quốc tế là cơng hiên
cho việc bảo toàn anh ninh quốc gia cũng như thế giói. Đây chính là
biểu trưng cho suy nghĩ và nỗ lực cho bản sắc đã nêu trên.


(5) Giữa thập niên 90, làn sóng tồn cầu hóa lan khắp các quốc gia
trên thế giói, nên Nhật Bản một lần nữa cần phải sừa đổi chính sách
ngoại giao cho phù hợp vói thời đại. cùng thịi gian này, ngoại giao văn
hóa Nhật Bản cũng phải tìm một phương hưóng mói do chịu ảnh
hưởng của kinh tế đã ngừng tăng trưởng và thâm hụt tài chính trong
10 năm liên tiếp. Thứ nhất, Nhật Bản buộc phải tái định nghĩa bản sắc
văn hóa của mình trong thế giói tồn cầu hóa. Giữa các nước dân chủ
tiên tiến, Nhật Bản đã được đón nhận là đơì tác chiến lược, nhưng hơn
hết cần thiết phải tạo ra hình ảnh một đốỉ tác chín chắn, có ữách nhiệm.



Xét trên phương diện văn hóa, điều này có nghĩa rằng Nhật Bản
phải trở thành nưóc tiên phong trong văn hóa hậu hiện đại thay cho
tính chất khác biệt trong văn hóa thường được nhắc tơi trước đây. Tất
cả những thứ như anime (phim hoạt hình), truyện tranh manga, thòi
trang, nhạc pop, ẩm thực, tiểu thuyết của các tác giả trẻ... đã chiếm một
vai trò lớn trong hoạt động văn hóa quốc tế của Nhật Bản. Tuy nhiêm, vì
những hoạt động kể trên đều có tính chất thương mại, nên chính sách
ngoại giao văn hóa Nhật Bản có liên quan mật thiết đến chính sách
thương mại về quyền sở hữu trí tuệ khi tham gia vào một hoạt động
nào đó như liên hoan phim quốc tế hay triển lãm sách.


Đại diện cho hướng đi mói này là việc phổ cập khái niệm "công
nghiệp thơng tin giải trí" trong đó có âm nhạc, phim ảnh, thời trang và
ngành dịch vụ có liên quan1. Sự kết hợp giữa kỹ thuật điện tử và văn
hóa truyền thơng của Nhật Bản cũng bắt đầu thu hút sự chú ý. <i>V í</i> dụ
như, kỹ thuật người máy hiện đại được nhân mạnh là có liên quan tói
loại búp bê lên dây cót truyền thống tù thịi Edo. Nói cách khác, rụgoại


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>NCS. </b><i><b>Phạm Lê Dạ H ương</b></i>


giao văn hóa Nhật Bản đã đặt trọng điểm vào mối quan hệ giữa kỹ
thuật hiện đại và nền văn hóa truyền thơng lâu đời của mình.


Tuy nhiên tồn cẩu hóa cũng gây thêm một ảnh hường khác nữa tới
hướng phát triển của ngoại giao công chúng và ngoại giao văn hóa Nhật
Bản. Một mặt quan trọng của tồn cẩu hóa là sự tăng trưởng kinh tế nhanh
chóng tại Trung Quốc, Hàn Quốc và một bộ phận các nước Đông Nam Á.
Với nền tảng phát triển đó, hiện nay nhiều nước châu Á đã triển khai chính
sách ngoại giao văn hóa của chính mình trên khắp thế giới. Vì vậy, những


hình ảnh mà Nhật Bản mang đến cho thế giới về một đất nưóc duy nhất ở
châu Á có nền kinh tế phát triển, chế độ dân chủ và nền văn hóa truyền
thống lâu đời đã dần trở nên không rõ ràng khi đem ra so sánh vói các
qc gia châu Á khác. Trong khi Nhật Bản triển khai chính sách ngoại giao
văn hóa của mình, cần phải làm rõ hơn sự "khác biệt" của mình vói Trung
Quốc, Hàn Quốc và các nước châu Á khác; các lĩnh vực từ quan điểm
truyền thơng khác vói các nước châu Á khác cũng dần được coi trọng hơn.
Dù địa vi ''đặc thù" của Nhật Bản trong châu Á vẫn chưa hoàn toàn mất
đi, nhung hình ảnh đã có phần suy giảm, xuâ't hiện thay đổi trong tầm
quan trọng của Nhật Bản với tư cách là hình mẫu kinh tế. Nguyên nhân
một phẩn do khủng hoáng kinh tế châu Á và sự chậm tăng trưởng của
kinh tế Nhật Bản thập niên 90. Cho đêh lúc này, ngoại giao văn hóa Nhật
Bản hướng tới mục tiêu làm Kình mẫu của một qc gia duy nhất tại châu
A có nền kinh tế phát triển cho các nưóc khác noi theo, nhưng trước tình
hình thế giới từ sau thập niên 90, hình ảnh này cần được xem xét lại.


Theo đó, hình ảnh một Nhật Bản hòa trộn giữa truyền thông và
hiện đại được nhấn mạnh trong ngoại giao văn hóa thời kỳ này. Festival
Nhật Bản tổ chức tại Anh nằm 1991 nhằm kỷ niệm 10 năm thành công
chưa từng thấy của triển lãm "Mỹ thuật thời Edo" năm 1981, chính là
một trong nhũng thử nghiệm về hình ảnh Nhật Bản kết hợp giữa
truyền thông và hiện đại.


Bước vào thê ký XXI, một cục diện mới xuất hiện trong ngoại giao văn
hóa Nhật Bản. Đặc trung của nó là tính phụ thuộc lẫn nhau và sự phát triển
nhận thức văn hóa chung giữa các nước Đơng Á, đặc biệt là giữa giới trẻ các
nước Nhật Bán, Hàn Qc, Đài Loan, Trung Quốc... Có được điều này nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật Bản: T iếp cậ n nghiên cứ u từ g ó c</b></i><b> đ ộ...</b>



công rẩt lơn của phim Hàn Quốc tại Nhật Bản và Trung Quôc cũng như sự
yêu chuộng nhạc pop Nhật Bản tại Hàn Quốc và Trung Quôc1.


Dưới bối cảnh này, tại khu vực Đơng Á có nhiều hoạt động giao
lưu văn hóa quốc tế được xúc tiến dựa trên tiền đề thương mại và
nhiệm vụ của chính phủ cũng như các cơ quan có liên quan tơi chính
phủ cũng bắt đầu được định nghĩa lại. Một hiện tượng khác tại Đông Á
là sự nổi lên của "chủ nghĩa quốc gia" tại Hàn Quốc và Trung Qc.
Vói lịng tự trọng của một quốc gia đã đạt được phát triển vượt bậc
trong kinh <i>tế,</i> Hàn Quốc và Trung Quốc có những động thái phản
kháng về quá khứ - thời kỳ chịu ách thực dân của Nhật Bản.


Dưói những biến chuyển này, trong chính sách giao lưu văn hóa
đã xuất hiện một sơ' phương hướng mói. Ví dụ như Quỹ Giao lưu Quốc
tế đã thành lập "Nơi gặp gỡ" tại Trung Quốc, là một trong những hoạt
động khởi đầu cho việc giói thiệu ván hóa hiện đại Nhật Bản tơi giói trẻ
Trung Quốc2. Cịn tại Hàn Quốc, những đoàn thể tình nguyện nhận
được sự hỗ trợ từ chính phủ Nhật Bản và Quỹ Giao lưu Quốc tế đẵ xây
dựng kế hoạch "Lễ hội giao lưu Nhật - Hàn" tại Seoul, mang lại cho
người dân Hàn Quốc và Nhật Bản khi tham gia chung sự kiện <i>v ần</i> hóa
có cảm nhận mạnh mẽ về việc mình thuộc về cộng đồng giông nhaư.


<b>III. Sự tiến triển mới trong thế kỷ XXI</b>


Hiện nay, Nhật Bản đang đối diện mói một sơ' vân đề mói. Một


tro n g SỐ đó là sự k h ó k h ă n tro n g v iệ c b ả o đ ả m n g â n s á c h c h o c á c Ih o ạt


động văn hóa tại <i>nước</i> ngồi. Cách nghĩ phải chỉ ra được lợi ích trực
tiếp đối với người đóng thuế và các bên liên quan trong bâ't kỳ chương


trình giao lưu văn hóa ngày càng mạnh. Có nghĩa là, rất khó khăìn để


1 Tham khảo từ bài "Ý thức xã hội của người dân Hàn Quôc - Trung Q uốc/Tọa
đàm về ván hóa đại chúng", trích " Báo cáo tống họp v ề ý thức xã hội v à sự
xâm nhập văn hóa đại chúng tại Nhật - Trưng - Hàn", 2005.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i><b>NCS. Phạm Lê Dạ Hương</b></i>


câp kinh phí cho những dự án dài hơi mơi kiểm chứng được kết quả
(Bao gồm một phạm trù nào đó như mảng giao lưu trí tuệ). Một trong
những hệ quả mà khuynh hưóng này mang lại là sự suy giảm hoạt
động của các nhóm chuyên gia tư vấn tại Nhật, kéo theo đó sự suy giảm
việc tham gia vào các diễn đàn, thảo luận quốc tê'của người Nhật.


Liên quan đến điểm này, cẩn chú ý tơi chủ trương giữa những bên liên
quan tới chính phủ phải chuyển trọng điểm ngoại giao văn hóa Nhật Bản
sang quảng bá văn hóa, truyền thơng, bản sắc Nhật Bản tói các nươc ngồi .


Chủ trương này nhìn thống qua thấy râ't đúng đắn, nhưng trong
đó vẫn có điểm mù. Vì văn hóa và truyền thông Nhật Bản về cơ bản
thuộc về nưóc Nhật và người Nhật, là tiền đề giúp người nước ngồi
hiểu được đặc tính của văn hóa Nhật.


Trong xã hội đang ngày một tồn cầu hóa, việc so sánh nét "đặc sắc"
trong văn hóa của nước mình với nước bạn dần trở nên khó khăn hơn.
Hay nói khác đi, tài sản và dịch vụ văn hóa ngày một được tồn cầu hóa
hơn. Trong văn hóa "của Nhật Bản", có những thứ được tạo ra rất xuất sắc
không chi bời người Nhật. Cũng giơng như có đầu bếp Nhật Bản nhưng
nấu món Pháp ngon hơn cả đầu bếp Pháp. Hay cũng có nhiều tranh luận
rằng liệu các tác phẩm văn học của Murakami Haruki, phim hoạt‘hình


aníme hay văn hóa "otaku" có hồn tồn thuần Nhật khơng. Có thể nghĩ
rằng, khơng hẳn mọi văn hóa đều thuộc về Nhật Bản, mà còn chỉ ra được
đặc trưng văn hóa hiện đại chung của cả thế giói.


Trong bơì cảnh như vậy, những cơ quan có liên quan tói ngoại giao
văn hóa Nhật Bản hiện đại đã lấy phương châm truyền thống văn hóa
"của người Nhật" không phải thuộc sờ hữu của riêng Nhật Bản mà là di
sản quý báu của tồn nhân loại. Tình hình này cịn có nghĩa rằng ngoại
giao văn hóa Nhật Bản khơng chi tuyên truyền, phổ cập truyền thông
và suy nghĩ của người Nhật ra nưóc ngồi mà cịn cần phải làm cho di
sản văn hóa thế giói thêm phong phú nhờ vào việc giói thiệu những
nền văn hóa khác cho Nhật Bản. Cách nghĩ này cũng gắn liền vói việc


' Tại hác) cáo của Hội đổng tư vâh liên quan đến xúc tiến ngoại giao văn hóa
năm 2005, luận điểm "cẩn nâng cao tẩm quan trọng của các hoạt động văn
hóa quốc tế có tính châ't ngoại giao" được nhâh mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật Bản: Tiếp cận nghiên cứu từ góc độ...</b></i>


bảo tổn tính đa dạng văn hóa, góp phần duy trì mơi trường văn hóa đa
dạng đơi với tồn nhân loại.


Gần đây Nhật Bản lại bắt đầu tận dụng ngoậi giao văn hóa dưới
phương thức xây dựng hịa bình. Khái niệm mới về xây dụng hịa bình
thơng qua giao lưu văn hóa thể hiện rằng ngoại giao văn hóa đang có
râ't nhiều chức năng khác nhau. Hiện tại, ngoại giao văn hóa đang cho
thấy râ't nhiều góc độ, nhưng trong đó vẫn có những yêu tố cho đến giờ
vẫn chưa được nhận thức rõ. Ví dụ như chức năng làm chất xúc tác cho
sự khôi phục xã hội địa phương hay hỗ trợ các hoạt động văn hóa có ích
cho việc hịa giải các nhóm dân tộc có cơ sở văn hóa khác nhau.



Hay cả "quyền lực mêm" cũng là một khái niệm có ảnh hưởng tới
ngoại giao văn hóa Nhật Bản. Khái niệm về quyền lực mềm với tư cách
là một chính sách cần được sử dụng một cách thận trọng, nhưng giữa
những người đề xuâ't xúc tiến ngoại giao văn hóa một cách tích cực hon
tại Nhật Bản, đây là một đề tài nóng hổi. Những chính sách được cho là
ứng dụng cụ thể khái niệm quyền lực mềm cũng đã được thực thi. Có
thế chi ra một số ví dụ như sau:


Vì giúp Mỹ tấn cơng Iraq nên hình ảnh tại Trung Đông của Nhật
Bản đã xấu đi nên Nhật Bản quyết định triêh khai chính sách ngoại giao
quyên lực mềm tại lĩnh vực văn hóa để làm dịu đi "tổn thất" này.


Những ví dụ cụ thể nhất về việc Nhật Bản phát huy quyền lực
mềm nhằm bảo vệ hình ảnh của mình tại các nước Ả-rập như phát sách
dành cho thiếu nhi phiên bản tiêng Ả rập cho các trường tiểu học trong
các vùng tự trị, mời đội tuyển bóng đá Iraq sang Nhật, phát sóng phim
hoạt hình "Tsubasa" với nội dung về bóng đá tại Iraq...


Hay như việc xây dựng "Nơi gặp gỡ" tại các thành phô' địa phương
của Trung Quôc đã đuục nhắc đến ở những đoạn trước cũng đuợc coi là
một phần trong chính sách ngoại giao văn hóa mới của Nhật Bản nhằm phi
chính trị hóa quan hệ Nhật - Trung dễ bị coi là hoạt động chính tri do vârt đề
lịch sừ trong quá khứ, thông qua nhũng hoạt động văn hóa "nhẹ nhàng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

<i><b>NCS. Phạm Lê Dạ Hương</b></i>


quốc tế. Tuy nhiên, vì trong những tác phẩm văn hóa hậu hiện đại
Nhật Bản có bao gồm cả những yêu <i>tố</i> phản xã hội hay phản thể chế
nên khơng hẳn đều thích hợp với những hoạt động hỗ trợ trực tiếp tư


chính phủ. Do đó thế giói có thể cảm nhận được ma lực "hiện đại" của
Nhật Bản, nhung chính phủ cũng không dễ dàng huy động những yếu
tơ' này vào ngoại giao văn hóa.


IV. Kết luận


Nhìn lại sự phát triển của ngoại giao văn hóa Nhật Bản hơn một
nửa thế kỷ qua, có thể nhận thây rỏ một khuynh hướng cơ bản.


Ngoại giao văn hóa Nhật Bản hướng tói mục tiêu xóa bị hình ảnh
phủ định trưóc đây của mình, hay nói cách khác là "sửa lại" những
hiểu lẩm của các nước về Nhật Bản. Lời nhắn nhủ cơ bản của ngoại giao
văn hóa Nhật Bản đến thế giói đó là "Nhật Bản đã thay đổi", "Nhật Bản
khơng giơng với những gì mọi người đang nghĩ".


Tuy nhiên hiện giò Nhật Bản cần phải suy nghĩ rộng hơn về những
bưóc đi của ngoại giao văn hóa. Nhật Bản cần củng cô' thêm sự tự tin
trước truyền thơng văn hóa lâu đời, và đứng trên lập trường chung sâu
rộng hơn vói người dân các nước khác. Hơn hết mục tiêu không chỉ
dừng lại ở việc làm đẹp thêm hình ảnh của Nhật Bản tại nưóc ngồi, mà
cịn cống hiến vào sự phong phú của xã hội loài người, duy trì tính đa
dạng của văn hóa và hịa bình thếgiói.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hội nghiên cứu Giao lưu văn hóa qc tế Nhật Bản từ sau T h ế chiên
(Giám sát: Hirano Kenichiro), <i>Tinh hình giao lưu văn hóa quốc tế của Nhật</i>
<i>Bản từ sau Thế Mến,</i> NXB Keiso Shobo, 2005 (ặẾíễ 0 <i>"Xitĩĩ.</i> ỉ/ít


<i>m</i> E ố , 2005)



2. Matsumura Masayoshi, <i>Lịch sử giao ỉưu quốc tê'</i> NXB Chiịinkan, 1996,


trang 3 6 9 - 370 <i>k x í t</i> 1996).


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<i><b>Ngoại giao văn hóa Nhật Bản: Tiếp cận nghiên cứu từ góc</b></i>

độ...



3. Wada Jun <i>Gừio lưu văn hóa qíc t ế và ngoại giao vân hóa Nhật Bàn tại Đơng Ả,</i>


Soeya Yoshihide và Tadokoro Masayưki "Nhật Bản xây dựng Đông <i>h t ể,</i>


NXB Đại học Kei0/ 2004 <i>( ĩ m m Ỉ M T i / T</i> i c t ó ứ <i>ò</i> 0


<i><b>m m ỉ</b></i>

0 ^ I 7 ^ 7 Ì S J



m K Sê 2004)


4. "Báo cáo tổng hợp v ề ý thức xã hội vạ sự xâm nhập văn hóa đại chúng
tại Nhật - Trung - H àn", 2005 ( ir 0


<i>Ì9:M t</i> 2005 )


</div>

<!--links-->
<a href=' /> Yếu tố văn hoá trong cơ chế thị trường nhìn từ góc độ triết học.DOC
  • 10
  • 698
  • 1
  • ×