ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HỒNG HẠNH
TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ
QUA BIÊN GIỚI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HỒNG HẠNH
TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ
QUA BIÊN GIỚI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS.LÊ ĐĂMG DOANH
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo trung thực, tin cậy và được tham khảo, trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ
Đinh Thị Hồng Hạnh
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................... iv
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VẬN CHUYỂN
TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI......................... 6
1.1. Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới ......................................................................................................... 6
1.2. Lịch sử lập pháp về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới. ....................................................................................................... 7
1.3. Pháp luật hình sự nước ngồi quy định về tội vận chuyển trái phép
hàng hóa tiền tệ qua biên giới. .................................................................... 17
Kết luận chƣơng 1 ..................................................................................... 20
Chƣơng 2 TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ
QUA BIÊN GIỚI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
2015 ............................................................................................................. 21
2.1. Dấu hiệu pháp lý về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới............................................................................................................... 21
2.2. Hình phạt đối với người phạm tội, pháp nhân phạm tội vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ........................................................... 28
2.3. Phân biệt tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới với
một số tội phạm có dấu hiệu vận chuyển hàng hóa qua biên giới. ............. 32
Kết luận chƣơng 2 ..................................................................................... 35
Chƣơng 3THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP
HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI ............................................. 36
ii
3.1. Thực tiễn xét xử tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên
giới và một số vướng mắc, bất cập ............................................................. 36
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ........................................ 47
KẾT LUẬN ................................................................................................ 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 61
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật Hình sự
TAND
:
Tịa án nhân dân
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
VKSND
:
Viện Kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
:
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
iv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế, tự do thương mại hiện nay, các hoạt động kinh doanh thương mại
diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, nhất là
hoạt động xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, do cơ chế thị trường, do lợi nhuận
nên các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới có sự gia tăng làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh quốc
gia, thực thi các chính sách thương mại cũng như việc thu ngân sách, đảm
bảo lợi ích của cộng đồng. Để đấu tranh phịng, chống các tội phạm về
kinh tế nói chung, tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
nói riêng, các lực lượng chức năng như Bộ đội Biên phịng, Cơng an, Hải
quan, Quản lý thị trường (trong đó lực lượng Hải quan có vai trị quan
trọng) đã tổ chức thực hiện nhiều biện pháp có hiệu quả nhiều biện pháp
trong cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn lậu và vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, bên cạnh những
kết quả đạt được, hoạt động vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới thời gian qua có xu hướng tăng dần về cả số lượng vụ việc lẫn
tính chất, mức độ với những hành vi, phương thức, thủ đoạn tinh vi, có tổ
chức, thậm chí sử dụng giấy chứng nhận kiểm sốt và chứng thư giám định
đối với hàng nhập khẩu sai quy định; làm giả các giấy tờ, tài liệu của cơ
quan, tổ chức để vận chuyển, nhập khẩu trái phép hàng hóa, tiền tệ. Chỉ
tính riêng 10 tháng đầu năm 2018, lực lượng kiểm soát hải quan đã đấu
tranh phát hiện, bắt giữ, xử lý 14.109 vụ vi phạm pháp luật hải quan (tăng
1
12,49% so với cùng kỳ năm 2017); Tổng trị giá hàng hóa vi phạm ước tính
hơn 1.172 tỷ đồng (tăng 118,76%), thu nộp ngân sách hơn 287 tỷ đồng; Cơ
quan Hải quan đã khởi tố 60 vụ án hình sự, chuyển nội dung tin báo, kiến
nghị khởi tố đến cơ quan khác đề nghị khởi tố 81 vụ án hình sự, trong đó
có khoảng 20% các vụ án hình sự về Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới [23].
Nguyên nhân của thực trạng vi phạm nêu trên là các biện pháp
phòng ngừa chưa được sử dụng một cách triệt để, hiệu quả còn hạn chế, tỷ
lệ tội phạm ẩn vẫn cịn cao; cơng tác phát hiện, điều tra khám phá cịn gặp
một số khó khăn, vướng mắc cả về thể chế và thực tiễn. Ví dụ như: thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính với hình thức “phạt tiền” và “tịch thu
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính” của cơ quan Hải quan cịn bị
hạn chế; thủ tục thành lập doanh nghiệp hiện nay thông thống nên cũng bị
lợi dụng để thành lập các cơng ty “ma”, hoặc mua lại công ty đã thành lập
để làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa…Đặc biệt là, việc xử lý về hình sự đối
với các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cịn
chưa được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng thống nhất và cịn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tế. Từ đó, tác giả chọn đề tài "Tội
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong Luật Hình sự
Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đấu tranh phòng, chống hành vi phạm tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới theo Luật Hình sự Việt Nam đã có
một số cơng trình nghiên cứu được cơng bố ở những góc độ khác nhau. Có
thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
- “Đấu tranh phịng, chống tội bn lậu hoặc vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới” của tác giả Nguyễn Đức Bình, Luận án
Tiến sĩ luật học, Trường đại học luật Hà Nội, 2000;
2
“Thực trạng xét xử các vụ án về các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân, kỳ
II, số 24 (12/2004);
- “Một số vấn đề về định tội danh trong luật hình sự Việt Nam” của
tác giả Trịnh Quốc Toản (Sách chuyên khảo sau đại học), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2013);
- “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) (Phần các tội phạm)” của tập thể tác giả (Trần Văn Luyện, Phùng
Thế Vắc, Lê Văn Thư, Nguyễn Mai Bộ, Phan Thanh Bình, Nguyễn Ngọc
Hà, Phạm Thị Thu), Nxb Công an nhân dân, 2017;
- “Quy định về pháp nhân thương mại phạm tội” của tác giả Đỗ Văn
Chỉnh đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử, cập nhật ngày
27/02/2018;
- “Buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới: Nóng
bỏng và phức tạp” của tác giả Quang Minh ().
Ngoài ra, liên quan đến đề tài cũng cịn một số cơng trình nghiên
cứu được cơng bố trên các báo, tạp chí, trang web…Nhìn chung, các cơng
trình được cơng bố đã đề cập đến một số vấn đề về tội vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong Luật Hình sự Việt Nam, tuy nhiên, số
lượng các cơng trình nghiên cứu về tội phạm này khơng nhiều. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa, tham khảo các kết quả nghiên cứu đã công bố, luận văn
tiếp tục làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật để đưa
ra một số giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm
này ở nước ta trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận
3
và thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý hành vi phạm tội vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử tội phạm này ở
nước ta trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới như: khái niệm, bản chất, các dấu hiệu pháp lý và phân
biệt tội phạm này với một số tội phạm khác.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xử lý đối với Tội
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở Việt Nam trong
thời gian qua, những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp
dụng trong xét xử tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
ở nước ta trong tình hình mới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới dưới gốc độ luật hình sự, trong đó luận văn tập trung nghiên cứu
các quy định hiện hành về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới và việc áp dụng quy định của tội phạm này trong xét xử trong thời
gian từ 2015 đến năm 2018 ở một số địa phương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận văn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của triết học MácLênin; quan điểm, chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước, đồng
thời sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê... để rút ra các kết quả nghiên cứu của mình.
4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ nội
dung pháp lý của tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
Đồng thời, luận văn cũng góp phần luận giải những đặc thù của việc áp dụng
pháp luật hình sự trong xử lý tội phạm này trong từng thời kỳ phát triển kinh
tế -xã hội của đất nước. Mặt khác, luận văn cịn là tài liệu khoa học tham khảo
bổ ích cho sinh viên các trường chuyên ngành luật.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu tội phạm này dưới góc độ thực
tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử sẽ góp phần đưa ra những giải pháp hồn
thiện pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ quan tố tụng
hình sự nói chung, tịa án nói riêng trong việc xử lý hành vi phạm tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở nước ta trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu còn góp phần đưa ra các giải pháp phịng chống
hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới ở các địa phương
giáp biên giới một số nước ngoài tiếp giáp với Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Két cấu luận văn gồm: ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh
mục tài liệu tham khảo. Luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới.
Chương 2: Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả xử lý tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VẬN CHUYỂN
TRÁI PHÉP HÀNG HÓA, TIỀN TỆ QUA BIÊN GIỚI
1.1. Một số vấn đề chung về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ
qua biên giới
1.1.1. Khái niệm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới
Hàng hóa và tiền tệ có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở các góc độ
khác nhau trong đời sống xã hội, nhưng theo nghĩa chung nhất, có thể quan
niệm: (i) hàng hóa là sản phẩm của lao động, thể hiện sự thống nhất của hai
thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng thông qua trao đổi mua-bán nhằm thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người; (ii) tiền tệ là hàng hóa đặc biệt
được tách ra làm vật ngang giá chung thống nhất, là thước đo giá trị,
phương tiện lưu thơng, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh tốn trong
đời sống xã hội của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy hàng hóa, tiền tệ có thể
được thể hiện dưới nhiều hình thức, được lưu thơng và sử dụng vì những
nhu cầu khác nhau trong đời sống xã hội, bởi vậy, tùy thuộc điều kiện kinh
tế, văn hóa- xã hội của mỗi quốc gia thì chính sách, pháp luật về quản lý
hàng hóa, tiền tệ cũng có sự khác biệt.
Ở nước ta, việc quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, đối với hàng
hóa, tiền tệ nói riêng được thực hiện trên cơ sở pháp luật và điều kiện thực
tế của đất nước ở từng thời kỳ nhất định, nhằm đảm bảo việc lưu thơng,
mua bán hàng hóa, tiền tệ đảm bảo trật tự quản lý kinh tế. Về nguyên tắc,
để đảm bảo quản lý nhà nước, pháp luật quy định cụ thể việc lưu thơng, sử
dụng hàng hóa, tiền tệ. Bởi vậy, việc lưu thông, buôn bán hàng hóa, tiền tệ
trái với quy định pháp luật thì bị coi là hành vi vi phạm pháp luật, trong đó
có hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới.
6
Vận chuyển hàng hóa, tiền tệ, theo nghĩa chung nhất là hành vi
đưa hàng hóa, tiền tệ từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào.
Thực tế cho thấy rằng, việc vận chuyển hàng hóa, tiền tệ có thể thực hiện
thơng qua các phương thức khác nhau như: mang theo người, vận chuyển
qua các phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường biển, đường
sắt, đường hàng khơng hoặc qua đường bưu điện. Từ đó, việc vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới có thể được thể hiện qua những
hành vi như: hành vi vận chuyển nhưng khơng có giấy phép, khơng đúng
nội dung giấy phép, không khai báo với cơ quan chức năng tại khu vực
biên giới, trốn tránh sự kiểm tra, kiểm sốt của cơ quan chức năng (khơng
làm thủ tục hải quan theo quy định pháp luật, khai báo gian dối số lượng,
chủng loại hàng hóa hoặc khơng có hóa đơn, chứng từ hợp pháp; hàng hóa
nhập khẩu nhưng khơng có tem dán vào hàng hóa theo quy định hoặc có
tem dán nhưng là tem giả, tem đã qua sử dụng v.v...). Việc vận chuyển
trái phép…nếu có mục đích bn bán thì được coi là tội bn lậu.
Theo quy định tại Điều 189 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Người nào hoặc pháp nhân nào vận chuyển trái phép qua biên giới
hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại các loại hàng hóa,
tiền tệ có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên bị coi là tội phạm hoặc dưới 100
triệu đồng mà đã bị xử phạt hành chính, đã bị kết án về tội phạm này hoặc
một trong các tội quy định tại các Điều 188, 190... chưa được xóa án tích
mà cịn vi phạm hoặc đối tượng hàng hóa là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia
cũng được coi là tội phạm.
1.2. Lịch sử lập pháp về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới.
Hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh
biên giới và chủ quyền Quốc gia nên được nhà nước quản lý chặt chẽ. Vì
7
vậy, việc quy định hành vi vận chuyển hàng hóa, tiền tệ trái pháp luật là
tội phạm tùy thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn nhất định. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của việc
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đối với trật tự quản lý
kinh tế về xuất khẩu, nhập khẩu và tiền tệ nên Nhà nước ta ln có chính
sách xử lý tương đối nghiêm khắc đối với tội phạm này.
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình
sự năm 1985
Trong giai đoạn này, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành nhiều văn
bản pháp luật để đấu tranh, phịng chống tội phạm, trong đó có các hành
vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Cụ thể như một
số văn bản quy phạm pháp luật sau đây:
- Sắc lệnh số 50/SL ngày 09/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ cộng hịa. Theo sắc lệnh này quy định thì Nhà
nước cấm hẳn việc xuất cảnh ra ngoại quốc thóc, gạo, ngơ, đỗ hoặc các chế
phẩm thuộc về ngũ cốc. Vì vậy, có thể hiểu rằng việc vận chuyển "thóc,
gạo, ngơ, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngũ cốc” qua biên giới là trái
pháp luật và người có hành vi vi phạm sẽ bị phạt theo quân luật và tài sản
sẽ bị tịch thu. Từ đó, Sắc lệnh này có thể coi là văn bản quy phạm pháp luật
đầu tiên quy định về hành vi vận chuyển hàng hóa qua biên giới
- Sắc lệnh số 160/SL ngày 21/8/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ cộng hịa. Cũng tương tự Sắc lệnh số 50/SL nêu
trên, Sắc lệnh này cũng cấm hẳn việc xuất cảng ra ngoại quốc các máy
móc, các đồ vật bằng kim khí, xe hơi và các đồ phụ tùng về xe hơi. Vì vậy,
máy móc, các đồ vật bằng kim khí, xe hơi và các đồ phụ tùng về xe hơi đã
được bổ sung danh mục hàng cấm xuất cảng và người nào người nào có
hành vi vận chuyển trái phép các hàng hóa này thì bị phạt theo luật lệ thuế
quan hiện hành.
8
- Sắc lệnh số 202/SL ngày 15/10/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm
thời Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định việc bn bán vàng bạc. Theo
Sắc lệnh này thì Nhà nước "cấm hẳn việc xuất cảng bạc nén, bạc thoi, bạc
vụn, tiền tệ bằng bạc, đồ bạc, nếu không được Bộ trưởng Bộ Tài chính cho
phép” (Điều 6). Điều này cũng có nghĩa là người nào có vận chuyển bạc
nén, bạc thoi, bạc vụn, tiền tệ bằng bạc, đồ bạc qua biên giới mà khơng
được Bộ trưởng Bộ Tài chính cho phép thì bị coi là hành vi trái pháp luật
hình sự và bị “phạt tiền gấp ba số bạc gian lậu hay định gian lậu và phạt tù
từ sáu ngày đến sáu tháng, hoặc sẽ phải chịu một trong hai thứ hình phạt
ấy” (Điều 8).
- Pháp lệnh số PL/1982 ngày 30/6/1982 của Hội đồng Nhà nước về
trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép. Pháp
lệnh này chưa quy định hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên
giới là tội phạm một trong điều luật riêng mà được quy định chung: "Tội
buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới”, theo đó:
Người nào vận chuyển trái phép hàng hố qua biên giới, thì bị phạt tù từ
một năm đến bảy năm và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp.
Nếu vận chuyển hàng hoá thuộc loại cấm xuất khẩu, nhập khẩu hoặc phạm
tội trong trường hợp nghiêm trọng quy định ở khoản 1, Điều 9 Pháp lệnh
này (Phạm tội có tính chất chun nghiệp hoặc tái phạm; Lợi dụng thiên
tai hoặc chiến tranh để phạm tội; Phạm tội có tổ chức; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà nước hay tổ chức xã hội
để phạm tội; Có hành động chống lại cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ) thì
bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, bị phạt tiền từ ba lần đến năm
lần trị giá hàng phạm pháp, và có thể bị tịch thu một phần tài sản. Phạm tội
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng quy định ở khoản 2, Điều 9 Pháp
lệnh này (Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đến nền kinh tế
quốc dân hoặc sức khoẻ, tính mạng của người khác; Phạm tội gây hậu quả
9
nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng; Phạm tội tập trung nhiều tình tiết
nghiêm trọng) thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân, bị phạt tiền từ năm lần đến mười lần trị giá hàng phạm pháp và
có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Nghị quyết số 68/HĐBT ngày 25/4/1984 của Hội đồng Bộ trưởng
về việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống buôn lậu, chuyển trái phép tiền
và hàng qua biên giới, theo đó nghị quyết đã đề ra những biện pháp cấp
bách để nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu,
chuyển trái phép tiền và hàng qua biên giới…
Trên cơ sở khái quát nêu trên, có thể thấy rằng trong giai đoạn này,
ngay từ khi giành độc lập, Nhà nước ta đã có chính sách hình sự kiên quyết
đấu tranh với các tội phạm về vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới. Trong giai đoạn này, mặc dù khái niệm tội vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới chưa được quy định cụ thể trong văn bản
quy phạm pháp luật nhưng các hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ qua biên giới đều bị xử lý bằng biện pháp hành chính hay hình sự của
Nhà nước. Các quy định về các hành vi phạm tội vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới ở giai đoạn này là chuyển trái phép tiền và hàng
qua biên giới; xuất cảng (xuất khẩu) hàng hóa, tiền tệ trái với quy định của
nhà nước và hàng hóa, tiền tệ chủ yếu là một số loại thực phẩm, nhu yếu
phẩm thiết yếu cho tiêu dùng; vàng bạc, các kim loại quý, đá quý, ngoại
tệ, vật tư kỹ thuật hoặc các loại hàng khác mà Nhà nước cấm buôn bán,
tàng trữ ...
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Dấu mốc lập pháp thể hiện chính sách hình sự nhất qn của Nhà
nước ta đối với các tội phạm nói chung, tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới nói riêng trong giai đoạn này là xây dựng BLHS năm
10
1985. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã ban hành BLHS (được sửa đổi, bổ
sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). BLHS năm 1985 được
ban hành. Đây là một bước tiến quan trọng trong hoạt động lập pháp của
Nhà nước ta, theo đó đã có những quy định hành vi phạm tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, tạo cơ sở pháp lý cho việc
phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với các hoạt động vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Cụ thể BLHS năm 1985 - Điều
97 quy định:
Người nào buôn bán trái phép hoặc vận chuyển trái phép qua biên
giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý hoặc vật phẩm
thuộc di tích lịch sử, văn hố, thì bị phạt tiền đến năm lần giá trị vật phạm
pháp hoặc bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền đến mười lần giá trị vật phạm pháp
hoặc bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: Có tổ chức; Vật phạm pháp
có số lượng lớn hoặc giá trị lớn; thu lợi bất chính lớn; Lợi dụng chiến
tranh; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội; Phạm tội nhiều lần hoặc tái phạm nguy hiểm. Phạm
tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến
hai mươi năm hoặc tù chung thân [9].
Theo quy định của BLHS năm 1985 nêu trên, mặc dù hành vi
phạm tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới không quy
định thành một Điều luật riêng, nhưng với tên tội danh: (Tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hố, tiền tệ qua biên giới) thì nhà làm luật
đã coi hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là tội
phạm độc lập và được xếp vào nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, việc xử lý hình sự đối với hành vi vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ qua biên giới phải trên cơ sở các quy định cụ thể về quản lý
11
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và chính sách tiền tệ của nhà nước. Để có
cơ sở và thuận lợi cho việc xử lý tội phạm này, Hội đồng Bộ trưởng đã
ban hành Quyết định số 193-HĐBT ngày 23/12/1988 về kinh doanh
thương mại và du lịch ở thị trường trong nước và Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng ban hành Chỉ thị số 278/CT ngày 03/8/1990 về việc cấm nhập
khẩu và lưu thơng thuốc lá điếu của nước ngồi trên thị trường trong
nước; Chỉ thị số 330/CT-HĐBT ngày 13/9/1990 về tăng cường quản lý
ngoại hối; Quyết định số 337/HĐBT ngày 25/10/1991 về một số biện
pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian trước mắt....Theo các quy định ở
giai đoạn này, thì hàng hóa, tiền tệ cấm vận chuyển trái phép qua biên
giới là: thuốc phiện và hoạt chất thuốc phiện; vũ khí và một số quân
trang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử; văn hóa và các sản phẩm
văn hóa đồi trụy, phản động; thuốc lá điếu của nước ngồi, ngoại tệ. Ví
dụ như: Chỉ thị số 330-CT ngày 13/9/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng quy định: Việc nhập khẩu vàng do Ngân hàng Nhà nước đảm nhận,
các tổ chức khác chỉ được nhập vàng khi được Ngân hàng Nhà nước cấp
giấy phép. Đồng thời, để hướng dẫn xử lý hình sự đối với một số trường
hợp, ngày 20/11/1990 Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên ngành số
11/TTLN quy định: lần đầu nhập khẩu trái phép thuốc lá điếu nước ngồi
với số lượng dưới 500 bao thì chưa coi là tội phạm nhưng phải bị xử lý
hành chính. Nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 1.500 bao đến dưới
4.500 bao thì coi là phạm tội trong trường hợp hàng phạm pháp có số
lượng lớn; nếu số lượng hàng hóa phạm pháp từ 4.500 bao trở lên thì coi
là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng...
Qua nghiên cứu quy định của BLHS năm 1985 và các văn bản liên
quan, có thể nói rằng các quy định về hành vi phạm tội vận chuyển trái
12
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới đã phát huy vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự quản lý kinh tế, an
toàn xã hội, nhất là khu vực biên giới …Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
BLHS năm 1985 qua các lần sửa đổi, bổ sung cho thấy rằng các quy định
về xử lý tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cũng cịn
những tồn tại, bất cập nhất định. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới thì địi hỏi phải bổ sung một số
tội phạm, trong đó có các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Với yêu cầu
của thực tiễn, ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thơng qua BLHS năm 1999, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000.
Theo quy định của Điều 154 BLHS năm 1999 thì: Người nào vận
chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí
q, đá q có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng
hoặc dưới một trăm triệu đồng; vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hố;
hàng cấm có số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy
định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159,
160 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xố án tích mà cịn vi phạm, nếu khơng thuộc trường hợp quy định tại
các điều 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này thì
bị coi là tội phạm.
Như vậy, so với BLHS năm 1985, điểm mới của BLHS năm 1999 đã
quy định hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thành
một tội danh riêng biệt (Điều 154), được xếp vào nhóm các tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế tại chương XVI BLHS (BLHS năm 1985 quy định tội
phạm này thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia) nhằm đáp ứng yêu
cầu của công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm trong tình hình mới. Đặc
biệt là BLHS năm 1999 đã phân định rõ hành vi phạm tội vận chuyển trái
13
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới với hành vi phạm tội buôn lậu được
quy định tại Điều 153 BLHS năm 1999, theo đó tội bn lậu là hành vi đưa
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trái phép nhằm mục đích bn bán (mua bán
trái phép nhằm mục đích kiếm lời), cịn tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới là hành vi đưa hàng hóa, tiền tệ qua biên giới khơng
nhằm mục đích bn bán. Tuy nhiên, đối với dấu hiệu định khung, mặc dù
nhà làm luật quy định tình tiết “có số lượng lớn”, “có số lượng rất lớn”
trong điều luật nhưng chưa giải thích cụ thể thế nào là có số lượng lớn,
số lượng rất lớn. Thực tế ở giai đoạn này chỉ có Thơng tư liên tịch số
06/2008/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/12/2008 của Bộ
Cơng an, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn việc truy cứu TNHS đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, buôn bán pháo nổ hướng dẫn về định lượng đối với pháo nổ làm
cơ sở cho việc phân định ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành
chính, theo đó pháo nổ có số lượng lớn là từ 10kg đến dưới 50 kg. Đáng
chú ý, BLHS năm 1999 có điểm mới so với BLHS năm 1985 là đã quy định
hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, theo đó người phạm tội có thể bị phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay
BLHS năm 1999 quy định về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ qua biên giới đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm xâm phạm về trật tự kinh tế nói chung và tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ nói riêng. Tuy nhiên, BLHS năm 1999
chưa thể chế hoá được đầy đủ những quan điểm, chủ trương mới của Đảng
và chính sách hình sự của Nhà nước ta, nhất là trong Nghị quyết số 48/NQTW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
14
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là những yêu cầu mới của
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm trong tình hình mới. Đó là cơ
chế thị trường, sự hội nhập sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam đã kéo theo
những tiêu cực nhất định, trong đó có hành vi tội phạm. Vì vậy, ngày
27/11/2015, Quốc hội đã thơng qua BLHS 2015 và sau đó được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2018).
BLHS năm 2015 tiếp tục quy định hành vi phạm tội vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới tại Điều 189 BLHS năm 2015. So với
BLHS năm 1999, về cơ bản cấu thành tội phạm tương tự nhau. Tuy nhiên,
BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây:
Một là, mở rộng hơn phạm vi xác định hành vi vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ bị coi là tội phạm. Đó là việc vận chuyển trái phép hàng
hóa, tiền tệ từ khu phi thuế quan vào nội địa hoặc ngược lại, cũng bị coi là
tội phạm. Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu thì Khu phi thuế quan là khu vực kinh tế nằm trong lãnh thổ Việt
Nam, được thành lập theo quy định của pháp luật, có ranh giới địa lý xác
định, ngăn cách với khu vực bên ngoài bằng hàng rào cứng, bảo đảm điều
kiện cho hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan của cơ quan hải
quan và các cơ quan có liên quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và
phương tiện, hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; quan hệ mua bán, trao đổi
hàng hóa giữa khu phi thuế quan với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập
khẩu. Ví dụ như: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu
bảo thuế, kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương
mại-công nghiệp và các khu vực kinh tế khác được thành lập và được
15
hưởng các ưu đãi về thuế như khu phi thuế quan theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ (Điều 4, Thơng tư 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013
của Bộ Tài chính).
Hai là, quy định pháp nhân thương mại phải chịu TNHS.
Việc quy định pháp nhân thương mại phải chịu TNHS về tội vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là hồn tồn có cơ sở. Bởi
trong thực tế ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều pháp nhân nhằm trốn
thuế xuất nhập khẩu hoặc vì các lý do khác nhau mà có thể vận chuyển trái
phép hàng hóa....qua biên giới. Con người trực tiếp vận chuyển, những
người điều hành pháp nhân thương mại vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền
tệ... khơng có hưởng lợi cá nhân mà hồn tồn vì lợi ích của pháp nhân
thương mại. Như vậy, hành vi của người đại diện nhân danh pháp nhân,
hành vi của người được pháp nhân cho phép, pháp nhân ủy quyền... sẽ
được coi là hành vi phạm tội của pháp nhân. Đây là quan điểm rất mới
trong việc truy cứu TNHS.
Ba là, sửa đổi dấu hiệu định tội, cụ thể hóa các loại hàng hóa, tiền tệ,
quy định bổ sung di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; nâng mức phạt tiền (hình
phạt chính và hình phạt bổ sung); bổ sung mức phạt tiền đối với trường hợp
phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng v.v…
Như vậy, pháp luật hình sự Việt Nam từ khi Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa ra đời cho đến nay, ln coi hành vi vận chuyển trái phép
hàng hóa, tiền tệ qua biên giới là tội phạm. Từ chỗ coi là tội xâm phạm an
ninh quốc gia (BLHS năm 1985) đến nay luật hình sự chỉ quy định là một
trong các tội phạm về kinh tế, đồng thời nội dung, các dấu hiệu của tội
phạm phạm ngày càng được cụ thể hóa như dấu hiệu về các loại hàng hóa,
khu vực phi thuế quan, chủ thể có thể là pháp nhân thương mại v.v...Những
thay đổi trên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đấu tranh chống tội phạm
16
vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.3. Pháp luật hình sự nƣớc ngồi quy định về tội vận chuyển trái phép
hàng hóa tiền tệ qua biên giới.
Pháp luật của một số quốc gia như Liên bang Nga và Trung Quốc…
cũng có các quy định về tội phạm này, tuy nhiên khác với Việt Nam, Bộ
luật hình sự Liên bang Nga cũng như Bộ luật hình sự của Cộng hịa nhân
dân Trung Hoa…. khơng quy định thành tội phạm riêng mà quy định chung
tội phạm này cùng tội buôn lậu.
Tại Điều 188 Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định về tội buôn
lậu như sau:
1. Buôn lậu tức là chuyển một lượng lớn hàng hóa hoặc những vật
khác trái phép qua biên giới quốc gia của Liên bang Nga mà có sự che giấu
hoặc gian lận hải quan bằng cách khai man trong tờ khai hải quan, hay để
trành các biện pháp truy nguyên hải quan khác hay không kê khai hải quan
hoặc kê khai không đủ, không kể những thứ được quy định tại khoản 2 của
điều này thì bị phạt tiền từ 100.000 rúp đến 300.000 rúp hoặc bằng lương
hay bằng thu nhập khác của người bị kết án từ một năm đến hai năm hoặc
phạt tù đến năm năm.
2. Vận chuyển trái phép các chất ma túy, các chất hướng thần, các
chất gây nghiện, các dụng cụ hoặc phương tiện phải chịu sự kiểm tra đặc
biệt được sử dụng để điều chế hay sản xuất các chất ma túy và các chất
hướng thần khác, các chất có tác dụng mạnh các chất có độc lực cao, các
chất để sản xuất các vật liệu gây nổ, các chất phóng xạ, các nguồn phóng
xạ, các vật liệu hạt nhân, vũ khí nóng, bom, mìn, đạn dược, các kỹ thuật
quân sự, cũng như những vật liệu hay phương tiện mà có thể sử dụng vào
việc chế tạo vũ khí sát thương hàng loạt, các phương tiện phụ tùng của
17
chúng, các loại quân trang khác, các thiết bị kỹ thuật quân sự khác mà liên
quan đến những quy định đặc biệt của hai quan Liên bang Nga, những hàng
hóa là nguyên vật liệu chiến lược quan trọng khác hoặc các giá trị văn hóa
mà đã được những quy định hải quan cấm vận chuyển qua biên giới Liên
bang Nga, nếu như hành vi này được thực hiện có sự che giấu kiểm tra hải
quan hay bằng cách gian dối nhằm tránh các phương tiện truy nguyên hải
quan hay không kê khai hải quan cũng như kê khai khơng chính xác thì bị
phạt tù từ ba đến bảy năm có hoặc không kèm theo phạt tiền đến 1 triệu rúp
hoặc bằng lương hay bằng thu nhập khác của người bị kết án đến năm năm
và hạn chế tự do đến 1 năm…
Bộ luật hình sự của nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa sửa đổi bổ
sung năm 1997 cũng quy định về tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua
biên giới. Tại mục 2 chương III tội Xâm phạm trật tự kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa từ Điều 151 đến Điều 157. Tại Điều 151 quy định: “Buôn lậu
vũ khí, đạn dược, nguyên liệu hạt nhân hoặc tiền giả thì bị phạt tù từ 7 năm
trở lên kèm theo phạt tiền hoặc tịch thu tài sản… Buôn lậu các di dản văn
hóa, vàng, bạc hoặc các loại kim loại quý khác, động vật quý hiếm hoặc sác
sản phẩm của chúng bị Nhà nước cấn xuất nhập khẩu thì bị phạt từ từ 5
năm trở lên kèm theo phạt tiền… Buôn lậu các loại thực vật quý liếm hoặc
các sản phẩm của chúng bị Nhà nước cấm xuất nhập khẩu thì bị phaptj từ
từ 5 năm trở lên kèm theo phạt tiền…”
Bộ luật hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa quy định hành vi
cấu thành tội buôn lậu bao gồm hành vi buôn bán, thu mua, vận chuyển
hàng hóa trái với các quy định của pháp luật Hải quan, ngay cả hành vị
thông đồng với người buôn lậu bằng cách cung cấp cho họ các khoản văn,
tiền quỹ, tài khoản, hóa đơn hoặc chứng từ nợ hoặc các điều kiện thuận lợi
khác như phương tiện vận chuyển, kho bãi và dịch vụ bưu điện cũng cấu
thành tội bn lậu với vai trị là đồng phạm.
18
Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật hình sự Liên bang Nga và Bộ luật
hình sự của Cộng hịa nhân dân Trung Hoa không quy định hành vi vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cấu thành tội phạm riêng
biệt, mà quy định người thực hiện hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới sẽ cấu thành tội buôn lậu. Đồng thời, trong BLHS của
Liên bang Nga và BLHS của Trung Quốc quy định hành vi vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới cấu thành tội buôn lậu bao gồm cả ma
túy, vũ khí…
Qua nghiên cứu một số BLHS nước ngoài cho thấy, quan điểm, kỹ
thuật xây dựng pháp luật có thể khác nhau, tùy từng nước mà có cách riêng
xây dựng các CTTP cụ thể.
BLHS Việt Nam năm 2015 đã tách riêng các đối tượng hàng cấm
thành các tội phạm độc lập khác nhau và chỉ coi tình tiết qua biên giới là
tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Đồng thời, quy định hành vi vận
chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới thành tội độc lập trong
BLHS.
19