Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.07 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Kể về món ăn làm em nhớ mãi - Mẫu 1</b>
Ở miền Tây Nam Bộ có một làng nghề rất đặc biệt, đó là làng chuột Phù Dật. Phù Dật thuộc ấp
Bình Chiến, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh Anh Giang. Làng chuột Phù Dật nằm sát bên
dịng kênh Phù Dật rộng lớn, có quốc lộ 91 từ Châu Đốc qua Long Xuyên rồi tỏa rả các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long.
Làng Phù Dật hiện có 664 hộ, trong đó có 300 hộ chuyên sống bằng nghề săn bắt, mua bán chuột
hoặc làm thịt chuột. Nhiều hộ gia đình đã xóa đói giảm nghèo bằng nghề này. Có khơng ít gia
đình đã trở thành triệu phú, tậu thêm ruộng vườn, nuôi con vào Cao đẳng, Đại học bằng nghề săn
bắt chuột, kinh doanh chuột.
"Vua chuột" ở làng Phù Dật là vợ chồng anh Lê Duy Khánh và chị Thu Giang. Anh Khánh vốn
là lính trinh sát của Binh chủng Đặc công; chị Giang nay mới 33 tuổi nhưng đã có thâm niên
trong nghề mua bán chuột hơn 20 năm rồi đó.
Dân nhậu cho biết thịt chuột ngon, đậm, thơm, giòn, bùi, ngọt, bổ dưỡng ... hơn bất kì sơn hào hải
vị nào. Người cao tuổi ăn thịt chuột thì mắt sáng ra,như được truyền thêm sinh khí; các chị ni
con thơ chỉ cần ăn vài đĩa thịt chuột sẽ có nguồn sữa dồi dào, kẻ mới xuất viện về nhà chỉ ăn dăm
bát cháo chuột tất sớm bình phục.
Một tay đầu bếp " thượng hạng" nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu đã tự hào giới thiệu về các món
đặc sản thịt chuột như sau: chuột chiên, chuột xào, chuột bó giị, nướng chao, xào rau răm, bóp
gỏi, chiên vàng nấu canh chua, rô ti nước dừa, hấp nước mắm, hấp nước ngọt, thịt chuột ninh hạt
sen, nhồi sâm với thảo trùng ... . Các món thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng này
cực kì đặc biệt. Trước đây Từ Hi thái hậu cũng chưa từng được thưởng thức; cịn các vị đàn ơng
đa thê, các ả đàn bà góa hồi xuân, chỉ cần nếm qua một lần sẽ " nhớ đời".
Ở quán nhậu vùng Núi Cấm ( An Giang) có món "Trinh nữ kén chồng". Giá ưu đãi cũng phải 100
Bác Sáu Chì, một thương lái trên kênh Vĩnh Tế đã kể cho tôi nghe giai thoại sau: " Một vị quan
tham nọ bụng phệ, có nhiều đất nền trên một số chung cư, đơ thị, có nhiều triệu đơ la gửi ngân
hàng Thụy Sĩ, có một biệt thự ở Vương quốc Anh sương mù, và có nhiều cơ bồ nhí chân dài! Hắn
ta bị sứ giả của Diêm Vương bắt đóng gơng, giải xuống ngục Cửu U. Lúc đưa lên giàn hỏa thiêu
tra tấn, chỉ mới được một lúc, nước mỡ trong bụng hắn trào ra, một mùi thơm xông lên ngào ngạt.
Bọn quỷ sứ cứ đứng há mồm, hít ra hít vào liên tục. Bỗng một con quỷ sứ mắt xanh mỏ đỏ thét
lên: " Tắt lửa! Ngừng thui!" Pháp quan đến gần tên tội đồ, hỏi: " Trên cõi trần , mi ăn chi mà lắm
mỡ rứa, thịt mi thơm rứa?"
Bác Sáu Chì mỉm cười , hỏi tôi:
- Thế chú giáo đã mấy lần đến nhà hàng Núi Cấm thưởng thức món đặc sản thịt chuột " Trinh
nữ kén chồng" và kì tửu " Thiên điệp…."? Cứ nói thiệt đi!
- Bác Sáu ơi! Tiền lương ba cọc ba đồng. Vợ thất nghiệp, còn mẹ già và hai con đang đi học
phổ thông, lấy tiền mơ mà xài cái món đặc sản đó!
- Tui hỏi cho biết thơi! Chứ nhìn cái bộ hiền lành và cù đờ của chú thi tui đã rõ. Chứ bà già năm
nay mấy mươi rồi?...
Trên đây là những điều tôi nghe thấy, nhìn thấy vào tháng 7 năm 2009, khi tơi đến Châu Đốc và
An Giang có chút cơng việc.
Lúc tạm biệt, bác Sáu Chì nắm lấy vai tơi dặn đi dặn lại: "Mùa thi sang năm, chú có vơ đây, thế
nào tui cũng đãi chú món thịt chuột " Trinh nữ kén chồng" một bữa cho đã!...
Bỗng một tiếng hò trong vắt ngân dài cất lên trên dòng kênh:
" Còn non, còn nước, còn dài,
Còn về còn nhớ đến người hơm nay".
Tơi đứng lặng trên bến. Lịng man mác bâng khuâng dõi nhìn con thuyền bác Sàu Chì khuất
dần trên dịng kênh.
Mờ xa trong bóng chiều tím thẫm là ngọn núi Sam, nơi có lăng Thoại Ngọc Hầu và bà Đại phu
nhân Vĩnh Tế.
Gần hết năm rồi. Đi ra chợ, hàng rau – quả – củ…, cứ cách vài bước đã thấy người ta đổ đông
kiệu bán. Đểlàm kiệu, phải có giấm. Thế nên, tơi lại nhớ một “món” mà mẹ hay làm: giấm ni.
Mẹ tơi hay mua chuôi xiêm cho cả nhà ăn. Lâu lâu, tơi thấy mẹ cất riêng ra vài trái, để chín muồi.
Lúc nào như vậy, tôi biết mẹ tôi định làm giấm mới. Trước tiên, mẹ tôi đã chuẩn bị một cái hũ
dung tích khoảng 2 – 3 lít, đã được rửa sạch và thật khô, rồi mẹ tôi cho khoảng nửa xị rượu đế,
nước dừa tươi lọc thật sạch, không có một chút bụi nào vào hũ. Kế đến, mẹ tơi lột vỏ chi, lột
hết những đường chỉ cịn bám thân trái chi, để lộ một lớp cám óng ánh, chi chín có mùi
thơm ngọt thật dễ chịu dễ thèm(nhưng lúc ấy, có thèm cũng khơng được, vì mẹ đã dành làm giấm
mà)
Đoạn, mẹ đặt trái chuối nằm lên mặt thớt (cũng thật sạch và khô), mẹ dùng con dao to bản, ép
nhẹ trái chuối cho dẹp xuống, rồi cho vào trong hũ hỗn hợp nước dừa, rượu trắng để sẵn. Cứ thế,
Độ đơi ba tháng, khi lũ nhỏ chúng tơi qn khy đi mất, thì mẹ kêu chúng tơi vào bếp, mở lớp
giấy báo bọc ngồi hũ ra cho chúng tơi xem. Thích chưa bơi là đà trong hũ là những màng trăng
trắng, mẹ tơi gọi đó là con giấm. Trong khi chúng tơi cịn trịn mắt ngạc nhiên, mẹ đã đưa ngón
tay trỏ lên mơi, ra dấu suỵt như thể ngăn chúng tôi đừng làm ồn, kẻo con giấm kinh động mà biến
mất vậy. Rồi mẹ lại cẩn thận bọc giấy báo lại, cất đi.
Khi mẹ tôi bắt đầu chiết giấm, là chúng tôi biết mẹ đã tính tới làm điệu, làm đồ chua bao nhiêu hũ,
hũ lớn, hũ nhỏ, hũ nào nhà dùng, hũ nào đem biếu. Trước Tết ta độ nửa tháng, mẹ tôi nấu giấm
đường, để nguội rồi rót vào hũ cho ngập kiệu, củ cải (đã được cắt tỉa, phơi nắng). Giấm đường
mẹ tôi nấu khá đặc, làm cho kiệu, củ cải bóng mật, mau chua mà giịn vị đậm đà rất riêng biệt. Ai
ăn dưa kiệu mẹ tôi làm, đều khen ngon, hương giấm khó qn.
Mấy hũ giấm ni ấy tiết kiệm cho mẹ tôi tiền mua chanh. Nhà tôi hay ăn nước – mắm – giấm
hơn là nước – mắm – chanh. Xa mẹ, tơi khơng có thói quen làm giấm, nhiều khi đi mua giấm ở
tiệm, ngửi mùi là chỉcó đổ đi chứ khơng ăn nổi. Và vì thế, tơi lại đổi thói quen ra làm nước mắm
chanh. Nhưng cứ cuối năm ta, chanh thường lên giá, rồi lại cần giấm để làm kiệu, tôi lại nhớ
giấm mẹ tôi ni.
<b>Kể về món ăn làm em nhớ mãi - Mẫu 3</b>
xanh (trộn với lạc), chuối xanh om với đậu phụ, lá tía tơ, khoai sọ (khoai mơn sáp vàng) nấu canh,
đĩa muối vừng (mè) đen, đĩa muối lạc (đậu phụng). Sang nhất là món đậu phụ rán, đậu đũa xào và
đậu phụ kho với nước tương đậu nành.
Thời ấy ở vùng sơn cước và đang chiến tranh, lưu thơng trắc trở, làm gì có các loại nấm, có xì
dầu để chế tác ra những món vừa ngon vừa bắt mắt như cỗ tiệc chay bây giờ. Thế nhưng, khi bày
Từ xa xưa đến giờ, ở đây nhà chùa vẫn làm cỗ chay từ những nguyên liệu tự cung tự cấp. Ấy vậy
mà với chúng tơi hồi đó trừ ba ngày tết thì nằm mơ cũng khơng có được bữa chay như thế. Tuổi
thơ quanh năm vơi các món chủ lực là dưa cà mắm muối. Canh rau muống, cà pháo đạm bạc,
nhưng là hương vị thân thiết của quê nhà, là nỗi nhớ da diết lịng người mỗi lúc đi xa. Những
món ăn dân dã đơn sơ ấy đủ no lòng mát dạ để tuổi thơ chạy nhảy suốt ngày, lớn lên lao động,
học hành thành đạt, nên người.
Sau năm 1975 gia đình tơi hồi hương về Huế, các món chay nhanh chóng trở nên thân thiết và
khối khẩu. Món ăn ngon ngồi bản thân nó cịn nhờ nghệ thuật chế biến và gia vị kèm theo. Món
mặn đã vậy, với các món chay thì gia vị càng quan trọng hơn.
Đặc sản "quê hương tuổi thơ tơi" cũng có bánh đa, bánh đúc. Thưở nhỏ chúng tôi thường ăn bánh
đúc chấm nước mắm, chấm ruốc. Có lần, để đổi món, mẹ tơi làm bánh đúc chấm với nước tương
đậu nành. Trời mùa đông, miếng bánh đúc nóng hổi, mới bốc hơi đã nghe cái mùi nồng nồng của
vôi lẫn trong bột bánh, quyện với mùi hành phi trong chén nước tương đã làm cho cái lạnh tự
nhiên tan biến mất.
Mẹ giải thích: Mùa hè nắng nóng thì ăn bánh đúc với giá đỗ, rau kinh giới, chấm với nước tương
nguyên chất (không cần phải phi hành cho nóng) ăn đến đâu mát đến đó. Miếng bánh đúc màu
trắng đục chấm với tương màu nâu hồng đặc sánh, vừa ngon vừa thân thuộc vô cùng. Xuất thân
trong một gia đình dịng dõi hồng tộc nhưng mẹ tơi rất sành các món dân dã và "hội nhập" rất
nhanh với "đặc sản" vùng sơn cước Nghệ Tĩnh.
nấu với lá lốt mọc um tùm. Mẹ đã bày cho tôi theo chỉ dẫn từ câu "Canh mít ưa dùng sân với
lốt/Bí ngơ thì phải tỏi gia vào",…
Khi gia đình đã về Huế, tơi cịn học đại học ở Vinh. Mỗi lần về nghỉ hè, nghỉ tết tôi xách theo
Tơi hỏi vì sao tương Huế có hương vị khác tương Nam Đàn, vốn đã nổi tiếng, từ lâu đã được đưa
vào "từ điển" dân gian: "Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn". Bà cười nói, chẳng có bí quyết gì
cả, cái chính là ở tay người làm. Hồi ở Hà Nội có lần bà cũng đã hỏi một người chuyên làm
tương bán buôn, vì sao cũng tương Bần mà có người làm ngon có người làm khơng ngon? Bà này
trả lời: Làm quan có mả, ngả tương có tay. Ngồi Bắc người ta gọi là ngả tương, nén cà. Nén cà
cũng phải có tay thì mới vừa độ mặn và trắng, giịn. Nhà chùa có cái tâm thanh tịnh, thư thái nên
làm gì kết quả cũng mãn nguyện, chuyện chế tác các món chay cũng như thế.
Tơi nghĩ rằng ngon ít ngon nhiều cịn tùy thuộc khẩu vị, sở thích mỗi người. Tương Nam Đàn
hương vị khác tương Huế, tương Bần nhưng kể về số lượng thì đầu bảng. Khong có vùng q nào
tương nhiều như ở Nam Đàn và nhút nhiều như ở Thanh Chương. Cà pháo cũng khơng có nơi
nào vừa ngon vừa giòn vừa nhiều như ở xứ Nghệ. Nguyên Ngọc nói núi Ngọc Linh, ở Quảng
Nam, có mỏ đá mài đủ dùng cho một trăm cuộc khởi nghĩa. Bài "Trường ca cây cà" của Phùng
Quán kết thúc bằng hai câu: "Tổ quốc ta đủ cà đủ muối/Đủ đất nung một ngàn chiếc vại". Nhưng
đó là cách nói khiêm tốn trong thi ca. Có lần trên chiếu rượu Phùng quán hào sảng: Đất Nghệ
Tĩnh có dư cà ăn để đánh thắng mười thằng đế quốc, thực dân xâm lược. Người xứ Bắc có câu
"Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương". Bên cạnh cà pháo (quả nhỏ)
người nơng dân cịn chọn cà dừa (quả lớn) dầm tương để ăn quanh năm bốn mùa.
nhà làm dịch vụ, sản phẩm du lịch phong phú, nhà hàng đặc sản mọc ra như nấm. Nhưng hồi đó
mới mở cửa, đổi mới được vài năm, đáp ứng được yêu cầu này quả không dễ.
Tôi phải mất không dưới ba lần ngồi thiết kế tour và lên thực đơn mới tạm ổn. Ngày thứ ba cạn
nguồn. Buổi sáng tơi dẫn cả đồn sang cầu Đơng Ba ăn cháo gạo với cá bống kho rim. Ai không
hợp khẩu vị thì ăn xơi, cũng với cá bống và tơm rim khơ cứng. Ai ăn chay thì dùng xơi với muối
mè, muối đậu phụng, uống sữa đậu nành.
Hôm ấy du thuyền về Cồn Hến, Bao Vinh rồi ngược lên thăm chùa Thiên Mụ và điện Hịn Chén
nên buổi trưa tơi thiết kế bánh chưng Nhật Lệ ăn với dưa món, bánh mỳ kẹp chả, hoặc mỳ bơ cho
người ăn chay, thâm xâu nem – tré lai rai trên thuyền. Tráng miệng thì dùng Thanh Trà và khế
ngọt mua ngay trong vườn một nhà người quen ở Nguyệt Biểu. Buổi tối, kết thúc tour ba ngày
bằng bữa cơm chay. Đó là "bữa cơm chay nhớ đời" như lời phát biểu cảm tưởng của các vị khách
Việt Kiều sau khi chắp tay vái, nói lời cám ơn và chào tạm biệt sư cơ trụ trì.
Anh bạn tơi năn nỉ mãi tơi mới lên chùa Hương Sơn cậy nhờ Ni sư Minh Bổn lo giúp. Bữa cơm
chay đãi khách nên có vài món giả mặn: Chả giò, chả quế nem rán, thịt gà xé, thịt heo quay, cá
thu sốt cà chua. Còn lại cũng đến gần chục món là đồ chay nguyên bản, chay đúng nghĩa với cái
thanh tịnh làm đầu: Đậu phụ chiên vàng, ớt đỏ, cơm trắng, rau xanh luộc chín chấm tương
hồng… Món nào cũng đậm đà, mát ngọt lạ thường. Rau muống chẳng cần mắm nêm, rau cải
chẳng cần nước mắm nhĩ, đậu phụ chẳng cần ruốc thơm… Nước chấm chủ lực vẫn là tương và xì
dầu nhưng nhìn mâm cỗ tưởng như thấy cả tinh khí đất trời tụ họp cả ở đây. Các sư cơ như có
phép lạ. Qua bàn tay vàng của họ các món ăn dân dã nào cũng đều trở thành đặc sản, thành ngự
thiện, dù có gia thêm tơm, thịt, trứng, ốc, hến… thì cũng chỉ ngon được đến thế mà thôi. Tất
nhiên, tôi phải dặn trước anh bạn, vì rất q tơi nên các cô mới làm giúp bữa tiệc chay này.
Nhưng các ông không được uống bia, mà chở theo xe thùng nước khoáng và thùng Coca Cola.
Phải sắm một mâm trái cây thật đẹp mắt, trước khi dùng bữa phải lên chính diện dâng hương
đảnh lễ Phật.
Ăn chay từ xa xưa đã là một đặc sản của Huế. Nghệ thuật chế biến các món ăn chay ở Huế trở
thành một đỉnh cao là nhờ vai trị "thủ đơ Phật giáo" của Huế. Các chúa Nguyễn, vua Nguyễn lấy
Phật giáo làm Quốc giáo, cả Hoàng tộc nhà Nguyễn theo đạo phật. Cả một tầng lớp quý tộc từ
sành đến "nghiện" ăn chay. Khơng những chỉ có các tu sĩ Phật giáo ăn chay mà trong các gia đình
<b>Kể về món ăn làm em nhớ mãi - Mẫu 4</b>
Làng Thổ Hà lưu luyến du khách không chỉ với bánh đa nem mềm mại, bánh đa vừng giòn thơm,
mỳ gạo sợi trắng muốt, mà còn khiến những ai đã qua muốn ghé thêm lần nữa vì những nụ cười.
Trẻ con gặp người lạ nhe những chiếc răng sún làm duyên trước ống kính máy ảnh, chị bán hàng
nước đon đả mời khách ngồi bên quầy hàng dưới gốc đa, và nếu có nhu cầu được hỏi về xuất xứ
của những chiếc bánh đa giòn rụm đang cầm trên tay, những cụ già trong làng không ngần ngại
mời bạn ghé vào gia đình họ, nhìn họ tráng bánh, quạt bánh trên những lò than hồng rực.
Nổi tiếng với các sản phẩm chum, vại, chõ, tiểu sành với thứ men nâu bóng, gốm Thổ Hà theo
chân những nhà bn qua sông Cầu đến mọi miền đất nước. Cùng thăng trầm của lịch sử, đến
Thổ Hà hôm nay, người ta chỉ bắt gặp dấu tích của một làng gốm cổ truyền ở những bức tường
được dựng bằng những mảnh chum, vại, tiểu sành, kết dính bằng lầm, một thứ đất đặc biệt, sau
bao năm vẫn vững chãi cùng thời gian.
Từ bến đò đặt chân đến đất làng Thổ Hà, gặp ngay ở chợ làng Thổ Hà những chị ngồi bán hàng
mời khách ăn chè, mua bánh đa vừng. Đi sâu vào trong làng, chống ngợp bởi màu trắng lóa của
những phên tre phơi bánh đa nem, bánh đa vừng. Trong cái nắng đầu hè, nhà nhà phơi bánh.
Bánh đa nem nay được tráng bằng máy, mỏng dính, được phơi trên những tấm phên hình chữ
nhật dài. Sau khi phơi khơ, từ tấm đa nem lớn này sẽ được cắt thành từng tấm trịn, hay vng,
rồi mới đóng gói. Trước sân chùa, sau những phên tre phơi bánh, bọn trẻ đang nghịch nước, hồn
nhiên khoe với khách lạ về nghề tráng bánh đa nhà mình.
Thổ Hà đơng trẻ con. Cả làng có đến mấy nhà trẻ, sân đền sâu trong làng cũng là nơi trơng trẻ.
Bọn trẻ quen với việc làng có khách, vơ tư tạo dáng trước ống kính. Một cháu bé khi được hỏi về
món ăn bé đang ăn ngon lành trên tay, khơng ngần ngại mời cơ món ăn “đặc sản” nơi đây: bánh
đa nem xào bột ớt chấm nước mắm cay ngọt.
Làng Thổ Hà nhiều ngõ, những ngõ hẹp sâu hun hút, nhà cửa san sát. Những bức tường có lẽ đã
có hàng trăm năm tuổi. Muốn vào phải gọi cửa thật lớn vì ở Thổ Hà thú vị là nhà nào cũng…
ni chó. Người làng thấy khách qua, cười hiền, nói cứ đi lại thoải mái, chó không dữ. Giữa 1h
trưa, giờ nghỉ của mọi nhà, nhưng khi bước vào một gia đình phơi nhiều bánh đa vừng trước cửa,
tôi vẫn nhận được nụ cười niềm nở của chú chủ nhà. Tay không ngớt đảo những phên bánh cho
đều nắng, chú Trịnh Đắc Hạnh, người tráng bánh đời thứ 5 của gia đình nói cho tơi cách thế nào
để có được những chiếc bánh đa ngon, khách ăn một lần rồi nhớ mãi, cần gạo, lạc, vừng ra sao,
phơi nắng thế nào để bánh không bị cong, vỡ.
Không ngại ngần kể với tôi những nhọc nhằn của nghề làm bánh đa truyền thống của gia đình,
chú Hạnh nói, về chất lượng, bánh đa Thổ Hà chẳng kém ở đâu, vì nguyên liệu là nguyên chất,
không hề pha trộn. Rồi chỉ cho tôi không gian nhỏ bé của gia đình nhưng được tận dụng mọi diện
tích để tráng bánh, phơi bánh, quạt bánh, chú cũng thật thà chia sẻ: “Nhiều khi cũng e ngại vấn đề
vệ sinh, nhưng căn bản cũng vì làng mình chật quá…”