Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Thực trạng nhu cầu giáo dục của người cao tuổi quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THỰC TRẠNG NHU CẦU GIÁO DỤC </b>


<b>CỦA NGƯỜI CAO TUỔI QUẬN NAM TỪ LIÊM </b>



<b>VÀ BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI</b>



Lê Thị Thanh Hà1
<b>Tóm tắt: Trong xu thế già hóa dân số và đổi mới giáo dục đáp ứng sự phát </b>


triển của xã hội, giáo dục cho người cao tuổi đã được Đảng và Nhà nước chú
trọng và triển khai trong thực tiễn bằng chương trình hành động học tập suốt
đời giữa Hội khuyến học và Hội người cao tuổi. Thông qua điều tra này để
nghiên cứu thực trạng nhu cầu về giáo dục của người cao tuổi trên địa bàn
hai quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Từ điều tra thực
trạng phân tích được xu hướng và nhu cầu giáo dục cụ thể của từng nhóm
đối tượng người cao tuổi, phục vụ cho thiết kế chương trình giáo dục dành
riêng cho người cao tuổi thiết thực, hiệu quả.


<b>Từ khóa: người cao tuổi, nhu cầu giáo dục, điều tra, quận Nam Từ Liêm, </b>


quận Bắc Từ Liêm.


<b>1. Mở đầu</b>


Giáo dục và học hành ở bất cứ đất nước nào cũng được xem trọng. Việt Nam
là đất nước có nền văn hiến lâu đời, và có những thơng điệp đặc sắc về văn hóa và
giáo dục. Nguyễn Trãi (1380-1442) người anh hùng dân tộc, nhà văn hoá lớn của
Việt Nam từng nhắc nhở: “Nên thợ nên thầy vì có học/No ăn no mặc bởi hay làm”,
điều này xuất phát từ ý tưởng xây dựng nền giáo dục lao động gắn “học với làm”.
Ông Thượng Chi (1892 - 1945), một nhà văn hoá Việt xuất sắc từ những thập niên
đầu của thế kỷ XX đã có lời bàn: “Cái nợ khác có thể trả được. Cái nợ “học” là cái
nợ chung thân”. Điều ông muốn nói có trong thơng điệp là “Học suốt đời”. Sinh ra


và sống trên đời, mỗi người đều có cái “nợ đời”, muốn làm người xứng đáng với
đời thì phải học để trả món nợ này. Chính vì vậy “cái nợ học là cái nợ chung thân”.


1 NCS. Đại học Sư phạm Hoa Đông Trung Quốc;


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Minh triết sống phương Đông thường căn dặn cho con em bốn điều: “Tu - Tề - Trị -
Bình” (tu dưỡng bản thân, lo liệu cho gia đình n vui phát đạt, biết hành động góp
phần làm cho đất nước hưng trị, thiên hạ thái bình). Để làm được bốn điều trên thì
phải học. Theo UNESCO, bốn trụ cột của giáo dục bao gồm: học để biết (Learning
to know), học để làm (Learning to do), học để tự khẳng định (Learning to be) và
học để cùng chung sống (Learning to live together). Trên một số sách báo khoa học
giáo dục nước ta hiện nay có các thơng điệp như: Giáo dục thường xuyên - Đào
tạo liên tục - Học tập suốt đời. Thơng điệp này có hàm ý u cầu con người không
ngừng làm cho bộ ba “con tim, đôi tay, bộ óc” bản thân được hồn thiện để thích
ứng với cuộc sống đang phát triển mạnh mẽ. Thực tế trên thế giới, nhiều nước như
Canada, Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Singapore, v.v... đều đã có kế hoạch
xây dựng xã hội học tập từ những năm 70 và 80 của thế kỷ trước. Từ những thông
điệp trên mà khái niệm “học tập suốt đời” và “xây dựng xã hội học tập” ở nước ta
có lẽ khởi nguồn từ đó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Bác Hồ
đã mong muốn dân ta ai cũng được học hành và Bác cũng đã yêu cầu người biết
chữ dạy cho người chưa biết chữ - đây chính là bước khởi đầu của việc xây dựng
một xã hội học tập để mọi người đều được học tập. Song song với việc xoá mù
chữ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngành giáo dục nước ta đã mở ra hệ thống học tập
khơng chính quy dành cho người lớn tuổi, cho người nghèo, cho con em tầng lớp
lao động. Khắp nơi trên đất nước, hàng loạt các trường phổ thông lao động, các
trường bổ túc công nông, bổ túc văn hố, vừa học vừa làm đã hình thành và đem
lại quyền được học hành cho mọi người dân, mà trước đấy trong lịch sử phát triển
giáo dục nước ta chưa từng bao giờ có được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hội học tập”. Mục tiêu quan trọng và cuối cùng của phát triển giáo dục ở nước ta


hiện nay chính là xây dựng một nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân.
Xây dựng xã hội học tập suốt đời là một trong những chiến lược then chốt của giáo
dục nước ta trên con đường đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo do Đảng khởi
xướng từ cuối thế kỷ trước và nó sẽ đóng vai trị rất quan trọng trong thế kỷ XXI.
Bước vào thế kỷ XXI, ở nước ta việc xây dựng xã hội học tập là để đảm bảo được
việc học tập suốt đời của mọi người, có nghĩa là đảm bảo nhu cầu hoàn thiện của
từng thành viên trong cộng đồng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự bình đẳng
về giáo dục và đào tạo. Có thể coi đây là một quan niệm về triết lý giáo dục xây
dựng con người mới thông qua giáo dục nhân bản, tô đậm bản sắc dân tộc và khai
phóng con người Việt Nam mới bằng việc học suốt đời trong xây dựng xã hội học
tập với việc coi giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Học tập
suốt đời trong xã hội học tập là tạo cơ hội bình đẳng trong giáo dục để từng thành
viên trong xã hội có đủ điều kiện và cơ hội tự hồn thiện mình, nâng cao chất lượng
cuộc sống của chính mình, của gia đình, họ tộc, thơn, xóm và cả xã hội. Như vậy,
có thể nói học tập suốt đời là một quan niệm triết lý giáo dục mới, là nhu cầu về sự
hoàn thiện của mỗi người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nền kinh
tế thị trường với một thị trường lao động luôn biến động theo sự phát triển nhanh
của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và đem lại cơ hội bình đẳng về giáo dục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tập về truyền thống lịch sử của dân tộc, văn hóa địa phương, v.v... đã huy động hàng
triệu lượt người ở các độ tuổi, các tầng lớp xã hội khác nhau tham gia.


Hai Hội Người cao tuổi và Hội Khuyến học đã có chương trình phối hợp hành
động từ năm 2003 đến năm 2005 để thực hiện chủ trương của Đại hội IX: “Đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy
và khơng chính quy, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã
hội học tập”. Trong đó có nội dung: “động viên và tạo điều kiện để người cao tuổi
phát huy truyền thống ham học hỏi, nêu gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo thơng
qua các hình thức học và tự học phù hợp”. Đến năm 2013, chương trình phối hợp
hành động xây dựng xã hội học tập suốt đời giữa Bộ Giáo dục – Đào tạo, Hội


Khuyến học Việt Nam, Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Người cao tuổi Việt Nam
vẫn đề cao vai trò của người cao tuổi trong giáo dục, với phong trào gia đình hiếu
học, dịng họ hiếu học, cộng đồng khuyến học: “động viên tham gia biên soạn tài
liệu, giảng dạy và học tập tại các trung tâm học tập cộng đồng, mở rộng giao lưu
học hỏi lẫn nhau qua các câu lạc bộ của người cao tuổi”. Tại các trung tâm học tập
cộng đồng, nội dung học tập rất phong phú và thiết thực, từ nuôi trồng thủy lợi, cho
đến dân số, bảo vệ thai sản, phòng chống tệ nạn xã hội, v.v. cho nhiều đối tượng
khác nhau, tập trung người nghèo và dân tộc thiểu sổ. Năm 2018, chương trình
hành động giữa Hội Khuyến học Việt Nam và Hội Người cao tuổi có nội dung:
“góp phần phát triển có hiệu quả, thiết thực các Trung tâm học tập cộng đồng, các
hình thức học tập từ xa, mở nhiều loại hình học tập cho người cao tuổi, xây dựng
mạng lưới học tập trên địa bàn dân cư cả nước“, thể hiện sự chuyển biến lớn trước
diễn biến già hóa, các nội dung học tập phù hợp với người cao tuổi được chú trọng.


<b>2. Thiết kế nghiên cứu</b>


Quận Nam Từ Liêm được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày
27/12/2013 của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để
thành lập 02 quận và 23 phường thuộc thành phố Hà Nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

thị hóa nhanh và mạnh mẽ trong các quận, huyện thuộc thành phố, với nhiều dự
án trọng điểm đã và đang được triển khai. Quận Bắc Từ Liêm hiện có 13 phường,
được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2013 của
Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương,
Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên
và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân
khẩu của thị trấn Cầu Diễn. Quận Bắc Từ Liêm có diện tích 4.335,34 ha (43,35
km²), dân số 320.414 người.


Xuất phát đều là huyện Từ Liêm (cũ), quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm đều


có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, mang đặc trưng của nền văn minh sông
Hồng rực rỡ và gắn liền với những thăng trầm lịch sử của đất Thăng Long – Hà Nội
ngàn năm văn hiến. Phát huy những truyền thống tốt đẹp đó, Đảng bộ, chính quyền
và các tầng lớp nhân dân hai quận đang vững bước trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, từng bước xây dựng quê hương trở thành đô thị văn minh, giàu
đẹp, tiếp tục có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp chung của Thủ đô Hà
Nội và đất nước, trở thành đô thị sạch - xanh - hiện đại của Thủ đơ Hà Nội.


Để có thể tiến hành các hoạt động và đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời,
các địa phương tiến hành khảo sát nhu cầu học tập. Đối với người cao tuổi, để có
thể thu hút nhóm đối tượng này tham gia mạnh mẽ cần hiểu rõ những gì họ mong
muốn. Người cao tuổi quan tâm tới gì? Có sẵn sàng tham gia giáo dục với các điều
kiện về sức khỏe, tài chính, hay hồn cảnh cá nhân khơng? Nghiên cứu được tiến
hành đối với nhóm người cao tuổi trên địa bàn hai quận, với 120 phiếu trưng cầu ý
kiến về nhu cầu giáo dục dành cho người già, cùng với phỏng vấn sâu một số đối
tượng ngẫu nhiên. Trong một tháng, phiếu phát ra 120 và thu về được 112 phiếu
hợp lệ, đạt tỷ lệ 93,3%. Phiếu gồm ba phần: phần các yếu tố cơ bản của đối tượng
nghiên cứu, phần hiểu biết và mong muốn cơ bản của người cao tuổi về giáo dục,
phần các nội dung khảo sát về nhu cầu giáo dục gồm 9 nhóm nhu cầu:


- Nhu cầu giáo dục về ăn uống dưỡng sinh;


- Nhu cầu giáo dục về phòng chống các bệnh nguy hiểm, bệnh mãn tính,
thường thức phịng bệnh;


- Nhu cầu giáo dục về các vấn đề kinh tế, kinh doanh và các hoạt động ngân
hàng, bảo hiểm;


- Nhu cầu giáo dục về văn hóa, xã hội, giải trí vui, khỏe, có ích;
- Nhu cầu giáo dục về các vấn đề chính trị, thời sự;



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Nhu cầu giáo dục về tâm lý tuổi già;


- Nhu cầu giáo dục về các chế độ bảo hiểm xã hội dành cho người cao tuổi;
- Nhu cầu giáo dục về quản lý tài chính gia đình.


Ngồi chín nhóm nhu cầu giáo dục cơ bản, trong phiếu cịn có thăm dị các
hoạt động thường ngày người cao tuổi đã và đang tham gia. Việc tham gia các hoạt
động này cũng thể hiện những nhu cầu mà người cao tuổi đang tự thực hiện cho
bản thân mình. Việc này cho thấy thực trạng và xu hướng về nhu cầu giáo dục của
họ. Một số những đặc điểm bản thân cho thấy sự ảnh hưởng tới nhu cầu giáo dục
cụ thể nào đó.


Quy trình nghiên cứu: trong địa bàn quận, thơng qua phát phiếu tới từng nhóm
người cao tuổi ở khu đô thị, ở tổ dân phố, ở thôn, xóm. Một tiêu chí lựa chọn là các
cụ tham gia phải trên 60 tuổi để đảm bảo tiêu chuẩn người cao tuổi và đã nghỉ hưu
(nếu là người có đi làm).


Cơng cụ nghiên cứu: sau khi thu thập phiếu trả lời, một số phiếu (8/120) không
hợp lệ do người trả lời chưa đủ 60 tuổi và có người nhận phiếu nhưng khơng có
tham gia trả lời vì lý do khách quan. Số hợp lệ 112 phiếu được xử lý thống kê mô
tả bằng phần mềm SPSS.


<b>3. Kết quả và phân tích</b>


Đối tượng người cao tuổi trả lời phiếu là các cụ đã nghỉ hưu hoặc trên 60 tuổi,
bao gồm các cụ trước khi nghỉ hưu đã từng là cán bộ quản lý chiếm 17%, công
chức viên chức chiếm 32,1%, công nhân chiếm 25%, nông dân chiếm 15,2%, các
cụ đã từng làm các nghành nghề kinh doanh, tự do khác chiếm 10,7%. Trong tổng
số 112 người trả lời, nam giới và nữ giới xấp xỉ bằng nhau, tỷ lệ lần lượt là 50,9%


và 49,1%. Trình độ học vấn từ đại học đến sau đại học chiếm số lượng lớn 53,6%,
trung cấp, cao đẳng chiếm 25,9%, học vấn mức phổ thông chiếm 20,5%. Thời gian
về hưu trong khoảng 5 năm (các cụ trong độ tuổi 60 – 64 tuổi) chiếm 33% số lượng
đối tượng trả lời phiếu, thời gian về hưu từ 5 năm đến 10 năm (các cụ 65 – 70 tuổi)
chiếm 51,8%, còn lại về hưu trên 10 năm đến 15 năm (các cụ trong khoảng tuổi
71 – 75 tuổi) chiếm 15,2%.


Với tổng số 112 phiếu thu về được tiến hành phân nhóm đối tượng, phân tích
và thống kê đem lại một số những kết quả tổng quan:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

gia Hội Khuyến học chiếm số ít 3,6% thì mức tham gia Hội Người cao tuổi đạt
tuyệt đối 100% số người tham gia trả lời. Đối với mục đích điều tra, để xem xét
nhu cầu giáo dục của những đối tượng không trực tiếp làm công tác khuyến học sẽ
mang tính khách quan nhiều hơn. Về chương trình học tập suốt đời, với tỷ lệ cán bộ
quản lý, công chức viên chức về hưu chiếm gần một nửa đối tượng thì hiểu biết về
chương trình này thơng qua sách báo, ti vi, phát thanh tuyên truyền đạt tỷ lệ biết và
có nghe nói đều là 35,7%. Tuy nhiên, có tới 22,3% các cụ cho biết khơng quan tâm
tới chương trình này, cho rằng đã nghỉ hưu, đây là những việc lớp trẻ đang cơng
tác thực hiện. Với việc đi học có đóng phí, 100% khơng ai muốn đi học, cho dù có
nhu cầu. Với việc đi học miễn phí, số người tình nguyện tham gia các loại hình đào
tạo chiếm 37,5%. Nhóm đối tượng thiết tha với việc đi học khi tuổi cao nằm trong
nhóm có học vấn phổ thông và trung cấp, cao đẳng.


Thứ hai, nội dung quan trọng về điều tra nhu cầu giáo dục được tổng hợp theo
bảng dưới đây, thể hiện nhu cầu của người cao tuổi.


<b>Bảng tổng hợp nhu cầu giáo dục của người già theo một số nội dung</b>


<b>Thứ tự</b> <b>Nội dung</b> <b>Tỷ lệ (%)</b>



1 Nhu cầu giáo dục về văn hóa, xã hội, các chương trình giải trí vui,


khỏe, có ích 59,8


2 Nhu cầu giáo dục về phịng chống các bệnh nguy hiểm, bệnh mãn


tính, thường thức phịng bệnh 38,4


3 Nhu cầu giáo dục về các chế độ bảo hiểm xã hội dành cho người


cao tuổi 34,8


4 Nhu cầu giáo dục về công nghệ hiện đại (máy tính, điện thoại thơng


minh, rơ bốt…) 29,5


5 Nhu cầu giáo dục về tâm lý tuổi già 19,6


6 Nhu cầu giáo dục về ăn uống dưỡng sinh 19,6


7 Nhu cầu giáo dục về các vấn đề kinh tế - kinh doanh, các hoạt


động ngân hàng, bảo hiểm 11,6


8 Nhu cầu giáo dục về quản lý tài chính gia đình 8,9
9 Nhu cầu giáo dục về các vấn đề chính trị - thời sự 7,1


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nhu cầu giáo dục về phòng chống các bệnh nguy hiểm, bệnh mãn tính, thường
thức phịng bệnh đứng thứ hai trong bảng xếp hạng với 38,4%. Cơ thể người già
đồng nghĩa với q trình lão hóa và sức đề kháng kém. Những kiến thức về các loại


bệnh của tuổi già, bệnh theo mùa, bệnh nguy hiểm luôn luôn là những tư liệu mang
bên mình của các cụ. 30,4% các cụ cho rằng hàng tuần có buổi chuyên đề hoặc 1
tháng đi học vài ngày để nâng cao kiến thức phịng chữa bệnh, học cách chăm sóc
người bệnh với chuyên gia, bác sỹ rất hữu ích.


Nhu cầu giáo dục về các chế độ bảo hiểm xã hội dành cho người cao tuổi
chiếm 34,8%. Những chế độ xã hội dành cho người già, chế độ bảo hiểm xã hội
mới, những chế độ bảo hiểm y tế với những thay đổi liên tục. Với 100% đối tượng
trả lời là các cụ tham gia Hội Người cao tuổi và các nhóm hội khác (Hội Cựu chiến
binh, Hội Phụ nữ, v.v...) thì các chính sách được chia sẻ rất nhanh. Tuy nhiên, để
hiểu đúng và thực hiện được chính sách, thì cần được tun truyền và phổ biến bởi
các nhà quản lý hoặc quản lý chun mơn để đảm bảo chính xác và tin cậy, khơng
bỏ sót quyền lợi của các cụ. Chỉ có 16,1% các cụ tham gia cơng tác xã, phường, thì
điều kiện tiếp cận và phổ biến chính sách cịn hạn chế.


Nhu cầu giáo dục về công nghệ hiện đại (máy tính, điện thoại thơng minh, rơ
bốt, v.v...) chiếm 29,5%. Thời đại khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, những tiện
ích mà cuộc sống hiện đại mang lại, giảm thiểu sự đi lại, dịch vụ phục vụ tận nhà
khiến cho tuổi già nhàn nhã hơn. Trùng hợp là tỷ lệ mong muốn học qua mạng cũng
đạt 29,5%. Thông qua mạng, các cụ bày tỏ kết nối và giao lưu dễ dàng vượt qua
những trở ngại về tuổi tác, nghề nghiệp, thu nhập, v.v... hơn nữa còn gần gũi với
con cháu hơn, bắt nhịp với cuộc sống hiện đại và cảm thấy mình trẻ trung. Trong
điều tra có 25% các cụ sống 1 mình, với phương thức liên lạc hiện đại giúp giảm
bớt cơ đơn rất nhiều. Với những khóa học về công nghệ mới, các cụ bày tỏ sự hào
hứng và có cảm giác thành tựu khi nắm bắt được cách sử dụng một công cụ hiện
đại. Với các cụ là công chức và cán bộ quản lý nghỉ hưu, đa phần có trình độ đại
học và sau đại học, việc nắm bắt thao tác được công nghệ hiện đại giúp đỡ rất nhiều
trong cuộc sống: theo dõi chính sách, thời sự, cập nhật các kiến thức y tế, dưỡng
sinh, ca hát, thể thao, v.v... Đây cũng là lý do nhóm người cao tuổi này khơng đặt
mối quan tâm nhiều vào học tập tập trung lúc tuổi già.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

internet để tham khảo thường có sự trợ giúp từ con cháu, người thân nhằm đảm bảo
mức độ tin cậy cao. Tuy nhiên vẫn muốn có một khóa học bài bản khi muốn thực
hiện đầu tư hoặc quản lý tài chính có hiệu quả, cổ phiếu và bảo hiểm là hai vấn đề
thu hút cao.


Thứ ba, thông qua phát triển những sở thích của người cao tuổi, làm phong
phú hơn đời sống của cá nhân và đời sống xã hội của các cụ. Trong điều tra, một
số những sở thích cá nhân và hoạt động xã hội của người già cho thấy: các cụ ông
đều tham gia một hoạt động thể thao vận động một cách thường xuyên, các cụ bà
đảm nhận việc nhà và cả hai giới giúp con chăm sóc cháu. Trong đối tượng trả lời,
chỉ có 13,4% các cụ tham gia các cơng tác xã hội, song sở thích đi du lịch chiếm
tỷ lệ cao: thường xuyên chiếm 56%, thỉnh thoảng khi có điều kiện chiếm 21%. Do
đó, giáo dục cho người cao tuổi dựa vào những sở thích và nhu cầu của họ mới có
cơ sở để phát triển, từ đó làm phong phú thêm đời sống xã hội của người già.


<b>4. Bàn luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>5. Kết luận</b>


Sự nghiệp giáo dục cho người cao tuổi với các sự nghiệp cơng ích xã hội khác có
vai trị như nhau, thể hiện được sự quan tâm và tham gia của xã hội, thể hiện trình độ
văn minh của xã hội đó. Vì thế, với sự chỉ đạo tích cực từ Nhà nước, khích lệ tồn xã
hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục dành cho người cao tuổi. Nghiên cứu nhu cầu
giáo dục cho người cao tuổi hai quận Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm cho thấy thực trạng
nhu cầu giáo dục của người già chưa cao. Nguyên nhân: thứ nhất, mặt bằng dân trí và
phát triển ở địa bàn tương đối cao so với các địa phương khác. Thứ hai, hiện nay tình
hình già hóa ở nước ta chưa thực sự gây áp lực đến mọi mặt của đời sống xã hội do ta
vẫn còn trong thời kỳ dư lợi dân số. Trong tương lai, việc nghiên cứu nhu cầu giáo dục
của người cao tuổi vẫn tiếp tục, để các địa phương trên cả nước có những chiến lược phát


triển phù hợp. Thơng qua điều tra có thể xây dựng chương trình và đội ngũ huấn luyện
phù hợp với nhu cầu và tâm sinh lý người cao tuổi, tăng cường thông qua các phương
tiện truyền thông tuyên truyền về giáo dục cho người già, mang lại cho các cụ hoặc
tương lai là lớp người kế cận một tuổi già an dưỡng, vui, khỏe, có ích.


<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Bộ Giáo dục & Đào tạo – Hội khuyến học Việt Nam – Hội Cựu giáo chức Việt
Nam – Hội Người Cao tuổi Việt Nam, số 766/BGDĐT-HKHVN – HCGCVN
– HNCTVN, Hà Nội ngày 19 tháng 6 năm 2013.


2. Hội Khuyến học Việt Nam – Hội Người Cao tuổi Việt Nam, Chương trình phối hợp
về đẩy mạnh học tập suốt đời trong gia đình, dịng họ, cộng đồng giai đoạn 2018 –
2021, số 10/CTPH – HKHVN – HNCVN, Hà Nội ngày 17 tháng 01 năm 2018.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 29/NQ-TW, ngày 4/11/2013 “ Về đổi


mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế„.


4. Nguyễn văn Tuân, “Nghiên cứu giá trị sống của người già Việt Nam „ Luận
án Tiến sỹ tâm lý học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học khoa học xã hội và
nhân văn, Hà Nội 2016.


5.
/>


6.
/>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>THE STATUS OF EDUCATION NEEDS OF OLDER ADULTS </b>


<b>IN NAM TU LIEM DISTRICT WITH BAC TU LIEM DISTRICT, </b>




<b>HA NOI.</b>



Le Thi Thanh Ha1
<b>Abstract: In the trend of population aging and education reform to meet </b>


development of society, education for the older adults has been paid
attention by the Party and the State in practice with the life – long learning
program between the Vietnam Association fon Promoting Education the
Vietnam Association of Hu Elderly. Through this survey to study the current
status of education needs of the ederly in Nam Tu Liem District and Bac Tu
Liem District, Hanoi. From the current situation analysis analyzes the specific
trends and education needs of each group of elderly people, it serves the
design of education programs for elderly people practically and effectively.


<b>Keywords: older adults, elderly people, education needs, Nam Tu Liem </b>


District, Bac Tu Liem District.


1 Ph.D. Student of East China Normal University;


Lecturer of the Faculty of Social Science, National Academy of Public Administration;
Email: ;


</div>

<!--links-->

×