Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIÊU THỤ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TẠI PHÒNG KINH DOANH CTY SX-XNK XE ĐẠP XE MÁY HN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.16 KB, 18 trang )

một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ thành
phẩm tại phòng kinh doanh cTy SX-xnk xe đạp xe máy HN

3.1. Nhận xét về kế toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả
tiêu thụ tại phòng Kinh doanh công ty SX-XNK xe đạp xe máy Hà
Nội
3.1.1.1. Đánh giá chung
Công ty sản xuất xe đạp, xe máy Hà Nội đợc thành lập vào năm 1995,
trong thời gian qua Công ty đã không ngừng lớn mạnh và trởng thành về mọi
mặt. Sản phẩm của Công ty chiếm lĩnh hầu hết thị trờng phía Bắc. Cái tên xe
đạp LIXEHA chắc hẳn không còn xa lạ với mọi ngời.
Để có đợc những thành tựu đó không phải là điều dễ dàng đối với Công ty, đặc biệt khi nền kinh
tế bớc sang cơ chế thị trờng. Đã có lúc Công ty tởng chừng phải đi đến chỗ phá sản, có lúc phải tách ra,
nhập vào, nhng hiện nay Công ty vẫn không ngừng lớn mạnh và đứng vững trên thị trờng. Đó là cố gắng
rất lớn của bộ máy quản lý công ty SX-XNK xe đạp, xe máy Hà Nội, trong đó, cũng cần phải nói tới vai
trò của bộ máy kế toán. Với những thông tin cung cấp, kế toán là một công cụ không thể thiếu đ ợc trong
công tác quản lý của công ty SX XNK xe đạp, xe máy Hà Nội. Việc tổ chức bộ máy kế toán tập trung
của Công ty là hoàn toàn phù hợp với điều kiện sản xuất tập trung và điều kiện kế toán chủ yếu còn làm
thủ công nh công ty. Công ty đã tuyển chọn đội ngũ cán bộ kế toán có trình độ chuyên môn vững vàng, có
tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình và gắn bó với Công ty. Đáp ứng với sự phát triển không ngừng trong
quản lý kinh tế, cũng nh các chuẩn mực kế toán, mọi cán bộ của Phòng kế toán luôn tự hoàn thiện mình,
tự giác học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để hạch toán đúng chế độ kế toán. Nhờ vậy,
công tác kế toán tại các phần hành kế toán là tơng đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho công tác quản trị kế
toán nói riêng và công tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung đợc tốt.
- Hiện nay, hệ thống chứng chứng từ kế toán ban đầu đợc quy định đâỳ đủ, khoa học, không
chồng chéo đáp ứng đợc việc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty.
- Hệ thống sổ sách đang áp dụng hiện nay theo hình thức nhật ký chứng từ, nhìn chung Phòng kế
toán đã sử dụng đúng mẫu quy định của bộ tài chính, bên cạnh đó có những thay đổi sáng tạo để phù hợp
với tình hình thực tế của công ty. Do vậy, hệ thống sổ sách( chi tiết và tổng hợp) đợc mở chi tiết để vừa
đảm bảo phản ánh đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kế toán vừa tiện cho việc tra cứu, đối chiếu, kiểm tra.
Các Báo cáo kế toán đợc lập theo đúng mẫu quy định của Bộ TàiChính và đợc lập đúng thời hạn


để nộp cho các cấp có thẩm quyền.
Việc phản ánh các nghiệp vụ kế toán phát sinh tại công ty bảo đảm tính kịp thời, chính xác, dễ
hiểu. Các chỉ tiêu kế toán phải đảm bảo tính thống nhất về phạm vi và phơng pháp tính.
Tuy vậy, mọi vấn đề đều có tính chất hai mặt của nó. Bên cạnh những u điểm
đã đạt đợc, công tác quản lý, công tác kế toán của công ty vẫn còn một số
những tồn tại nhất định.
* Những tồn tại:
1
1
Trớc xu thế hội nhập và phát triển, để bắt kịp với tiến độ phát triển
không phải là một việc làm dễ dàng đối với mọi doanh nghiệp, do nhiều những
nhân tố khách quan và cả chủ quan, công tác hạch toán tại xí nghiệp vẫn con
những vấn đề cha thực sự hợp lý, cụ thể:
Tại phòng kế toán của công ty đã có sử dụng máy vi tính, song công tác
hạch toán chủ yếu là tổng hợp các bộ phận. Công việc hạch toán thực sự vất vả
lại chủ yếu tại các Phòng hạch toán độc lập , nhất là tại phòng kinh doanh xe
đạp lại chỉ đợc làm thủ công bằng tay. Do vậy tại công ty nói chung và phòng
kinh doanh xe đạp nói riêng cha tận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để làm
giảm bớt khối lợng công việc của kế toán viên.
Về công tác tổ chức hạch toán tại công ty nh trên nói là tơng đối hoàn
thiện, tuy nhiên việc hạch toán khâu này còn phụ thuộc nhiều vào khâu khác
điển hình là khâu hạch toán giá thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm còn phụ
thuộc rất lớn vào tiến độ của kế toán giá thành. Bên cạnh đó, việc tổ chức kế
toán còn bị dồn vào cuối tháng, cuối kỳ hạch toán, công việc hạch toán không
đợc dải đều trong tháng dẫn đến tình trạng công việc ứ đọng sang tháng sau mới
làm hết.
2. Nhận xét quá trình hạch toán tiêu thụ thành phẩm và xác định kết quả tiêu thụ tại Phòng kinh doanh xe đạp,
công ty SX-XNK xe đạp xe máyHN
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thông
qua tiêu thụ, giá trị và giá trị sử dụng của thành phẩm đợc thực hiện, đơn vị kinh

doanh thu hồi vốn bỏ ra. Cũng chính trong giai đoạn này bộ phận giá trị mới đ-
ợc sáng tạo trong khâu sản xuất đợc thực hiện và biểu hiện dới hình thức lợi
nhuận. Đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển
vốn nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung, đồng thời góp phần thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhận thức tầm quan trọng của khâu tiêu thụ và
xác định kết quả tiêu thụ nên kế toán cũng nh lãnh đạo phòng đều quan tâm đến
khâu tiêu thụ mà kế toán tiêu thụ là một yếu tố cấu thành.
Từ thực tế thực tập tại Phòng kinh doanh xe đạp và từ lý luận đã đợc
trang bị có sự so sánh, phân tích em xin trình bày một số nhận thức về công tác
tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ tại đây:
2.1. Ưu điểm
2
2
- Việc luân chuyển chứng từ ở phòng kinh doanh xe đạp tơng đối gọn nhẹ và
hợp lý.
- Công tác kế toán chi tiết thành phẩm đợc thực hiện chi tiết, chặt chẽ, có sự
phối hợp, đối chiếu, trao đổi giữa kế toán thành phẩm với các thủ kho, nhân
viên giao hàng đại lý, nhân viên bán hàng tại quầy. Thông qua sổ sách, kế toán
thành phẩm theo dõi sự biến động của thành phẩm và phản ánh đày đủ các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Kho thành phẩm luôn đợc theo dõi chặt chẽ về số l-
ợng cũng nh chất lợng thành phẩm, đặc biệt về chất lợng. Trớc khi nhập kho,
thành phẩm phải đợc kiểm tra, đủ tiêu chuẩn mới đợc nhập kho, trớc khi bán
cũng đợc kiểm tra, không đủ tiêu chuẩn sẽ quay thành phẩm về tái sản xuất.
Thành phẩm đợc phân loại theo kho tạo điều kiện cho việc quản lý hiệu quả
hơn, việc xuất hàng nhanh chóng. Với nhiều loại thành phẩm, việc nhập , xuất
kho thành phẩm lại diễn ra liên tục nên việc mở sổ chi tiết thnàh phẩm cho từng
loại xe là hết sức cần thiết giúp ban lãnh đạo Phòng đa ra những quyết định
quản lý và kinh doanh phù hợp.
- Kế toán tiêu thụ thành phẩm tại phòng kinh doanh xe đạp đáp ứng đợc
yêu cầu đặt ra. Mọi nghiệp vụ kinh tế liên quan đến tiêu thụ thành phẩm đều đ-

ợc phản ánh trên sổ sách, chứng từ kế toán một cách đầy đủ, trung thực, hợp lý,
rõ ràng, dễ hiểu. Việc theo dõi tình hình tiêu thụ đòi hỏi phải chi tiết, cụ thể.
Thành phẩm xuất tiêu thụ đợc theo dõi cho từng thành phẩm, từng kế hoạch sản
xuất thông qua bảng kê nhập xuất tồn, hàng hoá dịch vụ bán ra.
- Việc quản lý tình hình thành phẩm bán lẻ là chặt chẽ, có sự đối chiếu
chéo giữa thủ kho với nhân viên bán hàng, nhân viên bán hàng với ngời phụ
trách tình hình bán lẻ thụ tại quầy, giữa nhân viên bán hàng với kế toán doanh
thu. Sự kiếm soát này, vừa theo dõi lợng hàng bán tại quầy, giá bán có đúng với
giá qui định, vừa kiểm soát tình hình tiêu thụ bán lẻ tại quầy.
- Giá trị hàng xuất bán đợc hạch toán theo phơng pháp nhập trớc xuất trớc
phản ánh đúng doanh thu và chi phí, tính tới sự biến động của thị trờng.
- Tiền hàng thanh toán đợc theo dõi chi tiết cho từng khách hàng là
phòng kinh doanh luôn nắm vững tình hình thanh toán của khách hàng.
- Thủ tục mua và thanh toán hợp lý nhanh gọn, đảm bảo cho khách hàng
nhận hàng trong thời gian ngắn nhất.
3
3
- Công tác xác định kết quả tiêu thụ đợc thực hiện đúng theo chế độ qui
định hiện hành một cách chính xác kịp thời, đáp ứng yêu cầu quản lý và giúp
cho ban lãnh đạo đa ra những phơng án tốt nhất nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
- Công ty SX-XNK xe đạp xe máy Hà Nội áp dụng hình thức hạch toán là
Nhật Ký Chứng từ, nên cá phòng trực thuộc trong đó có Phòng Kinh Doanh xe
đạp cũng hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo hình thức nhật ký
chứng từ. Hình thức này áp dụng phức tạp khó thực hiện bằng máy tính. Tại
Phòng kinh doanh xe đạp, kế toán có những đổi mới tiện lợi hơn cho việc hạch
toán của công ty. Tại đây, bảng kê số 8 đợc thay thế bằng Bảng Cân Đối Số Phát
Sinh Cuối Quý. Với bảng này công việc của kế toán sẽ vất vả hơn rất nhiều so
với lập bảng kê số 8, vì thực chất bảng kê số 8 là một phần nhỏ trong BCĐSPS
( bảng cân đối số phát sinh cuối quý). Nhng đây là bảng tổng hợp tình hình sản

xuất kinh doanh của Phòng Kinh doanh xe đạp , căn cứ hữu hiệu để lập báo cáo
tài chính. Đây là một điểm thay đổi rất sáng tạo của kế toán tại phòng kinh
doanh.Tuy nhiên, bên cạnh những u điểm trên, công tác kế toán tiêu thụ thành
phẩm và xác định kết quả tiêu thụ vẫn còn một số hạn chế cần đợc hoàn thiện
và cải tiến nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, công tác
kế toán thúc đẩy quá trình tiêu thụ thành phẩm, tối đa hoá lợi nhuận.
3.1.2.2. Những mặt còn tồn tại
-Vấn đề 1: Công tác hạch toán thành phẩm
Nhìn chung công tác hạch toán thành phẩm tại phòng kinh doanh xe đạp
đáp ứng đầy đủ những nguyên tắc của hạch toán chi tiết thành phẩm đã nêu ở
phần một. Tuy nhiên, để giảm bớt công tác ghi chép và mở sổ, kế toán chỉ mở
một sổ chi tiết thành phẩm cho tất cả các loại xe, cuối tháng kế toán hạch toán
tổng số hàng đã xuất bán và tính giá từng lô hàng. Đây là tồn tại dẫn đến việc
hạch toán giá vốn thành phẩm xuất bán bị dồn đến cuối quý, làm chậm quá
trình làm quyết toán. Do tại phòng kinh doanh có số lợng kế toán ít, nên kế toán
thành phẩm kiêm luôn cả kế toán giá thành khối lợng công việc nhiều nên việc
hạch toán nh trên là không tránh khỏi.
- Vấn đề 2 Về công tác kế toán giá vốn hàng bán
Về việc tính giá vốn hàng bán theo phơng pháp nhập trớc xuất trớc tại
phòng Kinh doanh nhìn chung có nhiều u điểm, nó phản ánh thực chất giá vốn
4
4
từng lô hàng xuất bán, tuy nhiên việc tính toán phức tạp đòi hỏi nhân viên kế
toán phải có trình độ chuyên môn cao. Do kế toán thành phẩm kiêm luôn kế
toán giá thành nên trong kỳ kế toán chủ yếu hạch toán quá trình nhập vật t, phụ
tùng, xuất phụ tùng, khung lắp xe, cuối tháng mới tính gía thành thành phẩm
nhập kho rồi mới tính đợc giá vốn hàng xuất bán. Giá vốn hàng xuất bán đợc
hạch toán riêng cho từng loại xe nhng chỉ đợc hạch toán tổng số chứ không đợc
hạch toán theo từng lô hàng xuất bán. Tất cả các loại xe đợc hạch toán chung
vào một sổ thành phẩm. Với cách làm này vẫn phản ánh đúng tổng giá trị giá

vốn hàng xuất bán cuối kỳ tuy nhiên khó theo dõi và khó kiểm soát việc hạch
toán giá. Hơn nữa công việc dồn vào cuối kỳ, việc xác định kết quả tiêu thụ sẽ
chậm sang cả tháng sau.
Vấn đề 3 Về cách lập số doanh thu và sổ chi tiết số 3- DT và kết quả
Ưu điểm: Với sổ doanh thu và mẫu chi tiết số 3, Công ty có thể theo dõi
đợc đầy đủ, kịp thời các khoản doanh thu phát sinh, phản ánh đợc doanh thu của
sản phẩm riêng, nửa thành phẩm (HH) riêng...
Hạn chế: Sổ chi tiết số 3 doanh thu và kết quả không phản ánh doanh
thu riêng cho từng loại xe. Vì vậy, không thể xác định kết quả riêng cho loại xe.
Các khoản giảm trừ doanh thu và giá vốn của từng loại xe cũng không phản ánh
đợc ngay trên sổ này mà phải mở sổ chi tiết hàng bán bị trả lại để theo dõi.. Vì
cha áp dụng sổ chi tiết bán hàng theo hình thức sổ mới, kế toán phải mở ba sổ
riêng để theo dõi tình hình doanh thu. Rõ ràng là sẽ tăng thêm chi phí cho việc
mở sổ sách và ghi chép.
- Vì do doanh thu tiêu thụ phụ tùng , nửa thành phẩm và doanh thu khác
là không nhiều nên kế toán phản ánh tất cả vào TK 511. Việc hạch toán nh vậy
sẽ đẩy kết quả tính toán đó phản ánh không đúng thực tế kết quả tiêu thụ thành
phẩm của Phòng kinh doanh.
Vấn đề 4: Tình hình khách hàng chiếm dụng vốn của công ty
Việc theo dõi công nợ của phòng kinh doanh là chặt chẽ và chi tiết. Các
khoản nợ đợc theo dõi bởi một kế toán riêng qua hệ thống sổ chi tiết đối với
từng khách hàng, cuối kỳ, kế toán tổng hợp trên một sổ công nợ chung đối
chiếu lại với sổ quỹ các khoản đã thanh toán, và sổ doanh thu các khoản công
nợ phát sinh. Với việc hạch toán nh vậy, kế toán phản ánh rất chi tiết tình hình
thanh toán công nợ của khách hàng, và luôn nắm đợc số tiền nợ. Tuy vậy tình
5
5
hình công nợ mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép và phản ánh, ban lãnh đạo phòng
cha có nhiều biện pháp để thúc đẩy quá trình thanh toán. Doanh số tiêu thụ từ
bán thành phẩm không nhỏ nhng Phòng không có vốn tiền mặt để luân chuyển

vì vốn ứ đọng trong công nợ là quá lớn. Nguồn vốn bị khách hàng chiếm dụng
chiếm hơn 35% tổng doanh thu, cha kể phần doanh thu trả chậm. Đây là một
hạn chế đối với quá trình sản xuất kinh doanh, không có tiền mặt không mua đ-
ợc phụ tùng vật liệu với giá rẻ, làm tăng giá thành sản phẩm dẫn đến doanh
nghiệp khó có thể giảm giá trong khi lãi ít , nếu phải tăng gía thì doanh thu
giảm
Vấn đề 5: Về tập hợp và phân bổ CPBH và CP QLDN
- Nhìn chung Công ty đã phản ánh tơng đối đầy đủ các khoản CPBH và
CP QLDN phát sinh. Tuy nhiên không mở tài khoản cấp 2 để theo dõi chi tiết
từng yếu tố trong tổng chi phí. Từ đó không biết đợc chi phí VL, CCDC,
KHTSCĐ... chiếm tỷ trọng là bao nhiêu trong tổng CPBH và CP QLDN để có
những phân tích hợp lý.
- Hơn nữa không phân bổ riêng chi phí cho từng hoạt động, cho từng sản
phẩm tiêu thụ và cho từng loại xe cho nên không xác định đợc kết quả tiêu thụ
cho từng loại xe. Thêm vào đó, tiện cho việc hạch toán một số khoản thực chất
là chi phí bán hàng, nhng kế toán phản ánh vào chi phí quản lý doanh nghiệp,
làm cho chi phí quản lý doanh nghiệp lớn trong khi chi phí bán hàng nhỏ. Việc
không phản ánh thực chất chi phí bán hàng làm cho ngời quản lý không nhận
biết thực chất chi phí bán hàng phát sinh, khó có biện pháp để tối thiểu hoá chi
phí. Có rất nhiều khoản chi phí bán hàng có thể tìm cách giảm bớt để nâng cao
hiệu quả của công tác tiêu thụ nh: chi phí vận chuyển , bốc dỡ hàng tiêu thụ
Vì không phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng
sản phẩm tiêu thụ nên cũng không phân bổ chi phí này cho hàng tồn kho. Đây
là một trong những chỉ tiêu cho thấy hiệu quả của quản lý, nếu có chi phí tính
trên từng thành phẩm nhà quản lý sẽ dễ đánh giá tình hình chi phí phát sinh là
hợp lý hay không, từ đó sẽ có những quyết định, biện pháp để giảm chi phí.
Hơn nữa ta thấy chi phí quản lý doanh nghiệp là lớn, thực chất đó là do phần chi
phí bán hàng đợc hạch toán vào chi phí quản lý. Chi phí cho tiêu thụ là lớn, nhất
là chi phí vận chuyển hàng tiêu thụ. Tại Phòng kinh doanh chỉ có duy nhất một
chiếc xe tải loại nhỏ để vận chuyển hàng. Khi có nhiều đơn đặt hàng Phòng

6
6
phải thuê xe ngoài để vận chuyển, quãng đờng xa, giá thuê rất đắt nhng vì chữ
tín, để cung cấp hàng kịp thời khách hàng phòng phải chấp nhận.
Vấn đề 6: Các hoạt động xúc tiến tiêu thụ
Hoạt động tiêu thụ thành phẩm tại công ty thông qua chủ yếu mạng lới
đại lý bán buôn từ lâu năm, và một quầy bán lẻ tại công ty. Các hoạt động xúc
tiến tiêu thụ hầu nh không có, sản phẩm chỉ đợc chào bán bởi các nhân viên
giao hàng đại lý, các nhân viên của công ty mà cha đợc quảng cáo rầm rộ trên
các phơng tiện thông tin đại chúng. Các đợt khuyến mại giới thiệu sản phẩm ít,
chính sách giảm giá hàng bán chỉ đợc áp dụng cho một số ít thành phẩm giảm
chất lợng do để lâu không bán đợc. Ngoài việc có một chính sách giá hợp lý
công ty không có một chính sách về giá nào để tăng lợng thành phẩm tiêu thụ.
Bị chiếm dụng vốn lớn, nhng phòng không có khoản chiết khấu thanh toán hay
chiết khấu thơng mại để khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh
Vấn đề 7: Về việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng
nợ phải thu khó đòi
Trên thực tế, để hạn chế bớt những thiệt hại và chủ động hơn về tài chính
trong trờng hợp xảy ra rủi ro do các nguyên nhân khách quan nh: Giảm giá
hàng tồn kho, thất thu các khoản nợ phải thu từ khách hàng, Nhà n ớc cho
phép các doanh nghiệp lập các khoản dự phòng giảm giá chứng khoán, dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi để phần nào giảm bớt
những rủi do đó. Về thực chất các khoản dự phòng là quyền lợi về mặt tài chính
của doanh nghiệp. Về phía doanh nghiệp, nếu dự phòng thực sự xẩy ra thì đó là
nguồn bù đắp thiệt hại, hơn nữa tăng chi phí, giảm lãi, vì vậy thuế phải nộp sẽ ít
đi, điều này có lợi cho doanh nghiệp. Còn nếu lập dự phòng rồi mà không xảy
ra thì doanh nghiệp hoàn nhập dự phòng vẫn đảm bảo cân bằng giữa doanh thu
và chi phí. Phòng kinh doanh xe đạp có mạng lới tiêu thụ rộng khắp miền Bắc,
việc thu nợ của khách hàng là khó khăn. Trong khi lợng thành phẩm tồn kho
cũng không ít, nhiều phụ tùng nhanh bị xuống mã dẫn đến phải tái chế. Vì vậy,

Phòng kinh doanh nên lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng nợ phải
thu khó đòi với một mức hợp lý vào cuối mỗi niên độ kế toán.
7
7

×