Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Thi hành các quy định về các quyền dân sự cơ bản trong Hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.07 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC QUYỀN DÂN SỰ CƠ BẢN </b>


<b>TRONG HIẾN PHÁP 2013 </b>



<i><b>ThS. Đậu Công Hiệp </b></i>
<i><b>Trường Đại học Luật Hà Nội </b></i>
<b>Đặt vấn đề và câu hỏi nghiên cứu </b>


<i><b> Hiến pháp 2013 ra đời đánh một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển về cả tư tưởng, </b></i>


quan niệm lẫn cơ chế bảo đảm và thúc đẩy quyền con người449<sub>, trong đó có các quyền dân sự </sub>


cơ bản. Tuy nhiên, để những điều đó có thể lan tỏa và tồn tại với một hiệu lực thực sự thì
động thái được mong chờ đầu tiên đó là các cơ quan nhà nước phải ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật cụ thể hóa chúng. Từ khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực đến nay đã gần 5
năm, đó là một quãng thời gian tuy chưa dài nhưng cũng không hề ngắn để quay lại xem xét
và đánh giá hiệu quả cũng như mức độ đầy đủ của những quy định cụ thể hóa hiến pháp. Đó
là cơ sở cho việc đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm thi hành một cách hiệu quả hơn các quy
định của hiến pháp về quyền dân sự cơ bản. Với vấn đề đó, câu hỏi nghiên cứu được hướng
<i>tới trong bài viết này là: làm thế nào để nâng cao hiệu quả thi hành các quy định về quyền </i>


<i>dân sự cơ bản trong Hiến pháp 2013 trên cơ sở xem xét, đánh giá các văn bản quy phạm </i>
<i>pháp luật hiện hành có liên quan? </i>


<b>Đối tượng nghiên cứu </b>


Để giải quyết được câu hỏi nghiên cứu trên, đối tượng chủ yếu được hướng tới là các quy
định về quyền dân sự cơ bản trong Hiến pháp 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành có liên quan. Về mặt học thuật, các quyền con người có thể được phân loại theo lĩnh
vực, mà trong đó có nhóm quyền dân sự, chính trị450<sub>. Tuy vậy để xác định cụ thể đâu là quy </sub>


định về quyền dân sự cơ bản trong Hiến pháp 2013 cần có sự bóc tách rõ ràng hơn. Sự phân


chia các quyền thành nhóm quyền dân sự và nhóm quyền chính trị cũng có tính tương đối.
Chẳng hạn đối với quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do biểu đạt, nếu đối tượng được biểu
đạt liên quan đến chính trị (quan điểm chính trị) thì cũng có thể coi là thuộc quyền chính trị.
Hay ngược lại, quyền tự do hội họp nhưng với mục đích dân sự thì lại có thể coi là quyền
dân sự. Tuy nhiên, xét về bản chất, cách phân chia các quyền thành nhóm quyền chính trị và
nhóm quyền dân sự như trên theo chúng tơi là có cơ sở. Sở dĩ có thể khẳng định điều đó là
vì, quyền dân sự, hay civil rights, có thể hiểu thực chất là quyền cá nhân. "Civil" trong tiếng
Anh xuất phát từ "civilis" trong tiếng La-tinh451<sub>, có nghĩa là cá nhân, cá thể, hay công dân. </sub>


Tức là quyền dân sự sẽ gắn với chủ thể là một cá thể độc lập. Ngược lại, quyền chính trị, hay
political rights lại gắn với quyền của nhóm, đám đơng, hay nhiều người. Vì danh từ chính trị,
politics, xuất phát từ tiếng Hy Lạp là "πολιτικός", với nghĩa "πόλι" ("poli" - nhiều, nhiều
người) và "τόκος" ("tokoc" nghĩa là lợi ích)452<sub>. Như vậy, quyền chính trị sẽ bao hàm nghĩa </sub>


quyền của nhiều người. Do đó, xét về mặt bản chất ngơn ngữ, có thể thấy, việc phân chia
quyền theo quan điểm nêu trên là hợp lý vì nhóm quyền dân sự chỉ bao gồm những quyền
liên quan trực tiếp tới từng cá nhân, cịn nhóm quyền chính trị là nhóm quyền được thực hiện


449<sub> Theo: Thái Vĩnh Thắng, Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992, </sub>


Truy cập ngày 12/09/2018.


450<sub> Nguyễn Đăng Dung, Vũ Cơng Giao, Lã Khánh Tùng, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb </sub>


Đai học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 62.


451<sub> Joseph Esmond Riddle, A complete English-Latin dictionary for the use of colleges and schools, printed by </sub>


A.Spottiswoode, London, 1838, trang 53.



452<sub> Mai Văn Thắng, "Chính trị" và "Politics" </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

bởi một tập thể người. Thật vậy, các quyền hội họp, lập hội hay tham chính đều phản ánh
hoạt động của nhóm đơng người trong khi các quyền về tự do thân thể, tự do tư tưởng lại gắn
liền với chủ thể là từng cá nhân độc lập. Vì vậy, chúng tơi cho rằng các quy định về quyền
dân sự trong Hiến pháp 2013 có thể kể tới bao gồm các điều từ 19 đến 26. Nội dung cụ thể
của chúng sẽ được xét tới ở phần sau. Tiếp theo, về khía cạnh các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan, cần định hình rõ về phạm vi nguồn luật được sử dụng trong nghiên cứu. Có
thể thấy hiện tượng ban hành tràn lan các văn bản quy phạm pháp luật đang gây ra tình trạng
mà xã hội vẫn quen gọi là "rừng luật". Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu và thực hiện, cần có
giới hạn cụ thể nhằm tránh việc phải xử lý một khối lượng văn bản quá lớn mà vẫn đảm bảo
được việc xem xét, đánh giá vẫn sẽ cung cấp được một bức tranh tương đối tổng thể và đầy
đủ về vấn đề liên quan. Theo chúng tôi, giới hạn cho phạm vi văn bản có thể dừng ở mức
nghị định của chính phủ là hợp lý. Thật vậy, nghị định của chính phủ là cấp văn bản đầu tiên
dưới luật, vừa là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa của luật, vừa là sản phẩm của quá trình ủy quyền
lập pháp từ quốc hội lại vừa là kết quả của việc thực hiện quyền lập quy của chính phủ453. Do
đó, nghị định của chính phủ phản ánh đầy đủ và rõ nét định hướng lớn của bộ máy hành pháp
trong việc điều chỉnh một hay một nhóm quyền. Vì đơn giản rằng văn bản cấp thơng tư chỉ
có tính chất cụ thể hóa và làm rõ về mặt thủ tục cho nghị định. Vì vậy, nguồn luật cho việc
hệ thống hóa pháp luật về quyền con người dừng lại ở mức nghị định là hợp lý. Tóm lại, đối
tượng nghiên cứu của bài viết này là các quy định tại điều 19 đến 24 của Hiến pháp 2013 và
những văn bản liên quan với hình thức là luật và nghị định.


<i><b>Phương pháp nghiên cứu </b></i>


Với đối tượng nghiên cứu hoàn toàn là các văn bản quy phạm pháp luật, đề tài sử dụng
một số phương pháp sau. Đầu tiên là phương pháp thống kê được dành cho việc tập hợp và
rà soát những văn bản, quy định có liên quan. Tiếp theo là phương pháp so sánh, trong đó
trọng tâm là với Cơng ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR) để thấy được những
điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm cũng như quy định pháp luật ở Việt Nam và


thế giới. Cuối cùng là phương pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ tính hiệu quả, đầy đủ, kịp
thời của việc thể chế hóa quy định về quyền dân sự cơ bản trong Hiến pháp 2013 và đưa ra
những khuyến nghị cần thiết nhằm nâng cao chúng.


<i><b>Logic nội tại của nghiên cứu </b></i>


Các phương pháp nghiên cứu nói trên được triển khai trên một mạch logic nội tại. Đầu
tiên, để bắt đầu triển khai nghiên cứu cần có sự tập hợp những văn bản thuộc đối tượng
nghiên cứu và rà soát chúng. Sau đó, đối tượng nghiên cứu được xử lý bằng phương pháp so
sánh, phân tích để thấy được hiệu quả và mức độ đầy đủ của chúng. Cuối cùng, các vấn đề
đó được tổng hợp lại thành các nội dung mang tính tổng quát hơn để từ đó đưa ra phương
hướng, khuyến nghị hồn thiện pháp luật. Tuy nhiên, quay trở lại vấn đề đối tượng nghiên
cứu, ta lại thấy nhóm quyền dân sự hàm chứa rất nhiều khía cạnh khác nhau. Do đó khó có
thể tiến hành từng bước trên với tất cả các quyền cụ thể. Vì thế để đảm bảo kết cấu, bài viết
sẽ tiến hành nghiên cứu với từng quyền trong số đó. Cụ thể, logic của nghiên cứu sẽ được
triển khai tuần tự mỗi quyền, từ quyền sống, quyền bất khả xâm phạm.v.v.


<i><b>Công cụ nghiên cứu </b></i>


Một đặc điểm chung toát ra từ logic nội tại trên đó là việc nghiên cứu đối với các quyền
khác nhau sẽ được tiến hành một cách giống nhau. Tức là vẫn trải qua các bước thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp. Vì vậy, để tránh sự trùng lặp, công cụ nghiên cứu được áp dụng
chung cho mỗi quyền sẽ được trình bày trước. Cụ thể ở đây là về công cụ để đánh giá việc


453<sub> Dương Thanh Mai, Quyền lập pháp, lập quy và ủy quyền lập pháp theo Hiến pháp 2013, Kỷ yếu hội thảo khoa </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thi hành quy định của Hiến pháp 2013 về các quyền dân sự cơ bản. Phải nói rằng, việc xây
dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh nhằm đảm bảo và thúc đẩy quyền con người được coi là
<i>một “nghĩa vụ chủ động”</i>454<sub> của nhà nước. Vì vậy, đánh giá thi hành quy định của Hiến pháp </sub>



2013 cũng chính là đánh giá sự chủ động đó. Theo chúng tơi, có một số cơng cụ đánh giá:
- Tính đầy đủ và cân đối


Khi nhìn tính thống nhất của pháp luật dưới góc độ một chỉnh thể, bất cứ sự khuyết thiếu
nào về quy định đều không thể đảm bảo tính thống nhất của nó. Nhìn nhận dưới góc độ này,
yêu cầu đảm bảo sự đầy đủ và cân đối của các quy định pháp luật là rất quan trọng. Khi đánh
giá tính đầy đủ, cần đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế nói chung cũng như các văn bản
pháp luật sẵn có nói riêng. Đặc biệt, trong lĩnh vực quyền con người, việc các nhà nước có
thiện chí thúc đẩy, bảo đảm quyền con người hay không phần nào phản ánh trong việc khung
pháp lý về quyền con người có được nhà nước đó xây dựng đầy đủ hay khơng.


- Tính kịp thời


Đáp ứng nhu cầu của xã hội trong từng giai đoạn, từng bối cảnh là một trong những điều
cần thiết của pháp luật. Với thực tế là tình hình xã hội, kinh tế, chính trị hiện nay đang có
nhiều sự biến đổi với tốc độ ngày càng được gia tăng, các nhu cầu về xây dựng hệ thống
pháp luật, đặc biệt là nhu cầu hưởng thụ quyền cũng phát triển với tốc độ lớn. Đặc biệt, trong
tương lai gần (tới 2030, tầm nhìn 2030) một trong các xu hướng lớn của vấn đề quyền con
<i>người, đó là: “Xu hướng tiếp tục xây dựng, hồn thiện thể chế, thiết chế bảo đảm quyền con </i>


<i>người theo hướng dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa với sự tham gia tích cực của các </i>
<i>tổ chức xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu cao hơn việc bảo đảm các tiêu chuẩn nhân quyền </i>
<i>quốc tế khi đất nước đã chuyển sang nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung </i>
<i>bình”</i>455<sub>. Rõ ràng rằng xu hướng này đặt ra địi hỏi nhà nước phải kịp thời đưa ra các văn bản </sub>


pháp luật cụ thể hóa quy định của hiến pháp và đó được coi như một tiêu chí quan trọng
nhằm đánh giá năng lực của nhà nước.


- Tính dễ tiếp cận



Với một hệ thống pháp luật dễ tiếp cận, người sử dụng nó có thể giảm bớt các chi phí và
gánh nặng, qua đó đem lại cả hiệu quả về kinh tế. Xem xét dưới một góc độ quyền, một nhu
cầu đang được đặt ra đó là việc tiếp cận cơng lý. Nó đã và đang được công nhận như một
quyền con người456<sub>. Vậy nếu xem pháp luật như một bước mà thông qua đó con người tiến </sub>


gần đến cơng lý thì việc tiếp cận pháp luật cũng là một quyền và xây dựng hệ thống pháp
luật dễ tiếp cận là một nghĩa vụ của nhà nước. Đặc biệt trong lĩnh vực quyền con người, tính
dễ tiếp cận của các quy định pháp luật không chỉ ở vấn đề luật nội dung mà cịn ở cả luật
hình thức.


Hệ tiêu chuẩn trên chính là các cơng cụ nghiên cứu cần thiết để đi sâu vào nội dung của
từng quyền cụ thể theo Hiến pháp 2013 trong phần tiếp theo:


<i><b>Quyền liên quan đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm </b></i>


Các quyền nói trên liên quan đến quy định tại điều 19, 20 Hiến pháp 2013 và tương ứng
là điều 6, 7, 8 trong ICCPR. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quyền mới đó là quyền
sống. Tại điều 19 Hiến pháp quy định “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người
được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Có thể nói quy định về


454<sub> Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Sđd, trang 70. </sub>


455<sub> Nguyễn Thanh Tuấn, Bảo đảm quyền con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội </sub>


nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, 12/4/2016.


456<sub> Francesco Francioni, Access to Justice as a Human right, OUP Oxford, 2007; Moreta, María Augusta León, The </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

quyền sống trong Hiến pháp 2013 là một quy định mới hết sức tiến bộ khẳng định giá trị
nhân văn của bản Hiến pháp nói chung cũng như thể hiện một cách trực tiếp rằng Việt Nam


luôn tuân thủ nọi dung các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Tuy nhiên, có
một vấn đề cần bàn ở đây đó là, mặc dù thừa nhận “quyền sống” của con người nhưng ở Việt
Nam vẫn áp dụng hình phạt tử hình, dó đó ở đây cần làm rõ vấn đề về mối quan hệ giữa hình
phạt tử hình và quyền sống. Luật pháp quốc tế không bắt buộc các quốc gia thành viên phải
xóa bỏ hình phạt tử hình song các quốc gia đều phải có nghĩa vụ hạn chế sử dụng nó và việc
giới hạn áp dụng hình phạt này cũng được coi là một hình thức bảo vệ quyền sống. Cũng như
nhiều quốc gia khác trên thế giới, xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng chống tội phạm,
pháp luật của Nhà nước ta vẫn cịn duy trì hình phạt tử hình song đang thu hẹp dần phạm vi
áp dụng hình phạt này. Cụ thể là từ 44 điều có khung hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự
năm 1985 còn từ 29 điều (chiếm tỷ lệ 11%) trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và giảm xuống
cịn 22 điều (chiếm tỉ lệ 8%) và đến Bộ luật Hình sự 2015 tiếp tục giảm xuống cịn 15 điều
(chiếm tỉ lệ 5%).


Tiếp theo là về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã dành một chương riêng – Chương XIV (từ Điều 123 đến Điều
156) quy định về các tội phạm xâm phạm tới quyền sống, quyền được bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người và quy định trách nhiệm hình sự đối với những
người thực hiện các hành vi phạm tội này. Cùng với đó thì vào năm 2014 Việt Nam đã tham
<i>gia phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc </i>


<i>trừng phạt tàn bạo, vô nhân dạo hoặc hạ nhục con người. Tuy nhiên Việt Nam không áp </i>


dụng trực tiếp các quy định của Cơng ước mà nội luật hóa dần dần. Bộ luật hình sự 2015 đã
sửa đổi tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội dùng nhục hình, tội bức cung theo
hướng tăng nặng nhằm đảm bảo yêu cầu của Công ước chống tra tấn, cụ thể: (1) bổ sung tình
tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” vào tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
(điểm b khoản 3 Điều 157, mức hình phạt từ năm năm tù đến 12 năm tù); (2) bổ sung hành vi
khách quan “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới
bất kỳ hình thức nào” vào tội dùng nhục hình (Điều 373); (3) bổ sung tình tiết tăng nặng định


khung vào tội bức cung (Điều 374). Bên cạnh đó, điều 8 Luật tạm giam, tạm giữ 2015 cũng
đã khẳng định những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có tra tấn, truy bức, dùng nhục hình;
các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vơ nhân đạo, hạ nhục con người. Luật này cùng với
Luật thi hành án dân sự là những đạo luật cốt lõi trong việc bảo đảm quyền không bị tra tấn
của đương sự trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện đến giờ này Luật Thi hành án hình sự
2010 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung. Đây có thể coi là một điểm trừ đối với tính kịp thời
của pháp luật trong lĩnh vực này. Đã có những quan điểm457<sub> chỉ ra một số bất cập trong Luật </sub>


Thi hành án hình sự hiện hành, đặc biệt là nhìn từ góc độ đối sánh với các tiêu chuẩn của
pháp luật quốc tế có liên quan như: (1) Nguyên tắc thi hành án hình sự chưa nhắc tới vấn đề
<i>“sức khỏe” của người chấp hành án trong khi Bộ Các quy tác tiêu chuẩn về đối xử với tù </i>


<i>nhân năm 1955 của Liên hợp quốc đã lưu ý rõ về điều này; (2) Luật thi hành án hình sự thiêu </i>


vắng những quy định về dụng cụ giam giữ như cũi, xiềng xích, cùm chân, cùm tay. Hệ quả
của điều này có thể sẽ là sự lạm dụng pháp luật dẫn tới xâm phạm quyền của người chấp
hành án; (3) Vấn đề giới tính, tình dục, sinh sản vẫn chưa được quan tâm rõ ràng trong pháp
luật. Đặc biệt cả Luật thi hành án hình sự lẫn Nghị định 117/2011 và Thông tư liên tịch
04/2010 vẫn chưa đề cập tới các vấn đề nhạy cảm này. Rõ ràng việc thiếu vắng một đạo luật
tiên tiến hơn, vừa phản ánh tinh thần Hiến pháp 2013, vừa tiếp nhận những quan điểm của
Công ước chống tra tấn là sự yếu kém về cả tính đầy đủ lẫn tính kịp thời của pháp luật.


457<sub> Nguyễn Thị Lan, Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam nhằm bảo vệ quyền con </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Xét về góc độ bảo vệ danh dự, nhân phẩm, pháp luật hình sự Việt Nam đã khá đầy đủ với
riêng Bộ luật hình sự đã dành các điều 155, 156 để trừng phạt hành vi làm nhục người khác và
hành vi vu khống. Tuy nhiên, ở mức độ nhẹ hơn, theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 5
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013, người có cử chỉ, lời nói thơ bạo, khiêu khích,
trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
100.000 đến 300.000 đồng. Việc xử lý hành chính với vi phạm này thuộc thẩm quyền của chủ


tịch UBND cấp xã, phường nơi người vi phạm cư trú. Theo chúng tôi quy định này đã có phần
lỗi thời với mức phạt thấp và hiệu quả thi hành chưa cao. Hay nói cách khác, cơ chế của pháp
luật hành chính để bảo vệ quyền con người trong trường hợp này là rất khó tiếp cận.


Ngồi ngành luật cơng, luật tư mà điển hình là Bộ luật dân sự 2015 cũng có những quy
định liên quan đến các quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm mà cụ thể là tại
điều 33, 34. Tuy nhiên, cách thức bảo đảm nhân quyền của luật tư lại khác biệt nhiều so với
luật công. Nếu luật công mang tính ngăn chặn thì luật tư lại mang tính mở đường. Quyền
sống theo quan niệm của luật dân sự bao hàm nhiều góc độ, trong đó có vấn đề hiến mơ, bộ
phận cơ thể; quyền được sống đúng với giới tính; quyền được chết.v.v.458<sub> Đây đều là những </sub>


bộ phận mà pháp luật không những vừa thiếu, vừa chậm lại vừa khó gần. Thứ nhất, Luật
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được ban hành từ năm 2006 đã bộc
lộ nhiều bất cập459<sub>, Luật về chuyển đổi giới tính và nghị định thay thế Nghị định 88/2008 vẫn </sub>


chưa ra đời dù Luật hộ tịch 2014 đã cho phép sửa đổi giấy tờ tùy thân khi chuyển giới, Luật
về an tử vẫn chưa được xây dựng. Đó chính là những biểu hiện yếu kém về mặt thực thi
quyền sống theo luật dân sự.


<i><b>Quyền liên quan đến tự do cá nhân </b></i>


Có thể nói, nhóm quyền này bao hàm rất nhiều những quyền nhánh trong Hiến pháp 2013,
bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú (Điều 23); Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo (Điều 24);
Quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin (Điều 25); Quyền có chỗ ở (Khoản 1
Điều 22). Chúng tương ứng với một số quyền tại điều 4, điều 7, điều 18, điều 19 ICCPR.


<i>Đầu tiên là về quyền tự do đi lại, cư trú </i>


Cùng với sự ghi nhận trong Điều 22. Điều 23 của Hiến pháp, thì để có thể hiện thực hóa
các quyền này, các văn bản quy phạm pháp luật đã được triển khai, tạo hành lang pháp lý cho


việc thực hiện chúng, cụ thể:


+ Luật cư trú 2006 sửa đổi bổ sung 2013


Theo đó thì, để đảm bảo quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cơng dân trên lãnh thổ nước
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tạo hành lang pháp lý để công dân thực hiện quyền cơ
bản của mình được ghi nhận trong Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành quy tình về trình tự, thủ
tục đăng ký, quản lý cư trú; quyền, trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức
về đăng ký, quản lý cư trú. Luật cũng quy định nguyên tắc thực hiện quyền cư trú của công
dân tại Điều 3 đó là: “Cơng dân có quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan. Cơng dân có đủ điều kiện đăng ký thường trú, tạm trú
thì có quyền u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thường trú, tạm trú.


Quyền tự do cư trú của công dân chỉ bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.”


458<sub> Đoàn Thị Ngọc Hải, Chế định quyền nhân thân trong pháp luật dân sự Việt Nam, </sub>


theo: />


raoDoi&ListId=75a8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27b6&SiteId=b11f9e79-d495-439f-98e6-4bd81e36adc9&ItemID=2355&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3


459<sub> Xem tại: </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Sau khi có Hiến pháp năm 2013, để phù hợp với các nội dung mới về vấn đề quyền con
người, quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp mới, thì Luật cư trú năm
2006 đã được sửa đổi bổ sung một số điều để đảm bảo sự phù hợp những nội dung tiến bộ
ghi nhận trong Hiến pháp mới. Cùng với sự bổ sung của luật cư trú thì Chính phủ đã ban
hành các văn bản hướng dẫn thi hành gồm Nghị định 31/2014/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết và
biện pháp thi hành Luật Cư trú và Thông tư 35/2014/TT-BCA hướng dẫn Luật Cư trú và


Nghị định 31/2014/NĐ-CP.


Song song với sự ghi nhận về quyền tự do cư trú, thì hiện nay trong hệ thống pháp luật
của Việt Nam có các văn bản điều chỉnh về quyền tự do đi lại của cơng dân Việt Nam, đảm
bảo quyền “ra nước ngồi và từ nước ngồi về nước” của cơng dân Việt Nam, đó là: Nghị
định số 136/2007/NĐ – CP về Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, ban hành ngày
17/06/2007. Nội dung văn bản quy định về thủ tục giấy tờ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam. Nghị định này được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
số 94/2015/NĐ – CP. Về vấn đề này, chúng tơi thấy có một điểm nổi nộm. Đó là tính đến
thời điểm này, Nghị định 136/2007 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số
94/2015/ND-CP) của Chính phủ là văn bản có hiệu lực cao nhất cụ thể hố Quyền tự do đi ra nước ngồi
và từ nước ngồi trở về nước của cơng dân Việt Nam được ghi nhận tại Điều 23 của Hiến
pháp năm 2013. Trong đó, có một số quy định ví dụ như Điều 21, 22 của nghị định này mang
nội dung hạn chế quyền tự do đi lại. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2, điều 14, Hiến
pháp 2013 thì quyền con người chỉ bị giới hạn bởi “luật”. Vì vậy, theo chúng tơi cần có một
văn bản do quốc hội ban hành quy định về nguyên tắc trước rồi mới tới nghị định. Nếu
khơng có thể nói rằng quy định trong lĩnh vực này chưa thực sự đầy đủ.


Quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo


Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hay khơng theo một tôn giáo nào của công dân
Việt Nam được ghi nhận trong Hiến pháp. Thì Quốc hội Khóa XIV đã phát triển các quy
định từ pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo lên thành Luật Tín ngưỡng, tơn giáo 2016 để đảm bảo
nguyên tắc ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đó là Quyền con người, quyền cơng dân ở
Việt Nam được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Luật này đã ghi nhận các quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo của mọi người, cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của
các tổ chức xã hội trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngường, tơn giáo cho mọi người. Cùng
với đó là các nội dung quy định về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tơn giáo; tổ chức tơn
giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tơn giáo.



Trên cơ sở luật này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP để quy định chi
tiết. Ngoài ra. Bộ nội vụ hiện đang chủ trì soạn thảo một Nghị định về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tín ngưỡng tơn giáo. Nói chung về lĩnh vực này, pháp luật Việt Nam đã có
một số tiến bộ chẳng hạn Bộ luật hình sự có quy định các tội phạm liên quan đến xâm phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; Bộ luật tố tụng hình sự có quy định mở rộng quyền thực
hành tín ngưỡng, tơn giáo của phạm nhân. Tuy nhiên, cả Hiến pháp và luật đều xác định
phạm vi rộng các trường hợp hạn chế quyền, dẫn đến sự tuỳ nghi diễn giải và hạn chế quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong thực tế. Nghị định 162/2017/NĐ-CP cũng khơng giải thích
cụ thể các trường hợp hạn chế quyền theo quy định của Luật, đặc biệt là Khoản 4 Điều 5 dẫn
tới những khó khăn trong việc áp dụng. Đây là lỗ hổng mà pháp luật phải lấp đầy nếu muốn
bảo đảm tính đầy đủ.


Quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận
+ Luật báo chí năm 2016


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

trong Hiến pháp năm 2013, Quốc hội Khóa XIII đã thảo luận và thơng qua Luật báo chí năm
2016, quy định về quyền quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng
dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia
và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí, theo đó, Luật Báo chí
quy định quyền tự do ngơn luận trên báo chí của công dân như sau:


<i>- Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới. </i>


<i>- Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, </i>
<i>pháp luật của Nhà nước. </i>


<i>- Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của </i>
<i>Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ </i>
<i>chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.</i>460



Cùng với đó, để đảm bảo làm rõ một số quy định trong luật báo chí thì Chính phủ đã ban
<i>hành một số Nghị định cụ thể hóa bao gồm: </i>


+ Nghị định số 08/2017/NĐ – CP ban hành ngày 8/2/2017 quy đinh về việc lưu chiểu
điện tử đối với loại hình báo nói, báo hình và báo điện tử độc lập với cơ quan báo chí.


+ Nghị định số 09/2017/ NĐ – CP quy định chi tết việc phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước


Có thể thấy, nội dung của Nghị định số 09/2017/NĐ – CP được Chính phủ ban hành vừa
góp phần đảm bảo nội dung thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận nhưng cũng là
văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung liên quan đến việc hiện thực hóa quyền tiếp
cận thông tin ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.


Liên quan đến quyền tự do ngơn luận, có một vấn đề pháp lý khá thời sự liên quan đến
Luật an ninh mạng vừa được ban hành và chưa có hiệu lực. Tuy ra đời khá muộn nhưng Luật
này đã động đến một vấn đề khá gai góc, đó là tự do ngôn luận trên môi trường Internet. Tạm
gạt qua tính đầy đủ và kịp thời của chế định an ninh mạng, tuy nhiên, nghiên cứu nội dung
luật này, chúng tơi thấy có khá nhiều vấn đề khiến người dân khó tiếp cận. Khái niệm khơng
gian mạng tài khoản 3 và 4 điều 2 chưa thực sự rõ ràng. Tương tự, Điều 16 cũng chứa những
nội dung chưa cụ thể mà có thể dẫn tới sự giải thích theo hướng suy diễn, chủ quan, chẳng
hạn như về các khái niệm vĩ nhân, lãnh tụ, danh nhân, anh hùng dân tộc...hay hành vi “xuyên
tạc”, “phỉ báng”…


<i><b>Quyền riêng tư </b></i>


Các quyền riêng tư, với nội hàm quyền bao gồm: Quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thơng tin riêng tư khác (Điều 21); Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Khoản 2,


3 Điều 22). Đối với lĩnh vực quyền này, có thể thấy nó có một mức độ bao phủ khá rộng và
được cụ thể hóa bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Đầu tiên phải kể tới là Bộ luật hình
sự năm 2015, với các tội danh tại điều 158, 159. Tiếp theo là Bộ luật dân sự 2014 với điều
38. Ngoài ra một số văn bản pháp lý chuyên ngành cũng có những quy định liên quan như:


- Luật báo chí, luật xuất bản cấm đăng, phát, xuất bản nội dung chứa thơng tin tiết lộ bí
mật đời tư cá nhân


- Luật trẻ em quy định bảo vệ bí mật riêng tư của trẻ em


- Luật tiếp cận thông tin cho phép cá nhân từ chối cung cấp thơng tin thuộc về bí mật
đời tư


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Mặc dù đã có một khối lượng quy định khá bao quát về vấn đề quyền riêng tư nhưng
chúng tơi thấy rằng pháp luật vẫn cịn những khoảng trống nhất định:


Đầu tiên, Luật tố tụng hình sự tại chương XVI đã có những quy định cho phép cơ quan
điều tra ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Tuy
nhiên vẫn chưa có quy định đầy đủ về thủ tục này một cách cụ thể mà chỉ có những khái
niệm mơ hồ như trên. Thiết nghĩ, người dân, luật sư sẽ khó có thể hiểu và tiếp cận một cách
chính xác về chúng để phát hiện ra những hành vi vi phạm quyền riêng tư.


Bên cạnh đó, Luật an ninh mạng có quy định buộc các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trên mạng phải xác thực thông tin người dung và cung cấp cho cơ quan công an; đồng thời
phải ngăn chặn việc chia sẻ và thậm chí là xóa bỏ thơng tin, ngừng cung cấp dịch vụ khi có
u cầu. Có thể thấy những quy định này cũng phần nào tác động đến quyền riêng tư của cá
nhân trên mạng, đặc biệt là xâm hại tới tính ẩn danh của họ.


<i><b>Kết luận </b></i>



Mỗi một lĩnh vực trong các quyền dân sự cơ bản lại có những mức độ thi hành khác
nhau, trong đó có nơi đã quy định khá đầy đủ còn nhiều khu vực lại bỏ ngỏ. Trở lại câu hỏi
nghiên cứu, vấn đề nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Hiến pháp 2013 về quyền dân sự
cơ bản theo chúng tôi là cần phải thực hiện với những định hướng cơ bản như sau:


- Tiếp tục nghiên cứu để bổ sung những chế định cần thiết, tránh tạo ra những “lỗ hổng”
pháp luật dẫn tới khả năng suy diễn chủ quan để biện hộ cho những hành động hạn chế, vi
phạm quyền trái pháp luật.


- Cần áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền để xây dựng và hoàn thiện pháp luật
bởi nhiều quy định của chúng ta vẫn còn đặt nặng nhu cầu quản lý, giám sát của nhà nước.


- Cần tiếp tục cụ thể hóa các văn bản luật để có được một hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ
ràng, dễ tiếp cận.


</div>

<!--links-->
Quy định Về việc quản lý, sử dụng hệ thống thư điện tử trong các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh
  • 6
  • 1
  • 3
  • ×