Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.41 KB, 18 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>QUYỀN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ </b>
<b>TẠI VIỆT NAM </b>
<i><b>TS. Nguyễn Thị Hồng Yến & TS. Mạc Thị Hoài Thương </b></i>
<i>(Trường Đại học Luật Hà Nội) </i>
<i>“Dân tộc thiểu số là một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Trong tiến </i>
<i>trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, phát triển vùng dân </i>
<i>tộc thiểu số, miền núi và coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm xây dựng </i>
<i>khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phát triển bền vững”185<sub>. </sub></i>
<b>1. Khái quát về quyền văn hóa của người dân tộc thiểu số </b>
Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người của Liên Hợp quốc (UDHR)
<i>năm 1948 khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được hưởng tất cả các quyền và tự </i>
<i>do khơng có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn </i>
<i>ngữ, tơn giáo, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội” (Điều 2); đồng thời Công ước quốc </i>
<i>tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng ghi nhận: “Tại những </i>
<i>nước có nhiều nhóm dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ cùng chung sống, thì </i>
<i>những cá nhân thuộc các dân tộc, tơn giáo, ngơn ngữ và các thiểu số đó, cùng với </i>
<i>những thành viên khác của cộng đồng mình, khơng thể bị tước bỏ quyền được thụ </i>
<i>hưởng nền văn hóa riêng, quyền được thể hiện và thực hành tôn giáo riêng hoặc </i>
<i>quyền được sử dụng tiếng nói riêng của họ” (Điều 3). Điều này có nghĩa là, trong </i>
việc áp dụng và thụ hưởng các quyền con người cơ bản, trong đó có cả quyền văn
hóa, khơng được có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, kể cả về mặt sắc tộc, dân tộc
hay tôn giáo.
Trong các văn kiện quốc tế của Liên Hợp quốc, các nhóm thiểu số hay được
đề cập đến là thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tơn giáo và ngơn ngữ. Tịa án Công lý
quốc tế thường trực (PCIJ) đưa ra định nghĩa về dân tộc thiểu số là: cộng đồng thiểu
“Dân tộc” là khái niệm đa nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính, chỉ cộng đồng
185<sub> Phát biểu của Phó Thủ Tướng Thường trực Trương Hịa Bình tại Hội thảo Quốc gia “Thực trạng chính </sub>
sách dân tộc, Định hướng xây dựng chính sách giai đoạn 2021 – 2030”. Nguồn
186<sub> Nguồn Ý kiến tư vấn của PCIJ, đoạn 84 tại </sub>
dân cư của một quốc gia hoặc chỉ một cộng đồng dân cư của một tộc người sử dụng
chung một ngôn ngữ, có đặc điểm chung về văn hoá và ý thức tự giác tộc người,
gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa. Thuật ngữ
“dân tộc” trong “DTTS” được hiểu theo nghĩa thứ hai.
“Thiểu số” theo nghĩa thơng thường nhất được hiểu là nhóm người có những
sự khác biệt về một phương diện nào đó với đa số người trong xã hội. Họ có thể
khác biệt với nhóm người đa số về phương diện ngơn ngữ và văn hố. Khác biệt về
nhận thức và tơn giáo, về hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sống và thu nhập v.v...và đi
kèm theo đó là sự khác biệt về phương thức ứng xử của cộng đồng đối với chính họ.
Như vậy, các khái niệm đưa ra khơng hồn tồn giống nhau, điều này cho thấy
tính chất phức tạp của vấn đề người thiểu số trên thế giới. Tổng hợp những thuộc tính
Người thiểu số có những đặc điểm như: về số lượng (ít, thiểu số khi so sánh
với nhóm đa số cùng sinh sống trên lãnh thổ); về vị thế xã hội (là nhóm yếu thế
trong xã hội thể hiện ở tiềm lực, vai trị ảnh hưởng của nhóm tới đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội ở lãnh thổ nơi họ sinh sống); về bản sắc (có những đặc điểm riêng về
mặt chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, phong tục, tập quán); về vị thế pháp lý (có thể là
công dân hoặc kiều dân của quốc gia nơi họ đang sinh sống). Về mặt chủ quan,
nhóm cộng đồng có ý thức bảo tồn truyền thống văn hóa của mình188<sub>… Hiện nay, </sub>
quyền của người dân tộc thiểu số cũng được quy định trong hầu hết accs văn kiện
pháp lý quốc tế quan trọng như: Tuyên bố về quyền của những người thuộc các
nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ 1992, Tuyên ngôn quốc
tế về quyền con người; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966;
Cơng ước quốc tế về xóa bỏ hình thức phân biệt chủng tộc 1965...
Như vậy, quyền dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của pháp luật về
quyền con người, và việc thúc đẩy và thường xuyên thực hiện quyền của những
người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ như là
một phần gắn liền trong sự phát triển xã hội nói chung và trong khn khổ dân chủ,
pháp luật nói riêng, góp phần vào việc tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các
dân tộc và các quốc gia. Trong những quyền con người của người DTTS, quyền văn
187<sub> Xem Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, </sub>
Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2011.
188<sub> Xem Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, </sub>
hóa hiện nay cũng được coi là một trong những quyền có nhiều giá trị đặc thù cần
được bảo tồn, gìn giữ và phát triển.
Theo Cơng ước về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966 (viết tắt là
CESCR) và các văn bản có liên quan thì quyền văn hóa của con người bao gồm:
- Quyền của mỗi cá nhân được tham gia vào đời sống văn hoá
- Quyền của mỗi cá nhân được hưởng thành quả tiến bộ khoa học và áp dụng nó.
- Quyền được hưởng việc bảo vệ quyền lợi đạo đức và vật chất bắt nguồn từ
các sản phẩm nghệ thuật, văn học, khoa học mà người hưởng thụ là tác giả.
- Quyền tự do không thể tước bỏ khỏi hoạt động sáng tạo nghiên cứu khoa học.
Riêng đối với DTTS, Điều 2 Tuyên bố về quyền của những người thuộc các
nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992 quy định:
<i>Những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc, chủng tộc, tơn giáo và ngôn ngữ </i>
<i>(dưới đây gọi là những người thuộc các nhóm thiểu số) có quyền</i>189<sub>: </sub>
<i>- Hưởng nền văn hóa (…) dưới hình thức riêng rẽ hoặc trong tập thể, một </i>
<i>cách tự do và không bị can thiệp hay bị bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào; </i>
<i>- Tham gia một cách tích cực vào đời sống văn hóa tôn giáo, xã hội, kinh tế </i>
<i>và đời sống cộng đồng; </i>
<i>- Tham gia một cách có hiệu quả vào những quyết định ở cấp quốc gia và, </i>
<i>trong những trường hợp thích hợp là ở cấp khu vực khi liên quan đến nhóm thiểu số </i>
<i>mà họ là thành viên hoặc liên quan đến những vùng mà họ sống ở đó, theo một </i>
<i>phương thức không trái với pháp luật quốc gia. </i>
Bên cạnh việc ghi nhận quyền của các dân tộc thiểu số, luật pháp quốc tế còn
quy định trách nhiệm của các quốc gia thành viên trong việc bảo đảm cho các cá
nhân thuộc các nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) quyền được hưởng nền văn hóa,
ngơn ngữ trong các điều kiện đặc thù của mình. Trong Tuyên bố năm 1992 cũng ghi
<i>nhận: “Các quốc gia sẽ bảo vệ sự tồn tại và bản sắc dân tộc hay sắc tộc, văn hóa, </i>
<i>tơn giáo và ngơn ngữ của người thiểu số trong phạm vi lãnh thổ thuộc sự quản lý </i>
<i>của họ, và khuyến khích những điều kiện để thúc đẩy bản sắc đó; các quốc gia sẽ </i>
<i>thơng qua những biện pháp lập pháp và những biện pháp thích hợp khác để đạt </i>
<i>được những mục tiêu này” (Điều 1). </i>
Ngoài ra, CESCR cũng xác định thêm rằng, trách nhiệm của các nhà nước là:
- Tôn trọng quyền tự do của cá nhân khẳng định và phát triển xu hướng văn
hoá theo ý thích của mình.
- Ngăn ngừa và chống lại bên thứ ba khỏi sự vi phạm các đặc điểm văn hố
của các cá nhân và nhóm nhằm khẳng định bản sắc văn hoá của các chủ thể này.
189<sub>Nguồn </sub> <sub></sub>
- Nhà nước hỗ trợ và thực hiện các điều kiện mà theo đó đảm bảo quyền
tham gia hoạt động văn hố.
- Nhà nước có trách nhiệm tơn trọng quyền tự do của cá nhân tìm kiếm thơng
tin và nhận thông tin khoa học vào cuộc sống. Bảo vệ quyền của cá nhân được
hưởng thụ phúc lợi xã hội từ các thành tựu khoa học.
- Bảo đảm quyền tự do cần thiết cho các hoạt động sáng tạo và khoa học.
Hay như Điều 4 Tuyên bố năm 1992 thì:
<i>1. Các quốc gia sẽ thực hiện các biện pháp trong trường hợp cần thiết để </i>
<i>2. Các quốc gia sẽ thực hiện các biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho </i>
<i>những người thuộc các nhóm thiểu số được thể hiện những đặc điểm riêng có của </i>
<i>họ, và được phát triển văn hóa, ngơn ngữ, tôn giáo, truyền thống và tập quán của </i>
<i>họ, trừ khi những thực hành cụ thể vi phạm pháp luật quốc gia và trái với các </i>
<i>chuẩn mực quốc tế. </i>
<i>3. Các quốc gia cần thực hiện các biện pháp thích hợp để, bất cứ khi nào có </i>
<i>thể, những người thuộc các nhóm thiểu số có thể có đầy đủ những cơ hội được học </i>
<i>hỏi tiếng mẹ đẻ của họ hoặc được giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ của họ. </i>
<i>4. Các quốc gia, trong trường hợp thích hợp, cần thực hiện các biện pháp </i>
<i>trong lĩnh vực giáo dục để giúp phát triển kiến thức về lịch sử, truyền thống, ngôn </i>
<i>ngữ và văn hóa của các nhóm thiểu số đang sống trong phạm vi lãnh thổ của họ. </i>
<i>Những người thuộc các nhóm thiểu số cần có đầy đủ những cơ hội để có được kiến </i>
<i>thức về xã hội nói chung. </i>
<i>5. Các quốc gia cần xem xét những biện pháp thích hợp để những người </i>
<i>thuộc các nhóm thiểu số có thể tham gia đầy đủ vào sự phát triển và tiến bộ kinh tế </i>
<i>ở nước họ. </i>
<i>của họ và để duy trì và tăng cường mối quan hệ tâm linh của họ với các vùng đất tổ </i>
<i>tiên và tài nguyên thiên nhiên khác theo truyền thống thuộc sở hữu của họ, hay bị </i>
<i>họ chiếm dụng hoặc sử dụng, và không thể thiếu cho đời sống văn hóa của họ. </i>
Như vậy, đảm bảo và thúc đẩy việc thực hiện các quyền con người của người
DTTS cũng nằm trong nghĩa vụ chung của các quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát từ
<b>2. Chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền văn hóa của người dân </b>
<b>tộc thiểu số tại Việt Nam </b>
Việt Nam là một quốc gia thống nhất với 54 dân tộc. Tính đến năm 2014,
trên 12,3 triệu người trong tổng số hơn 90 triệu dân Việt Nam thuộc 53 dân tộc
thiểu số, chiếm 14,3% dân số Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các vùng núi, đặc biệt
là vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các dân tộc Việt Nam có truyền
thống đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chế ngự
thiên nhiên và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự
đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam thống nhất192<sub>. </sub>
Coi trọng, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa các DTTS được Việt Nam
khẳng định tại Cương lĩnh Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011); đặc biệt, được thể hiện sâu sắc tại hai nghị quyết
chuyên đề về văn hóa. Một trong 10 nhiệm vụ cụ thể được nêu ra tại Nghị quyết
<i>Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản </i>
<i>sắc dân tộc” (năm 1998) là “Bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu </i>
<i>số”, trong đó nhấn mạnh đến việc đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, </i>
phổ biến các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật các DTTS. Nghị quyết số
<i>33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng </i>
<i>Tiếp đó, Điều 5 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa </i>
191<sub> Xem Ủy ban về các quyền kinh tế, văn háo, xã hội trong Nhận định chung 21 </sub>
192<sub> Sách trắng về quyền con người năm 2018, tr.43-44 </sub>
193<sub> Nguôn </sub>
<i>Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt </i>
<i>Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; </i>
<i>nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. </i>
<i>Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy </i>
<i>những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hố tốt đẹp của mình. Nhà nước </i>
<i>thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc </i>
<i>thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. </i>
Ngoài ra, để bảo đảm các quyền của các DTTS, Điều 42 Hiến pháp 2013
<i>cũng ghi nhận: “Cơng dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngơn ngữ </i>
<i>mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Đồng thời khẳng định: “Mọi người đều bình </i>
<i>đẳng trước pháp luật. Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, </i>
<i>kinh tế, văn hóa, hội”194<sub>. Nguyên tắc này cũng đã được thể hiện xuyên suốt trong </sub></i>
toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, được thể chế và cụ thể hóa trong các văn bản
luật như: Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Quốc tịch, Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng
Hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng Dân sự; Luật Lao động; Luật Giáo dục;
Luật Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong thời gian qua, Quốc hội
Việt Nam đã ban hành 151 luật với 38 luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các
Đối với việc đảm bảo các quyền văn hóa của người DTTS, Việt Nam cũng
đã dành sự quan tâm đặc biệt nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền văn hóa
của người DTTS trên lãnh thổ Việt Nam, cụ thể:
<i><b>2.1. Quyền được tham gia vào các hoạt động của đời sống văn hóa và bảo </b></i>
<i><b>tồn, giữ gìn bản sắc văn hóa riêng </b></i>
Nhà nước Việt Nam luôn chủ trương xây dựng nền văn hóa thống nhất và đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống của các dân tộc. Hình thức sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số
kết hợp giữa văn hóa truyền thống và hiện đại trong xu thế giao lưu, hội nhập và
phát triển. Người DTTS ở tất cả các vùng miền được tham gia hoạt động văn hóa
mang bản sắc các dân tộc. Đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào các dân tộc
trong những năm qua được cải thiện rõ rệt, mức thụ hưởng văn hóa được nâng cao.
Nhiều nét văn hóa các dân tộc thiểu số được bảo tồn, phát triển, được công nhận là
di sản văn hóa thế giới như: “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”,
“Thánh địa Mỹ Sơn”, “Cao nguyên đá Đồng Văn”.
Quyền bảo tồn và phát triển văn hóa DTTS được coi là quyền đặc thù có ý
nghĩa quan trọng đối với cộng đồng DTTS và đã được quy định ở nhiều văn bản
194<sub> Điều 16 Hiến pháp 2013 </sub>
<i>khác nhau như: Điều 41, Điều 42 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có </i>
<i>quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử </i>
<i>dụng các cơ sở văn hóa; Cơng dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng </i>
<i>ngơn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Để đảm bảo quyền này, nhà nước ta </i>
không chỉ ban hành các văn bản pháp luật chuyên ngành là cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc thực hiện quyền mà cịn có các chính sách, đề án bảo tồn và phát triển văn
<i><b>2.2. Quyền được sử dụng và phổ biến ngôn ngữ riêng và lựa chọn ngôn </b></i>
<i><b>ngữ để giao tiếp </b></i>
Ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài
người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ là tấm gương
phản ánh văn hóa của mỗi dân tộc, là tinh hoa được hình thành và gọt giũa trong
một thời gian dài. Qua ngôn ngữ mỗi cộng đồng bản ngữ thể hiện được thế giới
quan tâm linh của mình, đồng thời thế giới quan tâm linh cũng làm ngôn ngữ phát
triển. Vì vậy, việc đảm bảo cho các dân tộc thiểu số vừa tiếp cận được với ngôn ngữ
của các dân tộc khác để thuận lợi trong q trình học tập, cơng tác và đón nhận các
giá trị văn hóa của nhân loại, vừa được sử dụng, không làm mất đi ngôn ngữ “mẹ
đẻ” của mình để duy trì các giá trị văn hóa truyền thống khơng phải là một điều dễ
dàng. Vì vậy, trong các quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013,
quyền sử dụng và tiếp cận ngôn ngữ đã được đề cập đến tại Điều 42 như
<i>sau: “Cơng dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngơn ngữ mẹ đẻ, lựa </i>
<i>chọn ngơn ngữ giao tiếp”.197</i>
<i>Tiếp đó, Hiến pháp năm 2013 (Điều 5) ghi rõ: “Các dân tộc có quyền dùng </i>
<i>tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền </i>
<i>thống và văn hóa tốt đẹp của mình”; Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà nước </i>
<i>tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc </i>
<i>mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp học sinh người dân </i>
<i>tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo </i>
<i>dục khác”; Hay Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định về tiếng nói, chữ </i>
<i>viết dùng trước Tịa án nhân dân: “Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án là tiếng </i>
đoạn hiện nay" – Website:
197<sub> Xem </sub>
<i>viết của dân tộc mình trước Tịa án nhân dân, trường hợp này phải có phiên dịch”. </i>
Điều 21 Luật di sản văn hóa 2013 cũng có những quy định tương tự. Tiếp đó, Chính
phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 82/2010/NĐ-CP Quy định việc dạy và học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung
tâm giáo dục thường xuyên. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hợp tác với UNICEF thí
điểm thực hiện giáo dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ tại 3 tỉnh Lào Cai, Trà
Vinh, Gia Lai…
Duy trì văn hóa truyền thống, gìn giữ ngôn ngữ, các bài hát, điệu múa và
nhạc cụ truyền thống là các yếu tố quan trọng nhận diện đặc trưng của các DTTS.
Trong thời gian vừa qua, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam
khơng ngừng nâng cao cơng suất, tăng thời lượng phát sóng, mở rộng diện tích phủ
sóng rộng khắp trong cả nước, tới các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Trên 90% hộ gia đình vùng đồng bào dân tộc thiểu số được nghe Đài Tiếng nói
Việt Nam và trên 80% số hộ được xem truyền hình. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam và các Đài phát thanh, truyền hình địa phương có các chương
trình phát bằng 26 ngơn ngữ dân tộc thiểu số198<sub>. </sub>
Tổng hợp từ kết quả số liệu điều tra về thực trạng kinh tế xã hội của 53 dân
tộc thiểu số năm 2015, cho thấy: có đến 95,8% tỷ lệ số người DTTS biết tiếng nói
của dân tộc mình. Tuy nhiên tại một số nhóm dân tộc thiểu số tỷ lệ này còn tương
đối thấp. Cụ thể là nhóm Ơ Đu, kết quả Điều tra cho thấy chỉ 27,7% số người của
<i><b>2.3. Quyền tiếp cận và thụ hưởng các giá trị văn hóa </b></i>
Quyền thụ hưởng các giá trị văn hố có thể hiểu là quyền được thừa nhận và
bảo đảm nhu cầu cảm nhận và khai thác các giá trị, các vốn xã hội tốt đẹp được
sáng tạo, lưu giữ trong đời sống cộng đồng của một cá nhân, cộng đồng nào đó.
<i>được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để vi </i>
<i>phạm pháp luật”; Điều 39: “Cơng dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Điều 40 quy </i>
<i>định: mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, </i>
<i>nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”; Điều 41: “Mọi người có </i>
<i>quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử </i>
<i>dụng các cơ sở văn hóa”. </i>
Nhìn chung, qua các quy định trên đây có thể thấy, người dân dù thuộc về
bất kỳ DTTS nào hay là người dân tộc Kinh, thì đều được Nhà nước đảm bảo quyền
bình đẳng trong thụ hưởng và khuyến khích phát huy các giá trị văn hóa do mình hoặc
cộng đồng tạo ra. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng tạo mọi điều kiện, cả về pháp luật và cơ
sở vật chất để đảm bảo quyền này của người dân, trong đó có người DTTS.
<b>3. Đánh giá chung </b>
<i><b>3.1. Một số kết qủa đạt được </b></i>
Đoàn kết là truyền thống quý báu, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam;
đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản, chiến lược hết sức quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta. Trong thực tế, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam không chỉ được tự do
hưởng thụ tất cả những giá trị văn hoá mà cịn có vai trị quan trọng trong sáng tạo,
giữ gìn các giá trị văn hố truyền thống của dân tộc, góp phần tạo nên các di sản
văn hố, kể cả các di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa thế giới như Nhã nhạc Cung đình Huế, Khơng gian văn hoá Cồng chiêng
Tây Nguyên, Hát xoan Phú Thọ, Khơng gian văn hố quan họ Bắc Ninh, Ca Trù…;
<b>giữ gìn và phát triển các làng nghề truyền thống. </b>
<i>Để đảm bảo quyền văn hóa của người DTTS, Việt Nam xác định hệ thống </i>
<i>chính sách pháp luật phải đảm bảo hồn tồn tơn trọng phẩm giá, nhân quyền, tính </i>
<i>độc đáo về văn hóa của họ và dân tộc thiểu số khơng bị tác động bất lợi trong quá </i>
<i>trình phát triển và họ sẽ nhận được lợi ích phù hợp điều kiện văn hóa - kinh tế xã </i>
<i>hội. Trong những năm qua, Chính phủ xác định hồn cảnh của cộng đồng thiểu số </i>
là một ưu tiên chính trị và đã phát triển một loạt các chương trình nhằm mục đích
nâng cao mức sống của họ. Thơng qua đó, Chính phủ đã thực thi nhiều chính sách
để giúp đỡ người dân tộc thiểu số vượt qua những rào cản mà họ phải đối mặt.
Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội dành cho các xã đặc biệt khó khăn trong
vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, được gọi là Chương trình 135, ví dụ,
đã tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng sâu vùng xa để giải quyết tình trạng
cô lập về địa lý như là một nguyên nhân gây nên tính dễ bị tổn thương của các dân
tộc thiểu số.
<i>1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các </i>
<i>dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. </i>
<i>2. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; </i>
<i>nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. </i>
<i>3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ </i>
<i>viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hố </i>
<i>tốt đẹp của mình. </i>
<i>4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để </i>
<i>các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. </i>
<i>Việt Nam đã xây dựng một loạt các chính sách nhằm phát triển, nâng cao </i>
<i>điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội của người dân tộc thiểu số tại các khu vực miền </i>
<i>núi, vùng sâu, vùng xa. Sau các chương trình 124 và chương trình 125 giai đoạn 1, </i>
giai đoạn 2, Chính phủ đã đưa ra chương trình 135 giai đoạn 3 để đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội ở các xã, thơn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc, miền
núi. Bên cạnh việc các chương trình phát triển chung cho các cộng đồng DTTS,
Chính phủ giao cho Ủy ban Dân tộc chủ trì hướng dẫn các tỉnh xây dựng dự án Hỗ
trợ phát triển các dân tộc có dân số dưới 1000 người như các nhóm: Si La, Pu Péo,
Rơ Măm, Brâu, Ơ đu. Chính phủ cũng ban hành Chương trình hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo, nơi tập trung nhiều đồng bào DTTS
đang sinh sống.
<i>Việt Nam đã có nhiều chính sách đảm bảo người DTTS được học tập, được </i>
<i>đào tạo nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề </i>
<i>của mình; tạo việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, </i>
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Việt Nam đã ban hành và
thực hiện các chính sách giáo dục dưới đây để thúc đẩy sự phát triển giáo dục nói
chung và giáo dục cho PNDTTS nói riêng:
- Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 theo Quyết định số
201/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
- Luật Giáo dục, năm 2005 và kèm theo là các văn bản hướng dẫn thi hành.
<i>Ngồi ra, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm tạo sự công bằng trong tiếp </i>
<i>cận cho DTTS, như: giảm học phí, cấp học bổng, cung cấp sách giáo khoa, miễn </i>
giảm các khoản đóng góp xây dựng trường, cử con em người DTTS đến học tại các
trường học nghề, trường Cao đẳng và Đại học, ưu tiên tuyển dụng học sinh nữ
DTTS sau khi ra trường. Ngồi chính sách chung cho các DTTS, Nhà nước cịn có
những chính sách đặc thù, ưu tiên về giáo dục cho DTTS.
<i>Về cơ sở hạ tầng, Nhà nước đã đầu tư xây dựng hệ thống trường nội trú cho </i>
<i>con em các DTTS. Theo thống kê của Vụ Giáo dục Dân tộc, Bộ Giáo dục và Đào </i>
tạo, trung bình hằng năm có 30% tổng số học sinh nội trú là trẻ em gái người DTTS.
Để tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho học tập ở vùng DTTS, Việt Nam đã phát
triển nhiều chương trình giáo dục, ngồi hệ thống giáo dục chính quy, như chương
trình giáo dục khơng chính quy với văn bằng tương đương văn bằng hệ chính quy,
chương trình giáo dục đáp ứng nhu cầu của người học, chương trình cập nhật kiến
thức, kỹ năng, chuyển giao công nghệ và các chương trình giáo dục về nghề, xây
dựng các trung tâm học tập cộng đồng tại các xã, phường.
Việc coi trọng bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số gồm
nền văn học, nghệ thuật, tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống... được
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Cương lĩnh Xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” và trong Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (năm
Chính phủ thơng qua Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng dân
tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020, Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội
các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025, Đề án "Hỗ trợ hoạt động bình
đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025", Đề án “Giảm thiểu tình trạng
tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn
2015-2025”, Đề án xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức dân tộc thiểu số cho cán
bộ, công chức, viên chức 2016, Đề án hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin. Việt Nam đang xây dựng Luật hỗ trợ phát triển vùng
dân tộc thiểu số.
<i>Việc bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục, tiếp cận thông tin cho người dân tộc </i>
<i>thiểu số được đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả nước có 315 trường phổ thơng dân </i>
tộc nội trú với 94.000 học sinh, 1.013 trường phổ thông dân tộc bán trú với 159.212
học sinh và 4 trường dự bị đại học dân tộc với khoảng 4.000 học sinh. Cả nước triển
Nhiều di sản văn hóa các dân tộc được cơng nhận là di sản văn hoá cấp quốc
gia như: “Lễ hội Lồng Tồng” của dân tộc Tày, “Lễ Cấp sắc” của dân tộc Dao, Kéo
co của người Thái, Nghệ thuật Khèn của người H’Mơng, Hội đua bị Bảy Núi, Nghệ
thuật Chiêng Mường Hịa Bình... Với sự hỗ trợ của Nhà nước, hiện có 891.129 hộ
gia đình dân tộc thiểu số đang sử dụng nhà ở truyền thống với kiến trúc đặc trưng
của dân tộc mình, 195.215 hộ duy trì sử dụng các nhạc cụ truyền thống và gần
500.000 hộ đang duy trì, phát triển, truyền bá các điệu hát, múa truyền thống.
<i>* Nhận định về thành tựu đảm bảo quyền văn hóa ở Việt Nam từ báo cáo </i>
<i>viên đặc biệt của Liên hợp quốc năm 2015: </i>
do nghệ thuật và tác động của các chính sách phát triển và du lịch đối với việc
hưởng thụ các quyền văn hóa199<sub>. </sub>
Kết thúc chuyến thăm này, trong Báo cáo của Báo cáo viên cũng đã dành
những lời nhận xét tốt cho những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc
<i>đảm bảo các quyền văn hóa, trong đó nhấn mạnh: Việt Nam "đã có tiến bộ vượt bậc </i>
<i>trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ", bảo đảm các quyền kinh </i>
tế, xã hội và văn hóa của người dân, đặc biệt là nỗ lực mở rộng các cơ hội cho
người dân tiếp cận giáo dục và văn hóa, kể cả các vùng nông thôn và vùng sâu,
<i>Chốt lại báo cáo của mình, báo cáo viên nhấn mạnh: Việt Nam đang hấp dẫn </i>
<i>một số lượng ngày càng nhiều khách du lịch trong nước và quốc tế. Rất nhiều </i>
<i>chương trình đã được phát triển nhằm giúp người dân của các cộng đồng dân tộc </i>
<i>bán được sản phẩm nghề thủ công của họ và tiếp cận được với thị trường, cũng như </i>
<i>biểu diễn minh hoạ văn hoá truyền thống của họ thơng qua nhiều lễ hội và chương </i>
<i>trình biểu diễn khác nhau. Điều này đã cho phép các cộng đồng tham gia vào quá </i>
<i>trình phát triển kinh tế ở khu vực họ sinh sống, và cũng giúp Chính phủ thúc đẩy </i>
<i>hình ảnh về một đất nước đa văn hoá. </i>
<i><b>3.2. Một số tồn tại </b></i>
Xuất phát từ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với hệ thống chính
199<sub> Xem General Assembly, Report of the Special Rapporteur in the field of cultural rights, Farida Shaheed, 2015 </sub>
sách pháp luật đồng bộ, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ ấn tượng trong lĩnh
vực giáo dục, cải thiện tiếp cận giáo dục các cấp, tăng phân bổ ngân sách, xây dựng
thêm nhiều trường học và tuyển dụng nhiều giáo viên hơn. Tuy nhiên, chính sách
pháp luật Việt Nam về người DTTS nói chung và về quyền văn hóa của người
DTTS nói riêng vẫn tồn tại một số điểm hạn chế như:
- Cịn có sự chồng chéo, chưa phù hợp mối quan hệ giữa chính sách vùng,
cộng đồng, chính sách cho hộ nói chung và chính sách dân tộc, dẫn đến các can
thiệp chính sách cịn chồng chéo và chưa phù hợp và hiệu quả;
- Các chính sách này thường được thiết kế theo phương thức “một can thiệp
phù hợp cho tất cả”, trong khi đặc điểm mỗi vùng miền, địa phương, dân tộc là rất
khác biệt. Điều này không chỉ làm giảm sự phù hợp của chính sách, mà cịn hạn chế
tính sáng tạo, hiệu quả thực hiện chính sách ở cấp địa phương.
- Hầu hết các chính sách thời gian qua đều có một điểm chung là hỗ trợ mang
tính “cho khơng” mà khơng theo hướng “có điều kiện”, nghĩa là người nghèo, hộ, xã
nghèo phải có trách nhiệm như thế nào khi thụ hưởng chính sách của nhà. Đây là vấn
đề trong suốt thời gian qua, chính sách giảm nghèo chưa tiếp cận đúng. Vì khơng quy
định điều kiện đối với đối tượng thụ hưởng, dẫn đến tình trạng trơng chờ, ỷ lại vào
chính sách của Nhà nước, vì thế chính sách khơng tạo ra động lực phát triển
- Một số chính sách xây dựng không theo cách tiếp cận từ dưới lên, thêm vào
đó là các hạn chế về năng lực xây dựng… dẫn đến mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ,
định mức chính sách thiếu thực tế. Chính sách vừa mới ban hành chưa triển khai
thực hiện đã phải bổ sung, chỉnh sửa.
- Các chính sách về quyền văn hóa của người DTTS được thiết kế thiếu sự
gắn kết với các chính sách của các ngành khác như kinh tế, y tế… dẫn tới phân tán,
chồng chéo trong chính sách, không thể thực hiện việc điều phối chung để đạt được
hiệu quả một cách toàn diện và tổng thể200<sub>. </sub>
- Các chính sách cho vùng đồng bào DTTS nói chung chưa được thiết kế,
xây dựng và thực hiện cho phù hợp với văn hóa, phong tục, tập qn, ngơn ngữ của
đồng bào, do vậy hiệu quả chưa cao. Trong khi các thông tin, cơ sở dữ liệu về các
DTTS Việt Nam nhất là liên quan đến trình độ phát triển của các DTTS cịn chưa
đầy đủ, tồn diện và thiếu cập nhật201<sub>. </sub>
- Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng
200<sub> Ví dụ giảm nghèo sẽ là một nhân tố quan trọng gắn với mục tiêu tăng cơ hội đến trường cho học sinh, giảm tỷ lệ tử </sub>
vong bà mẹ, trẻ em; phát triển môi trường bền vững và cũng là nhân tố tích cực thức đẩy bình đẳng giới... Tuy
nhiên mội lĩnh vực trên lại được quy định bới những chính sách riêng rẽ, ít kết nối với nhau
201<sub> Cho đến thời điểm năm 2015 (trước khi có cuộc tổng điều tra thực trạng KT-XH 53 DTTS), chúng ta vẫn chưa </sub>
hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo dưới tác động của đời sống kinh tế - xã hội
hiện đại, xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tơn giáo - tín ngưỡng diễn ra ngày
càng mạnh mẽ. Nhiều thiết chế tổ chức, quản lý làng, bản truyền thống gắn với các
cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ (hoặc phá bỏ trong quá trình phát triển).
- .Các thiết chế văn hóa cơ sở cho vùng DTTS cũng đang hết sức khó khăn.
Tỷ lệ xã vùng DTTS khơng có nhà văn hóa chỉ lên đến 53,3%; chỉ có 62,4% số
thơn, bản có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng trong tổng số 48.494 thơn, bản
vùng DTTS, tỷ lệ thơn, bản có loa truyền thanh cũng chỉ đạt 56,8%. Khu vực miền
núi phía Bắc và Tây nguyên là những nơi đang gặp khó khăn nhất hiện nay về thiết
<b>4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi </b>
<b>quyền văn hóa của người DTTS tại Việt Nam trong thời gian tới </b>
<i>Thứ nhất, có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số, </i>
tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền
núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hồn chỉnh những chính sách đã có và nghiên
cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân
tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới. Đặc biệt với việc bảo tồn văn
hóa các DTTS, cần tiếp tục thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm đã được
đưa ra trong Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến
năm 2020”, đó là:
- Bảo tồn khẩn cấp văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân dưới
10.000 người) các dân tộc thiểu số tại các khu vực tái định cư dự án thủy điện liên
thơng, kết nối tồn diện với các chương trình, dự án có liên quan.
- Xây dựng đời sống văn hóa và mơi trường văn hóa vùng đồng bào dân
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng
dân tộc, tơn giáo.
- Chủ thể văn hóa, cộng đồng kế thừa và thực hành văn hóa có một vai trị to
lớn và là nhân tố quyết định trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số.
- Coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những
giá trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa,
văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân
tộc thiểu số.
- Đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công
truyền thống, du lịch cộng đồng kết hợp với xóa đói giảm nghèo.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất
lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả
cơng cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết
chế văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng đồng trong tổ chức các
hoạt động cộng đồng phát huy hiệu quả thực sự của các thiết chế văn hóa.
- Tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và
toàn quốc.
- Ban hành bộ chỉ số về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
(…)
<i>Thứ hai, ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật </i>
biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số; đồng thời sử dụng hiệu quả, công khai,
minh bạch nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình
nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. sưu tầm, phục hồi và phát triển một
số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền.
<i>Thứ tư, tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng </i>
bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa là tiền đề
để người DTTS thụ hưởng quyền văn hóa. Kết hợp với các chương trình phủ sóng
phát thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn hóa, thơng tin, tun truyền
hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát
thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt cơng tác nghiên cứu, sưu
tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa của các dân
tộc. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở và các chương trình
giáo dục miền núi, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ
thống trường phổ thông dân tộc nội trú các cấp; đẩy mạnh việc tổ chức các
<i>Thứ năm, tăng cường chương trình giáo dục song ngữ cho trẻ em dân tộc </i>
thiểu số và đào tạo trong ngôn ngữ địa phương cho giáo viên Kinh tại các vùng dân
tộc thiểu số, tuyển dụng giáo viên dân tộc thiểu số nhiều hơn, cho phép ngôn ngữ
dân tộc thiểu số được dạy và được sử dụng như một phương tiện giảng dạy trong
các trường học, và hỗ trợ các chương trình giáo dục về văn hóa của các nhóm dân
tộc thiểu số.
<i>Thứ sáu, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho </i>
đồng bào DTTS, khắc phục các rào cản tập quán, tâm lý, nhất là các dân tộc có điều
<i>Thứ bảy, tổ chức các hoạt động văn hoá như lễ hội, dịch vụ vui chơi giải trí, </i>
xây dựng tủ sách, thành lập các câu lạc bộ, tạo môi trường để người DTTS có cơ
hội hưởng thụ đầy đủ các quyền văn hoá. Loại bỏ mọi tập tục lạc hậu. gắn tuyên
truyền pháp luật với phê phán những thói quen xấu, tư tưởng trọng nam khinh nữ;
đề cao, tôn vinh truyền thống tốt đẹp của người DTTS.
<b>KẾT LUẬN </b>
khơng hề dễ dàng vì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có cả
yếu tố về sự phát triển và tiềm lực kinh tế của quốc gia. Chính vì vậy, những thành
tựu được ghi nhận sẽ là nền tảng để Việt Nam tiếp tục triển khai các hoạt động cụ
thể nhằm đảm bảo quyền này ngày càng tốt hơn trên thực tế.
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>
1. Quốc Hội, Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
2. Quốc Hội, Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014
3. Quốc Hội, Luật giáo dục năm 2005
4. Quốc Hội, Luật di sản văn hóa năm 2013
5. <i>Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên </i>
<i>tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” năm 1998 </i>
6. <i>Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con </i>
<i>người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” năm 2014 </i>
7. <i>Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật quốc tế về quyền của các nhóm </i>
<i>người dễ bị tổn thương, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2011. </i>
8. B<i>ộ ngoại giao, Sách trắng với chủ đề Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở </i>
<i>Việt Nam, 2018 tại </i>
9. B<i><sub>ộ ngoại giao, Báo cáo quốc gia theo Cơ chế Rà soát định kỳ phổ quát (UPR) </sub></i>
<i>chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc </i>
10. Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay"
11. General Assembly, Report of the Special Rapporteur in the field of cultural
rights, Farida Shaheed, 2015
12. PCIJ, Advisory Opinion on Interpretation of the Convention Between Greece
and Bulgaria Respecting Reciprocal Emigration, Signed at Neuilly-Sur-Seine
on November 27th, 1919.
13. Human Rights Committee, Concluding observations on the third periodic
report of Viet Nam, 28 March 2019,