Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tác động của trí tuệ nhân tạo đối với quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.92 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

quản trị trí tuệ nhân tạo “cần phải được đặt trong và tương tác với các khung thể chế
hiện hành về các luật và chính sách được áp dụng, đặc biệt là nhân quyền.”269


Đại học Essex kêu gọi Ủy ban lựa chọn về trí tuệ nhân tạo của Hạ viện Anh
lấy cách tiếp cận nhân quyền làm trung tâm trong việc phát triển và sử dụng trí tuệ
nhân tạo, khuyến khích cách tiếp cận tổng hợp, thống nhất, phổ quát và có thể thực
thi hơn.270<sub> Hội thảo liên ngành tại Đại học Stanford năm 2018 về trí tuệ nhân tạo, </sub>


thiết kế và nhân quyền đã có đối thoại giữa Cao ủy nhân quyền LHQ và nhà sáng
lập tổ chức Open AI Thung lũng Silicon, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải có
sự chuyển dịch tương tác giữa các đối tác ủng hộ nhân quyền và các nhà kỹ nghệ.


Nhìn chung, thế giới cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu về tương lai của trí tuệ
nhân tạo và những tác động tiềm năng đối với nhân quyền.


<b>Tài liệu tham khảo: </b>


(4) Report of the Special Rapporteur on the promotion and protection of the right
to freedom of opinion and expression, 2018


(5) Lindsey Andersen (2017), HUMAN RIGHTS IN THE AGE OF
ARTIFICIAL INTELLIGENCE, Access Now


(6) Daniel Cullen (2018), Why Artificial Intelligence is Already a Human Rights
Issue, tại


(7) Eleanor Jenkin, Hannah Osborne (2018), Submission to the Australian
Human Rights Commission’s Human Rights and Technology Project, Castan
Centre for Human Rights Law, Monash University.



(8) Mark Latonero (2017), Governing Artificial Intelligence: UPHOLDING
HUMAN RIGHTS & DIGNITY


(9) Mathias Risse (2018), Human Rights and Artificial Intelligence, An Urgently
Needed Agenda, Carr Center for Human Rights Policy


<b>TÁC ĐỘNG CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO </b>
<i><b>ĐỐI VỚI QUYỀN CON NGƯỜI </b></i>


<i><b>PGS.TS. Đặng Minh Tuấn </b></i>


269<sub> Xem F.Raso, V.Krishnamurthy và cộng sự, “Trí tuệ nhân tạo và Nhân quyền: Cơ hội và rủi ro”, Trung tâm </sub>
Berkman Klein về xuất bản nghiên cứu xã hội và internet (sắp ra mắt); Urs Gasser và Virgilio A.F.Almeida,
“A Layered Model for AI Governance” (Một mơ hình nhiều tầng nấc cho việc quản trị trí tuệ nhân tạo), ĐH
Harvard, 11/2017.
<i>Matthias Risse, Nhân quyền và Trí tuệ nhân tạo: Mộ chương trình nghi sự cần gấp, Trường Harvard </i>
Kennedy, 5/2018.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>(Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) </i>
<b>Dẫn đề </b>


Trí tuệ nhân tạo (AI) không có một định nghĩa chung, mà nó được hiểu ở nhiều
chiều cạnh khác nhau. Cùng với sự phát triển rất nhanh của công nghệ, khái niệm này
cũng thay đổi và phát triển không ngừng với nội hàm ngày càng mở rộng. Xét một cách
chung nhất, nội hàm của nó bao gồm tập hợp các kỹ thuật tính toán và quá trình gắn với
nó đươc sử dụng để nâng cao khả năng của máy móc trong việc thực hiện các công việc
cần đến trí tuệ, như nhận dạng mô phỏng, thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ.271<sub> AI nói </sub>


đến khả năng của các công nghệ trong việc đưa ra các dự đoán về tương lai và giải
quyết các nhiệm vụ phức tạp. AI có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển con người, nhưng


có nhiều mặt trái, tác động tiêu cực đối với xã hội, trong đó sự tác động của AI đối với
các quyền con người – một trong những vấn đề trung tâm của các thảo luận về sự phát
triển và ứng dụng của AI trong cộng đồng quốc tế và các quốc gia trên thế giới. Bài viết
này tập trung phân tích, đánh giá những rủi ro, tác động tiêu cực của AI đối với quyền
con người. Qua việc phân tích mối quan hệ giữa AI và quyền con người (I), bài viết chỉ
ra những tác động tiêu cực của AI đối với các quyền con người (II), trên cơ sở đó thảo
luận về các khuyến nghị, giải pháp nhằm giải quyết các tác động tiêu cực đó (III).


<b>I. Mối quan hệ giữa AI và quyền con người </b>


Tại sao AI có tác động đến quyền con người? Mối liên hệ giữa AI và quyền
con người thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:


Thứ nhất, sự tồn tại của AI thay thế con người, can dự vào trong các lĩnh vực
của đối sống con người đặt ra vấn đề liên quan đến quyền con người. Sự bất xâm
phạm vào đời sống con người là trung tâm của các quyền con người. Tuy nhiên, AI
thay thế con người, can dự, thậm chí chi phối đời sống con người đặt ra những mối
lo ngại đến con người và quyền con người. Có rất nhiều vấn đề đặt ra như: Con
người với những phẩm hạnh, những giá trị được đặt ra như thế nào trong mối quan
hệ với AI? AI có thể có thể có những phẩm hạnh và giá trị như con người? Những
giá trị và phẩm hạnh của con người bị ảnh hưởng như thế nào với sự xuất hiện của
AI? Có tồn tại nữa hay khơng sự bình đẳng giữa mọi người với sự can thiệp, chi
phối của AI? AI có thể bị lạm dụng và chi phối bởi các thế lực kinh tế và chính phủ
độc tài dẫn đến các hệ quả về quyền con người?272<sub> Những vấn đề này có thể không </sub>


bao giờ được giải quyết và có thể tồn tại như một phần của cuộc sống, nhưng rõ
ràng cần phải thấy chúng tạo ra những mối lo ngại đối với đời sống con người,


271<sub> National Science and Technology Council: Committee on Technology, “Preparing for the Future of Artificial </sub>
Intelligence,” Government Report (Washington, D.C.: Executive Office of the President, October 2016).


272<sub> Xem thêm: Paul de Font-Reaulx, “AI: The Consequences for Human Rights: Initial findings on the </sub>


expected future use of AI in authoritarian regimes”,


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

quyền con người.273


Thứ hai, AI không chỉ được hiểu dưới góc độ công nghệ, mà nó phải được
hiểu dưới khía cạnh xã hội. AI bao gồm các hệ thống công nghệ được sử dụng,
thẩm thấu và tác động vào đời sống xã hội. Tất cả các khía cạnh của AI đều được
đặt trong các bối cảnh xã hội, có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội.
Đó là các hệ thống tự động tạo ra các dự đốn cho hành vi con người, hình thành
các quyết định có tác động đến con người trong cuộc sống hàng ngày. AI xâm
nhập ngày càng nhiều vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống, từ tư pháp hình
sự, tài chính, y tế, giáo dục cho đến nguồn nhân lực, kiểm duyệt nội dung trực
tuyến. AI mang lại nhiều lợi ích, giá trị cho con người, góp phần thúc đẩy việc
thực thi các quyền con người, nhưng đồng thời cũng có những tác động tiêu cực,
nguy hại cho xã hội.274


Thứ ba, AI có những điểm hạn chế cố hữu dẫn đến những nguy cơ ảnh
hưởng đến việc thực thi các quyền con người. AI phát triển dựa trên các công nghệ
đang có, nhưng gây ra nhiều vấn đề và nguy hại hơn hơn so với các công nghệ
trước đây, đặc biệt về sự tác động của chúng đến trách nhiệm và sự tin cậy.


Việc sử dụng AI trong việc ra quyết định dựa trên thuật toán phức tạp, tinh vi
khiến con người rất khó để hiểu, và hầu như không thể theo dõi, truy xuất nguồn
gốc và quá trình ban hành các quyết định hay khuyến nghị mà AI tạo ra. Con người
tạo ra AI để giúp con người đưa ra các quyết định và khuyến nghị, nhưng con người
rất khó, thậm chí không thể hiểu bằng cách nào chúng được tạo ra. Điều này tạo ra
những vấn đề lớn liên quan đến sự minh bạch và trách nhiệm giải trình.275 Thêm
vào đó, AI vận hành dựa trên các số liệu, do vậy nó cũng thiếu hoặc hạn chế trong


nhận thức về bối cảnh của các quyết định và đề xuất.


Cũng như các công nghệ khác, AI cũng đặt ra vấn đề lỗi của máy móc, công
nghệ. Tuy nhiên, vấn đề nguy hiểm là ở chỗ AI được cho là các hệ thống có thể tính
toán chính xác rất cao, thậm chí hơn so với con người, nên các kết quả do AI tạo ra
thường được đặt tin cậy ở mức độ cao. Chính vì thế, trong trường hợp xảy ra lỗi, thì
các kết quả sai được sử dụng một cách tin cậy sẽ có những ảnh hưởng, tác động


273<sub> Mathias Risse, “Human Rights and Artificial Intelligence: An Urgently Needed Agenda”, Carr Center for </sub>
Human Rights Policy, May 2018.


274<sub> Filippo Raso, Hannah Hilligoss, Vivek Krishnamurthy, Christopther Bavitz, and Levin Kim, Artificial </sub>
Inteligence & Human rights: Opportunities & Risks, Berkman Klein Center For Internet & Society at
Havard University, Sepember 25, 2018.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nghiêm trọng đến đời sống con người, đến quyền con người. Trên thực tế, nhiều hệ
thống AI được sử dụng với mức độ chính xác rất cao, nhưng với các lỗi có thể xảy
ra đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực thi quyền con người, như
chương trình nhận dạng khn mặt của Google Hình ảnh năm 2015 với lỗi cực kỳ
nguy hại khi đôi khi nhận dạng người da đen là đười ươi hay một hệ thống phần
mềm tương tự được sử dụng bởi Cơ quan hải quan và biên phòng Hoa Kỳ để nhận
dạng các đối tượng tội phạm và khủng bố với 0.1% lỗi (tương ứng 74.900 người bị
nhận dạng sai trong năm 2016).276


Thứ tư, nếu coi rằng việc sử dụng AI là một phần của cuộc sống và những
nguy cơ mà nó tạo ra trong đời sống đã được chỉ ra, thì vấn đề tiếp theo là làm thế
nào để xác định hệ quy tắc trong việc quản trị việc sử dụng và vận hành AI để làm
sao nó phát huy được các mật tích cực trong việc phục vụ đời sống con người và
hạn chế tối đa những tác hại, nguy cơ và rủi ro mà nó gây ra. Tuy nhiên, không
giống như con người, rất khó xác định hệ quy tắc, ứng xử, trách nhiệm cho AI.


Cộng đồng quốc tế, một số khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới rất quan tâm xây
dựng bộ quy tắc ứng xử, các chính sách và hệ thống pháp luật về việc sử dụng và
vận hành AI.


<b>II. Tác động của AI đối với các quyền con người </b>


Sự tác động của AI đối với các quyền con người thể hiện trên hầu khắp các
lĩnh vực của đời sống. Báo cáo nghiên cứu của Đại học Havard về các cơ hội và rủi
ro của AI đối với các quyền con người277 đã phân tích tác động của AI đối với các
quyền con người trong 6 lĩnh vực, bao gồm tư pháp hình sự, tiếp cận hệ thống tài
chính, chăm sóc sức khỏe, kiểm duyệt nội dung trực tuyến, nguồn nhân lực và giáo
dục. Theo Báo cáo này, sự tác động của AI đối với các quyền con người trong các
lĩnh vực trên thể hiện ở các khía cạnh sau đây:


Thứ nhất và trên hết, trong tất cả các lĩnh vực được khảo sát, AI có tác động
lên khắp các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa được ghi nhận và
bảo đảm bởi các công ước quốc tế về quyền con người.


Thứ hai, các tác động tích cực và tiêu cực của AI không được phân đều trong
các lĩnh vực đời sống xã hội. Một số tổ chức và cá nhân hưởng các tác động tích
cực về các ứng dụng nhất định của AI, trong khi chính những ứng dụng này lại có
tác động tiêu cực lên những chủ thể khác. Trong một số trường hợp, một ứng dụng
AI có thể tác động tích cực lên việc hưởng thụ một quyền nhất định của một tầng
lớp cụ thể, nhưng lại có tác động tiêu cực đối với tầng lớp khác. Ví dụ, việc sử dụng


276<sub> Access Now, “Human Rights in the Age of Artificial Intelligence”, </sub>




</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

các hệ thống chấm điểm rủi ro tự động (automated risk scoring systems) trong hệ


thống tư pháp hình sự giúp giảm các cá nhân thuộc nhóm đa số bị bắt giam không
cần thiết, trong khi nó lại tăng tỷ lệ áp dụng sai lầm đối với những người thuộc
nhóm yếu thế.


Thứ ba, AI tạo ra nguy cơ trong việc duy trì, khuếch đại những thành kiến,
định kiến xã hội hiện có, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Các hệ thống AI được
thiết kế để phỏng theo các mơ hình ban hành quyết định mà chúng học từ các dữ
liệu đào tạo, trong khi các dữ liệu này phản ánh địa vị xã hội với những định kiến,
thành kiến của những người thiết kế và vận hành nó. Vấn đề đặt ra là, không như
con người với tư cách là những chủ thể có quyền tự do thay đổi quan điểm đạo đức
theo thời gian, các hệ thống AI không có khả năng đó. Để giải quyết vấn đề này, các
hệ thống AI đòi hỏi người thiết kế và vận hành phải bảo đảm rằng đầu ra luôn phải
phù hợp với các tiêu chuẩn về cơng bằng. Vì thế, các hệ thống AI được phát triển để
liên tục có các điều chỉnh sai sót và các vấn đề liên quan đến định kiến xã hội để
bảo đảm sự công bằng. Tuy nhiên, các hệ thống cải cách mới chỉ đem lại những
triển vọng hơn là giúp thúc đẩy quyền bình đẳng.278


Thứ tư, phần lớn các công nghệ AI có tác động sâu rộng đến quyền riêng tư.
Bản chất của AI là các hệ thống đói dữ liệu, bởi vì chúng được vận hành trên các
thuật toán tự động sử dụng các bộ dữ liệu lớn để tạo ra câu trả lời, dự đoán và hiểu
biết sâu sắc. Theo đó, các hệ thống AI dựa vào việc thu thập, lưu trữ, hợp nhất và
phân tích số lượng dữ liệu lớn. Chúng cũng khuyến khích mạnh mẽ việc thu thập và
lưu trữ càng nhiều dữ liệu càng tốt, bởi vì các luồng dữ liệu mới sẽ cho phép các hệ
thống AI tạo ra những hiểu biết mới mạnh mẽ. Vấn đề đặt ra là phần lớn dữ liệu
cung cấp cho các hệ thống AI có thể nhận dạng cá nhân, ngay cả trong trường hợp
ẩn danh. Các công nghệ AI có thể tạo ra những hiểu biết sâu sắc từ những dữ liệu,
sau đó được sử dụng để đưa ra dự đoán và hành động theo các đặc điểm gần gũi của
một người cụ thể trong khi hạn chế định dạng một người cụ thể. Tuy nhiên, việc
quản trị bảo mật trong q trình sử dụng AI ln là một thách thức lớn. Ngay cả khi
giả định rằng dữ liệu đào tạo bị loại bỏ khi hệ thống hoạt động, những hiểu biết do


hệ thống tạo ra từ dữ liệu có tác động đáng kể đến quyền riêng tư của một cá nhân.


Thứ năm, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo đặt ra thách thức đối với nhiều
cơ chế hiện có. Ví dụ, các cá nhân có quyền yêu cầu sửa lỗi trong các báo cáo cá
nhân (như báo cáo tín dụng). Tuy nhiên, với lượng thông tin khổng lồ mà các hệ


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

thống AI sử dụng khi đưa ra quyết định khiến việc thực thi quyền này trở nên
khó khăn. Ngoài ra, ngay cả khi lỗi trong dữ liệu của họ được điều chỉnh, những
tác hại đáng kể có thể xảy ra do sự hiện diện của lỗi hệ thống trong tập dữ liệu
và chia sẻ dữ liệu có mặt khắp nơi, có thể dẫn đến kết quả không công bằng cho
số lượng người rất lớn.


IA có tác động đến đến hầu hết các quyền con người. Trong số đó, một số
quyền con người chịu ảnh hưởng trực tiếp như quyền bình đẳng và khơng bị phân
biệt đối xử, quyền tham gia, quyền bảo vệ đời tư và thông tin cá nhân, quyền tự do
biểu đạt, quyền về việc làm.


<i>Quyền bình đẳng và khơng bị phân biệt đối xử </i>


Các hệ thống AI luôn phản ánh các định kiến xã hội và tạo ra sự bất bình
đẳng trong xã hội, đặc biệt đối với các cá nhân và nhóm thiểu số, yếu thế. Nhiều hệ
thống AI sử dụng, đánh giá các dữ liệu liên quan đến đặc tính xã hội, nghề nghiệp,
chủng tộc, sức khỏe, màu da để giúp đưa ra các đề xuất, quyết định. Các hệ thống
này gây ra sự phân biệt đối xử lớn đối với các cá nhân và nhóm yếu thế, dễ bị tổn
thương. Thực tế việc sử dụng AI đã chỉ ra tình trạng này. Ví dụ, một hệ thống máy
tính được sử dụng ở Mỹ để tiếp cận nguy cơ tái phạm của người dân trong hệ thống
tư pháp hình sự đánh dấu các người da đen có nguy cơ tái phạm gần gấp đôi so với
người da trắng. Đã có bằng chứng chỉ ra rằng các công nghệ AI có thể phân biệt đối
xử một cách có hệ thống và không công bằng trong các lĩnh vực trọng yếu của đời
sống xã hội, như tiếp cận dịch vụ, việc làm và hỗ trợ tài chính, tư pháp hình sự. Với


việc sử dụng ngày càng mở rộng các công nghệ AI, các hệ thống định kiến mà nó
tạo ra có thể là một vấn đề lớn đối với việc bảo đảm quyền bình đẳng và khơng bị
phân biệt đối xử.279


<i>Quyền riêng tư và bảo vệ dự liệu cá nhân </i>


Các hệ thống AI thường được đào tạo thông qua việc truy cập và phân tích
các tập dữ liệu lớn. Dữ liệu cũng được thu thập để tạo ra các cơ chế phản hồi, điều
chỉnh và sàng lọc liên tục. Bộ sưu tập dữ liệu này xâm phạm các quyền riêng tư và
bảo vệ dữ liệu. Việc phân tích dữ liệu bằng hệ thống AI có thể làm lộ thông tin đời
tư, thông tin được bảo vệ và thông tin nhậy cảm của các cá nhân. Trên thực tế, rất
nhiều hệ thống AI được sử dụng bởi các doanh nghiệp (đặc biệt là các công ty công
nghệ như Google, Facebook, Twitter) cho đến các chính phủ. Các doanh nghiệp sử
dụng các thông tin cá nhân để phục vụ hoạt động mục đích kinh doanh và kiếm lợi
nhuận, trong khi ngày càng có nhiều chính phủ sử dụng các hệ thống AI để phục vụ
mục đích quản lý, như hệ thống kiểm soát bằng video, hệ thống nhận dạng khuôn


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới.


Sự kiểm soát và quyền đời tư là 2 mặt của một vấn đề. Sự kiểm sốt càng lớn
thì quyền đời tư càng bị ảnh hưởng. Thực tế cho thấy các hệ thống kiểm soát AI
ngày càng được sử dụng nhiều hơn, và do vậy quyền riêng tư và bảo vệ dự liệu cá
nhân ngày càng bị vị phạm nhiều hơn. Các hệ thống nhận dạng khuôn mặt có thể
trích xuất những thông tin cá nhân từ dữ liệu hiện có. Sự ra tăng sử dụng các hệ
thống kiểm soát AI đã tạo ra tình trạng một lượng thơng tin khổng lồ về hoạt động
của các cá nhân trên mạng cũng như đời thực bị lưu giữ, lạm dụng hoặc sử dụng
một cách không chính đáng.280


Việc sử dụng AI trong thời đại kỹ thuật số tạo nhiều ảnh hưởng khác đối với
quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân trong những cách khác nhau như: các hệ thống mua


bán trực tuyến thường được trang bị các thiết bị có thể thu thập và xây dựng một dữ
liệu thông tin khổng lồ của khách hàng mà không được biết hoặc có sự đồng ý của
họ; các hệ thống xác định danh tính một người muốn duy trì tình trạng ẩn danh; các
hệ thống suy luận và tạo thông tin nhạy cảm về những người từ các thông tin không
nhạy cảm của họ; các hệ thống lập hồ sơ người dân dựa trên dữ liệu thông tin của họ;
và các hệ thống đưa ra quyết định dựa trên các thông tin thu thập được.281


<i>Tự do biểu đạt </i>


AI có những tác động lớn đến quyền tiếp cận, tìm kiếm và chia sẻ thông tin.
Rất nhiều hệ thống AI được thiết kế trong các giao diện mạng xã hội và công cụ tìm
kiếm để kiểm sốt thơng tin của người dùng bằng những cách khác nhau. Thông tin
bị kiểm sốt hàm nghĩa thơng tin khơng cịn được tự do hình thành, sử dụng và chia
sẻ. Ví dụ, Facebook sử dụng các thông tin của người dùng để tác động đến họ và
những người khác trong việc sử dụng và chia sẻ các thơng tin. Hệ thống tìm kiểm
Google dựa trên nội dung tìm kiểm để đưa ra một danh mục các kết quả theo thứ tự.
Việc chia sẻ thơng tin cịn có thể bị ảnh hưởng tiêu cực hơn khi các chính phủ có
thể sử dụng các cơng nghệ AI tương tự để kiểm duyệt, kiểm sốt thông tin. Ví dụ,
Chính phủ Trung Quốc đã thay thế một số cơ quan kiểm duyệt nhà nước bằng AI.
Nền tảng video nổi tiếng của Trung Quốc iQiyi sử dụng AI để xác định nội dung
khiêu dâm và bạo lực, cũng như nội dung được coi là nhạy cảm về chính trị.282<sub> Các </sub>


hệ thống trên có tác động tiêu cực đến việc bảo đảm sự đa nguyên truyền thông và
đa dạng trong quan điểm, ý kiến. Đồng thời, chúng cũng cản trở sự tranh luận, chia
sẻ, trao đổi thông tin trong xã hội, và lâu ngày có thể dẫn đến tình trạng phân hóa,


280<sub> Matthew L. Smith, Sujaya Neupane, “Artificial Interlligence and Human Development: Toward a research </sub>
agenda” (White Paper), International Development Research Centre 2018, tr.68.


281<sub> Article 19 and Privacy International, “Privacy and Freedom of Expression in the Age of Artificial </sub>


Intellegence”, April 2018, tr.17.


282<sub> Access Now, “Human Rights in the Age of Artificial Intelligence”, </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

phân cực giữa các nhóm, tầng lớp trong xã hội do thiếu sự sự kết nối, trao đổi thông
tin với nhau.


Vấn đề trở nên nghiêm trọng khi sự kiểm soát thơng tin của AI được sử dụng
vì các mục đích khơng chính đáng, như các hệ thống kiểm sốt được sử dụng nhằm
các mục đích tuyên truyền, thao túng và phân tán thông tin. Theo đó, việc sử dụng
AI có thể ảnh hưởng đến dân chủ và quyền tự quyết của người dân. Các hệ thống AI
được sử dụng ngày càng nhiều nhằm mục đích tuyên truyền, thao túng và định
hướng hành vi trong các cuộc vận động thông qua những người dùng mạng xã hội.
Hệ quả là, các chiến địch bị thao túng bởi các thông tin sai lệch có mục đích tuyên
truyền, định hướng dư luận. Trong khi đó, nếu người dân thấy rằng thông tin của họ
bị kiểm soát, bị theo dõi và định hướng thì họ khơng cịn tin tưởng vào thơng tin mà
họ tiếp nhận và cũng khơng cịn sẵn sàng thực hiện tự do biểu đạt nữa. Thay vào đó,
họ sẽ thay đổi hành vi biểu đạt của mình.


Việc kiểm sốt thơng tin với các lỗi AI có thể ảnh hưởng tiêu cực hơn đến
việc thực thi quyền tự do biểu đạt. AI khơng phải là một cơ chế hồn thiện, mà vẫn
xảy ra những lỗi như các công nghệ khác, vì thế việc sử dụng AI vào trong lĩnh vực
thông tin cũng ảnh hưởng đến quyền tự do biểu đạt. Các công ty Internet sử dụng
AI để phát hiện và tháo rỡ các thông tin không hợp quy định, đặc biệt theo các yêu
cầu pháp luật liên quan đến vấn đề khủng bố, ngôn từ kích động thù địch, tin giả
mạo. Tuy vậy, với các lỗi cố, AI có thể sai lầm trong việc loại bỏ các thông tin
chính đáng. Ngoài ra, sự tác động của AI đến quyền tự do biểu đạt cịn thể hiện ở
thơng tin định kiến.


<i>Quyền tham gia </i>



Các vấn đề của AI đối với quyền thông tin như đã nêu ở trên cho thấy những
tác hại đối với quyền tham gia chính trị của người dân. Một báo cáo của Viện
Brookings cho rằng “những tiến bộ của AI và khả năng không gian mạng sẽ tạo ra
các cơ hội cho các chủ thể độc hại phá hoại nền dân chủ một cách tình cờ và hiệu
quả hơn những gì chúng ta thấy từ trước đến nay”.283<sub> Các hệ thống AI có thể được </sub>


sử dụng vì các mục đích xấu, chẳng hạn như truyền bá thông tin sai lệch, dẫn đến
làm giảm, thay đổi nhận thực của công dân nhằm thay đổi hành vi của họ. Các nền
tảng trao đổi trực tuyến với AI (Bots) được sử dụng vì nhiều mục đích khác nhau.
Các hệ thống này có thể được sử dụng vì các mục đích sai trái ảnh hưởng đến quyền
tham gia. Các chiến dịch can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm
2016 thông qua mạng xã hội cho thấy những tác hại khó lường của AI đối với
quyền tham gia. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra các Bots đã, đang và sẽ tiếp tục được


283<sub> Alina Polyakova and Spencer P. Boyer, “The Future of Political Warefare: Russia, the West, and the </sub>
Coming Age of Global Digital Competition,” 5, Brookings, March 2018,


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sử dụng để thao túng truyền thông ở nhiều quốc gia trên thế giới nhằm can thiệp
vào kết quả của các cuộc bầu cử dân chủ.284


<i>Quyền làm việc </i>


Việc sử dụng ngày càng nhiều các công nghệ AI thay thế con người đặt ra
những thách thức đối với quyền làm việc. Thực tế, quá trình tự động hóa và sử dụng
công nghệ dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng. Thị trường lao động bị
ảnh hưởng không chỉ bởi sự giảm sút cơ hội việc làm, mà còn sự thay đổi về cơ cấu
thị trường lao động, trong đó các cơng việc truyền thống thì ngày càng giảm sút và
các công việc liên quan đến công nghệ cao ngày càng trở nên phổ biến. Tuy vậy,
các nhóm yếu thế trong xã hội lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các cơng việc


địi hỏi trình độ giáo dục và kỹ thuật cao.


<b>III. Các khuyến nghị bảo đảm AI vì quyền con người </b>


Sự phát triển của các hệ thống AI trong đời sống xã hội là một xu hướng khó
có thể đảo ngược. Cũng tương tự như sự ra đời của các cuộc cách mạng công
nghiệp và máy móc, AI đem lại nhiều giá trị cho đời sống xã hội, nhưng cũng tạo ra
nhiều hệ quả, tác động xấu đối với con người. Do vậy điều cần làm là làm sao để
tận dụng được những giá trị mà AI mang lại, nhưng đồng thời có những giải pháp
để giải quyết hay hạn chế tối đa các tác động tiêu cực có thể xảy ra của AI đối với
các quyền con người.


Để làm được điều đó, cần phải có các cơ chế kiểm soát AI để đồng thời phát
huy những giá trị và giảm thiểu các hệ quả tiêu cực của việc sử dụng các hệ thống AI.
Các cơ chế kiểm soát bao gồm hệ thống quy tắc (chính sách, luật, quy định) và kỹ
thuật (thiết kế và vận hành các hệ thống AI). Cần phải đảm bảo rằng tất cả các chủ
thể tham gia vào việc xây dựng và vận hành các hệ thống AI phải có trách nhiệm
trong việc thúc đẩy các quyền con người. Các chính phủ cần đóng vai trò trong việc
xây dựng các chính sách, quy định và bảo đảm các điều kiện để các chủ thể tuân thủ
nghĩa vụ, đồng thời khuyến khích họ, đặc biệt là các doanh nghiệp trong việc bảo
đảm các trách nhiệm về quyền con người. Các chính phủ cũng phải có trách nhiệm và
hệ thống kiểm soát chính các hoạt động của mình trong việc sử dụng AI. Báo cáo của
Tổ chức Access Now đưa ra 2 nhóm giải pháp đối với các chính phủ và tư nhân. Các
chính phủ sử dụng AI phải đảm bảo: tuân thủ các tiêu chuẩn mua sắm công mở; bắt
buộc phải đánh giá tác động về quyền con người; bảo đảm sự minh bạch và giải trình;
thiết lập trách nhiệm và thủ tục khắc phục (đối với các quyền bị vi phạm). Trong khi
đó, việc sử dụng AI của khối tư nhân phải bảo đảm: thực hiện đánh giá tiêu chuẩn về
quyền con người theo các nguyên tắc hướng dân của Liên Hợp quốc về kinh doanh


284<sub> Mark Latonero, “Governing Artificial Interlegence: Upholding Human Rights & Dignity”, Data&Society, </sub>




</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

và quyền con người; bảo đảm sự minh bạch và giải trình cao nhất có thể; Thiết lập
các cơ chế trách nhiệm và khắc phục thích hợp.285


Minh bạch và giải trình là trách nhiệm của tất cả các chủ thể sử dụng và áp
dụng AI. Có lập luận cho rằng AI bao gồm các hệ thống rất phức tạp, thậm chí
không thể giải thích, nên việc đặt ra sự minh bạch và giải trình sẽ cản trở, gây hại,
thậm chí giết chế sự sáng tạo. Tuy nhiên, lập luận này bị coi là bị thổi phồng và
không phù hợp với sự phát triển của AI ngày nay. Minh bạch và giải trình khơng
giết chế sự sáng tạo AI.286<sub> Quá trình thực thi các nguyên tắc cũng gặp rất nhiều trở </sub>


ngại, như: các chủ thể có nhận thức hạn chế về trách nhiệm của họ trong việc bảo
đảm các quyền con người; khó khăn trong việc xác định những tác động thực tế của
các ứng dụng AI nào đó trong tương lai (đặc biệt khi công nghệ AI phát triển rất
nhanh và khó dự đoán); làm thế nào để có một biện pháp khắc phục hiệu quả đối
cho các tác động tiêu cực của AI đối với quyền con người.287


Quá trình xây dựng và thực thi các cơ chế kiểm sốt hiệu quả thường mất thời
gian và cơng sức. Đầu tiên, cần phải xây dựng các nguyên tắc hướng dẫn để xác định,
giảm thiểu và khắc phục các tác động bất lợi của AI đối với quyền con người. Trong
2 năm qua, bắt đầu xuất hiện các bộ nguyên tắc đạo đức AI. Bộ quy tắc AI Asilomar
được xây dựng năm 2017 là kết quả của i Hội thảo Asilomar về các lợi ích AI, đưa ra
các hướng dẫn đối với hoạt động nghiên cứu AI, các quy tắc đạo đức, giá trị mà việc
sử dụng AI phải tuân thủ, đồng thời gợi lên các vấn đề cần xem xét về dài hạn. Bộ
quy tắc này đã được ký bởi hàng nghìn các nhà nghiên cứu về AI và các lĩnh vực
khoa học khác. Cùng thời gian đó, Hiệp hội Máy tính Hoa Kỳ (ACM) đã ban hành
một tuyên bố và bộ bảy nguyên tắc về tính minh bạch và trách nhiệm của thuật toán,
nhằm giải quyết một vấn đề hẹp hơn nhưng có liên quan chặt chẽ về AI. Năm 2007
cũng được biết đến với sự ra đời của nhiều sáng kiến và bộ quy tắc khác về ứng xử


AI, như Bộ hướng dẫn Ứng xử của Tổ chức Xã hội Nhật Bản Vì Trí tuệ nhân tạo
(The Japanese Society for Antificial Interlligence) vào tháng 3/2017; Dự thảo Bộ
nguyên tắc từ Tuyên bố Montréal về trách nhiệm của AI vào tháng 11/2017 (Đại học
Montréal năm 2017); Các nguyên tắc chung về ứng xử của các hệ thống trí tuệ và tự
động của IEEE. Trong năm 2018, một số bộ quy tắc khác ra đời như Hợp tác về AI
năm 2018; 5 nguyên tắc AI ứng dụng cho liên ngành của Thượng viện Vương Quốc
Anh (Ủy ban lựa chọn về AI 2018); các nguyên tắc đạo đức AI của Google. Mặc dù
vậy, vẫn còn những hạn chế, như các quy tắc còn khá chung chung, chưa sát với thực


285<sub> Xem thêm: Access Now, “Human Rights in the Age of Artificial Intelligence”, </sub>


tr.32-35.
286<sub> Xem thêm: Access Now, “Human Rights in the Age of Artificial Intelligence”, </sub>


tr.36-37.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tế, việc xây dựng các bộ nguyên tắc này là một bước quan trọng trong việc bảo đảm
phát triển và sử dụng AI vì sự phát triển xã hội.288


Liên minh Châu âu mới đây nhất đã phát triển bộ quy tắc mới về đạo đức AI
vào tháng 8 năm 2019. Bộ quy tắc này đưa ra hướng dẫn để các công ty và chính
phủ phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo dựa trên 7 yêu cầu:


<b>Con người làm chủ và giám sát - AI không được chà đạp lên quyền tự chủ của </b>


con người. Mọi người không thể bị thao túng hoặc ép buộc bởi các hệ thống AI và con
người sẽ có thể can thiệp hoặc giám sát mọi quyết định mà phần mềm đưa ra.


<b>Sự an toàn về mặt kỹ thuật - AI phải an toàn và chính xác. Nó không thể </b>



dễ dàng bị xâm phạm bởi các cuộc tấn cơng bên ngồi, và nó đáng tin cậy một cách
hợp lý.


<b>Quyền riêng tư và quản trị dữ liệu - Dữ liệu cá nhân được thu thập bởi các </b>


hệ thống AI phải được bảo mật và riêng tư. Nó không thể được truy cập bởi bất cứ
ai, và nó không thể dễ dàng bị đánh cắp.


<b>Tính minh bạch - Dữ liệu và thuật toán được sử dụng để tạo ra một hệ </b>


thống AI có thể truy cập được và các quyết định được đưa ra bởi phần mềm phải
được hiểu bởi con người.


<b>Sự đa dạng, không phân biệt đối xử và công bằng - Các dịch vụ do AI </b>


cung cấp phải dành cho tất cả mọi người, bất kể tuổi tác, giới tính, chủng tộc hoặc
các đặc điểm khác. Tương tự, các hệ thống không thể mang định kiến theo các khác
biệt nêu trên.


<b>Sức khỏe xã hội và môi trường - Các hệ thống AI phải bền vững (nghĩa là </b>


chúng phải có trách nhiệm về mặt sinh thái) và tăng cường thay đổi xã hội tích cực.


<b>Trách nhiệm - Các hệ thống AI phải được kiểm toán và phải được trang bị </b>


bởi hệ thống bảo vệ những người tố cáo doanh nghiệp. Các tác động tiêu cực của
các hệ thống phải được nhận nên được nhận thức và báo cáo trước.


<b>Kết luận </b>



Sự phát triển và ứng dụng của AI là một xu thế phát triển của xã hội với
nhiều lợi ích. Tuy nhiên, nó cũng gây ra nhiều nguy cơ, thách thức đối với xã hội,
đặc biệt trong việc việc bảo đảm các quyền con người. Nếu không được nhận thức
đầy đủ và thực thi quyết liệt, hậu quả mà nó tạo ra có thể là rất lớn và không thể
lường trước. Sự phát triển của AI và công nghệ là rất nhanh, trong khi vấn đề quản
trị, chính sách pháp luật thì lại đi sau, chưa đáp ứng yêu cầu. Do vậy, công đồng
quốc tế và các quốc gia cần phải nỗ lực nhiều hơn trong việc thúc đẩy các nghiên


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>

<!--links-->

×