Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vần: vấn đẽ và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỞ RỘNG QUY MÔ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG </b>



<b>ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI </b>


<b>VÀ NHÀN VẦN: VẤN ĐẼ VÀ GIẦI PHÁP</b>



<i><b>Đảng bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vân</b></i>


<b>1. Thực trạng công tác tuyển sinh sau đại học</b>
<i><b>7.1. Kết quả đào tạo sau đại học</b></i>


Đào tạo sau đại học được Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn quan
tâm phát triến trong nhiều năm qua. Với định hướng phát triển thành trường đại học
nghiên cứu, hoạt động đào tạo sau đại học ở Nhà trường được đặc biệt quan tâm.
Thực hiện chủ trương chung của ĐHỌG Hà Nội, Nhà trường đã ban hành nhiều
chính sách hồ trợ thu hút học viên như: hỗ trợ học bổng; đào tạo nghiên cứu sinh
thơng qua các nhóm nghiên cứu, thu hút tạo nguồn học viên... Nhờ triển khai nhiều
giải pháp quyết liệt, việc tuyến sinh và chất lượng đào tạo sau đại học ở Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn không ngừng được nâng cao. Công tác đào tạo sau
đại học ở trình độ Tiến sĩ và Thạc sĩ của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - ĐHQG Hà Nội trong nhiều năm qua đã có nhiều thành tựu nối bật.


<b>Bảng 1. Quy mô tuyển sinh Tiến sĩ (2012 - 2017)</b>


<b>Khóa</b> 2012 2013 2014 2015 2016 2017


<b>Số lượng NCS</b> 61 142 139 148 134 109


<b>Tổng:</b> 733


Trong công tác tuyến sinh đào tạo Tiến sĩ, từ việc chỉ thu hút được khoảng 50 -
60N C S hàng năm giai đoạn 2005 - 2010, từ 2012 đến 2017 số lượng đã tăng đáng kể.


Nhà trường thu hút được lượng NCS đến học tập và nghiên cứu tại trường bình qn
lên trên 100 NCS. Tính tổng cộng, từ năm 2012 đến 2017 Nhà trường đã tuyển được
733 NCS, đứng đầu trong ĐHQG Hà Nội về số người học, góp phần khẳng định định
hướng xây dựng đại học nghiên cứu của ĐHQG Hà Nội nói chung cũng như của Nhà
trường nói riêng. So với các trung tâm đào tạo NCS thuộc lĩnh vực khoa học Xã hội
và Nhân văn khác như Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Nhà trường vẫn
đứng đầu về số lượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

thất thường về đầu vào cao học dưới tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ Đơng
Á năm 1997, so với năm 1993, năm thành lập Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, tính đến năm 2000, số lượng tuyển sinh và đào tạo có sự gia tăng mạnh
mẽ, tăng gấp 10 lần. Thành tựu này đạt được một phần nhờ việc trong hệ thống đào
tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn lúc đó vẫn cịn những ngành
rất “hot” như Kinh tế, Luật.


<b>Bảng 2. Quy mô tuyển sinh Thạc sĩ (1993 - 2001)</b>


<b>Nảm</b> <b>1993</b> <b>1994</b> <b>1995</b> <b>1996</b> <b>1997</b> <b>1998</b> <b>1999</b> <b>2000</b> <b>2001</b>


Số lượng 26 57 34 158 201 96 196 265 197


Từ năm 2000, khi các ngành Luật, Kinh tế trở thành các thành viên trực thuộc
ĐHQG Hà Nội, rút khỏi hệ thống các chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, công tác tuyển sinh, đào tạo của Nhà trường đứng trước
thách thức lớn khi các ngành có truyền thông tuyển sinh tốt này khơng cịn. Tuy
nhiên, nhờ nhanh nhạy nắm bắt xu thế của xã hội học tập, trào lưu của hệ thống giáo
dục quốc tế, Nhà trường đã chủ động xây dựng nhiều chương trình đào tạo Thạc sĩ
mới nhằm đảm bảo sự phát triến tồn diện, hài hịa trên tất cả các lĩnh vực hoạt động
của lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, góp phần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ
khoa học cơ bản, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng phục vụ cộng đồng, giải


quyết những vấn đề thực tiễn của đất nước. Nhờ đó, cơng tác tuyển sinh Thạc sĩ có
chuyến biến rất tích cực, số lượng người học tăng dần đều qua các năm và đạt đỉnh
cao vào năm 2012 với số thí sinh cao học trúng tuyển lên tới 901 người. Chỉ tính
riêng số trúng tuyến các chương trình đào tạo Thạc sĩ của Trường Đại học Khoa học
X ã hội và Nhân văn năm 2012 đã bằng cả giai đoạn 1993 - 2001 cộng lại.


<b>Bảng 3. Quy mô tuyển sinh Thạc sĩ (2002 - 2012)</b>


<b>Năm</b> <b>2002</b> <b>2003</b> <b>2004</b> <b>2005</b> <b>2006</b> <b>2007</b> <b>2008</b> <b>2009</b> <b>2010</b> <b>2011</b> <b>2012</b>


Số lượng 254 350 380 449 446 508 582 671 666 695 901


Việc triên khai đào tạo chât lượng cao, trình độ cao, bơi dưỡng nhân tài đê cung
cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và tham gia tái cơ cấu thị trường lao động, đặc
biệt là đào tạo sau đại học, luôn được Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
xem là nhiệm vụ trọng tâm. Qua đó, thể hiện vị thế vượt trội, vai trò nòng cột của Nhà
trường trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đồng thời tham gia thực hiện có
hiệu quả chủ trương của Đảng, Nhà nước là xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia
mạnh về nền giáo dục và đào tạo ớ khu vực, bắt kịp trình độ tiên tiến của thế giới,
tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế. Sự tăng lên của số lượng học viên
sau đại học giai đoạn 2012 - 2017 bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan:


<i>Thứ nhất, do nhu cầu học tập bậc cao của xã hội tăng lèn dưới tác động của các </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

của Đang và Nhà nước ta. Trên thực tế, nhiều cơ quan Nhà nước các cấp đã ban hành
chính sách tuyến dụng lao động theo hướng chuẩn hoá cán bộ được đào tạo ở trình
độ cao, đồng thời, thực hiện chính sách hỗ trợ học tập và đào tạo bậc sau đại học cho
nguồn nhân lực cơ hữu.



Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục quốc dân được bổ sung một nguồn không nhỏ
các trường đại học được thành lập mới (tính riêng từ 2002 đến nay đã có hơn 100
trường mới được thành lập). Từ đây cũng phát sinh nguồn nhu cầu lớn đối với đào
tạo sau đại học từ các đơn vị đào tạo chưa có đủ nhân lực được đào tạo ở trình độ
cao, phục vụ sự phát triển của các đơn vị này và đáp ứng các yêu cầu, qui định của
Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiêu chuẩn của giảng viên đại học, đặc biệt là
đào tạo Tiến sĩ.


<i>Thứ hai, nền kinh tế đất nước trải qua giai đoạn phát triển khó khăn dưới tác động </i>


của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế tồn cầu năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế sụt giảm khiến tình trạng thất nghiệp gia tăng trở thành bức tranh chung của kinh
tế thể giới giai đoạn 2009 - 2012. Trong điều kiện của một nền kinh tế có độ mở khá
lớn, trong đó có sự đóng góp ngày càng tăng của thương mại quốc tế và đầu tư trực
tiếp nước ngồi, nền kinh tế Việt Nam khơng tránh khỏi những tác động lớn ấy.


Tình trạng khó khăn trên thị trường lao động xuất hiện khi lực lượng lao động
hàng năm tiếp nhận khoảng 1,2 triệu người lao động mới trong khi tăng trưởng kinh
tế không đủ cao đe thu hút, sử dụng hết số lao động này. Qui luật xã hội và thực tiễn
tìm hiếu cho thấy có một bộ phận khơng nhỏ học viên sau đại học tiếp tục tham gia
quá trình học tập sau khi tốt nghiệp đại học nhằm tránh sự khó khăn của thị trường
lao động trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, đồng thời tích luỹ tri thức và nâng cao
giá trị bản thân thông qua những văn bằng cao hơn nhàm có vị thế tốt hơn khi quay
lại thị trường lao động hậu khủng hoảng. Điều này vơ hình chung cũng tạo ra nguôn
cầu học tập sau đại học khá lớn không chỉ riêng trong khối khoa học xã hội và nhân
văn, đặc biệt là đào tạo Thạc sĩ. Thống kê cho thấy đây là giai đoạn vàng trong tuyến
sinh và đào tạo sau đại học của nhiều đơn vị đào tạo có uy tín trong cả nước.


<i>Thứ ba, với sự quan tâm đầu tư lớn để triển khai chiến lược phát triển nguồn </i>



nhân lực, đội ngũ cán bộ, giảng viên của ĐHỌG Hà Nội nói chung và của Nhà
trường nói riêng, trong 10 năm đã phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng.
Với qui mô 380 giảng viên hiện tại, Nhà trường có đủ cơ sở đáp ứng yêu cầu về
chất lượng đào tạo ngày càng cao dưới tác động của tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi
của người học trong bối cảnh cách mạng công nghệ thông tin diễn ra mạnh mẽ. Tỷ
lệ giảng viên có học vị Tiến sĩ đạt trên 65%, số giảng viên có học hàm Giáo sư và
phó Giáo sư đạt trên 28% tông sổ giảng viên, tạo ra uy tín khoa học và đảm bảo
chất lượng đào tạo, tăng cao sức hút của Nhà trường trong công tác tuyến sinh sau
đại học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

quan trọng, góp phần chứng minh chất lượng đào tạo mà người học có thể tiếp nhận.
Hơn nữa, phần lớn số giảng viên của Nhà trường đều tham gia quá trình đào tạo sau
đại học tại các đơn vị tố chức đào tạo sau đại học (hiện tại cũng có hơn 100 giảng viên
đang theo học các chương trình SĐH tại trường), điều này cũng tạo ra nguồn nhu cầu
khá lớn đối với đào tạo sau đại học trong những năm qua.


<i>Thứ tư, cùng với việc thành lập mới các đơn vị đào tạo trực thuộc, hoàn thiện </i>


cấu trúc tổng quát trong nghiên cứu và đào tạo các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội
và nhân văn, Nhà trường đã thực hiện chiến lược phát triển các chương trình đào tạo
mới, phù họp với xu thế chung của đào tạo và nghiên cứu trong khu vực và quốc tế.
Đồng thời, với mục tiêu xây dựng đại học định hướng nghiên cứu, trong đó, tỷ lệ học
viên sau đại học phải đáp ứng yêu cầu chiếm khoảng 25% tổng số người học trở lên,
Nhà trường đã tập trung đầu tư xây dựng các chương trình đào tạo sau đại học mới.
Trong 10 năm qua, Nhà trường đã đưa vào giảng dạy và cấp bằng sau đại học cho
hàng chục chương trình đào tạo mới, đưa số chương trình đào tạo sau đại học của
Nhà trường lên 72 chương trình (bao gồm 41 CTĐT Thạc sĩ, 31 CTĐT Tiến sĩ). Điều
này một mặt phản ánh sự phát triển đồng bộ và toàn diện trong cấu trúc đào tạo của
Nhà trường, làm gia tăng độ che phủ các lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo thuộc khối
khoa học xã hội và nhân văn, mặt khác tạo ra nguồn lực mới thu hút học viên sau đại


học thông qua việc đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng đa dạng của xã hội học tập và
thị trường lao động.


Hiện tại, tuy quy mô đào tạo sau đại học (25%) có giảm so với giai đoạn trước,
song tỉ lệ này vẫn đạt chỉ số của đại học nghiên cứu.


<i><b>7.2. M ột s ố vấn đề phát sinh</b></i>


Sau khi đạt qui mô tuyển sinh sau đại học rất tích cực giai đoạn 2002 - 2012,
trong vài năm trở lại đây, số lưọng tuyển sinh sau đại học có sự sụt giảm ở tất cả các
bậc đào tạo. Đối với đào tạo Tiến sĩ, trong 3 năm trở lại đây số NCS giảm tò mức
142 NCS năm 2013 xuống còn 107 năm 2017 (giảm trên 30%). Thậm chí đợt tuyển
sinh năm 2019 số lượng còn giảm mạnh hơn, chỉ có 50 hồ sơ NCS đủ điều kiện trúng
tuyển (giảm trên 50% so với năm 2017). Mặc dù đạt chỉ tiêu do ĐHQG Hà Nội giao,
song thực chất vẫn là sự sụt giảm mạnh. Đợt tuyển sinh đầu tiên của năm 2020 cũng
chưa cho thấy bất cứ dấu hiệu khả quan nào khi chỉ có 24 hồ sơ NCS đủ điều kiện.


<b>Bảng 4. số lượng tuyển sinh cao học (2013-2019)</b>


<b>Năm</b> <b>2013</b> <b>2014</b> <b>2015</b> <b>2016</b> <b>2017</b> <b>2018</b> <b>2019</b>


Số <b>lượng</b> 681 443 453 405 426 403 348


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

ch nh giảm (400 chi tiêu). Đợt tuyển sinh đầu tiên cúa năm 2020 vần cho thây tình
hìrh chưa cải thiện khi mới chỉ có chưa đến 150 học viên trúng tuyên. Mặc dù so với
tỷ lệ chung trong ĐHỌG Hà Nội, tỷ lệ tuyển sinh này vẫn ở mức cao, song thực tiễn
tu 'ể n sinh đặt ra rất nhiều vấn đề.


Việc sụt giảm trong công tác tuyển sinh thạc sĩ một mặt gây ra khó khăn tài chính
ch ỉ Nhà trường, mặt khác khiến mục tiêu xây dựng đại học nghiên cứu cũng gặp


nh:ều thách thức. So với năm 2012, tỷ lệ học viên sau đại học trên tống số người học
g ia n mạnh, từ khoảng 40% xuống còn 25% hiện tại. Cũng so với cùng kỳ năm, tính
đến 2019, Nhà trường đã có thêm 11 chương trình đào tạo Thạc sĩ mới, thế nhưng
tuvển sinh chưa đạt 50% mức của năm 2012. Điều này dần tới hiệu quả của việc
mơ mới chương trình đào tạo không cao. Hơn nữa, một số chương trình đào tạo có
qui mơ tuyển sinh rất thấp, thậm chí một số chương trình đào tạo đã nhiều năm liền
không tuyển được học viên, đứng trước nguy cơ phải dừng, đóng chương trình.


Sự suy giảm của số lượng học viên sau đại học bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan trong thời gian qua:


<i>Thứ nhất, do sự bão hoà của thị trường lao động đối với nhu cầu lao động có </i>


trình độ sau đại học. Trong 10 năm qua, Nhà trường đã đào tạo và cấp bằng cho hơn
5.500 Thạc sĩ, cho hơn 600 Tiến sĩ.


Bên cạnh đó, hàng loạt các cơ sở đào tạo khác trong cả nước cũng cung cấp cho
thị trường lao động hàng vạn lao động được đào tạo sau đại học ở những ngành nghê
có mối liên quan đối với khoa học xã hội và nhân văn như Học viện Khoa học Xã hội
(thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), các trường đại học vùng như Đại học
Thái Nguyên, Đại học Vinh, Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Tp. Hồ Chí M inh,...
Điều này khiến cho nhu cầu đối với đào tạo sau đại học sụt giảm


<i>Thứ hai, gần đây Đảng và Nhà nước, Chính phủ liên tiếp ban hành các chủ </i>


trương, chính sách nhằm hướng tới xây dựng và hồn thiện một bộ máy hành chính
cơng gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả. Hàng loạt biện pháp nhằm tinh giản bộ máy hành
chính theo hướng gọn nhẹ và tăng cường tính hiệu quả đã được triến khai. Theo
tinh thần các Nghị quyết 18 và 19 của BCH TƯ Đảng và các Thông tư mới của Bộ
Nội vụ, đến 2020 sẽ cắt giảm khoảng 10% tồng biên chế hành chính - sự nghiệp,


giai đoạn 2021 - 2025 giảm tiếp 10% nữa. Việc thực hiện quyết liệt các chính sách
này, vơ hình chung, cũng gây ra sự triệt tiêu một phần nhu cầu đào tạo sau đại học
của xã hội.


<i>Thứ ba, các qui định, qui chế mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Thông tư 08/2017) </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tiến sĩ tuyển được nghiên cứu sinh. Nhiều ngành có truyền thống tuyển sinh tốt như
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam thậm chí khơng tuyển được ứng viên nào. Tính
đến đợt tuyến sinh gần nhất, tháng 6/2020 vừa qua, tình hình vẫn chưa được cải thiện
khi có tới 29 chuyên ngành đào tạo Tiến sĩ không tuyển được nghiên cứu sinh nào.


<i>Thứ tư, do sự chậm trễ đối mới chương trình đào tạo cũng như nội dung và </i>


phương pháp giảng dạy, hướng dẫn của nhiều chuyên ngành đào tạo. Thực tế cho
thấy nhiều chương trình đào tạo sau đại học có hệ thống học liệu lạc hậu, thiếu cập
nhật (có những học phần tài liệu tham khảo mới nhất phát hành vào năm 1964); nhiều
học phân không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội học tập, không đáp ứng yêu
cầu chuẩn đầu ra của toàn bộ chương trình. Thậm chí một số chương trình đào tạo
khơng cịn phù hợp với nhu cầu học tập của thị trường lao động, dẫn tới việc không
tuyến sinh được, hoặc tuyển được rất ít, khơng hiệu quả về mặt tài chính khi triển
khai đào tạo.


<i>Thứ năm, việc đổi mới, xây dựng CTĐT mới đang gặp trở lực từ cấu trúc tổ </i>


chức của Nhà trường. Hiện tại với 385 giảng viên có trình độ cao (110 GS và PGS,
138 Tiến sĩ) Nhà trường có thể mở nhiều hơn các CTĐT mới so với hiện tại. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy nhân lực hiện tại đang “dư thừa” ở nhiều đơn vị không tuyển
sinh được, trong khi đó, một số đơn vị đang có nhu cầu học tập lớn của xã hội lại
khó tăng thêm chỉ tiêu tuyển sinh do gặp giới hạn về cán bộ cơ hữu (ví dụ như ngành
Báo chí, Khoa học Quản lý ,...) dẫn tới hạn chế trong quy mô đào tạo sau đại học


của Nhà trường.


<i>Thứ sáu, sự bùng nổ của nhu cầu học tập bậc cao của đào tạo sau đại học giai </i>


đoạn 2010 - 2015 khiến nảy sinh tâm lý tự mãn về vị thế của Nhà trường, về chất
lượng đào tạo thực chất, tạo khơng khí “ngồi chờ” người học của một bộ phận cán
bộ, giảng viên trong trường. Sự thiểu chủ động này dẫn tới chính sách hỗ trợ người
học thiếu hoặc không đủ mạnh để thu hút ứng viên trong bối cảnh nhiều đơn vị đào
tạo khác đẩy mạnh truyền thơng và chính sách hỗ trợ học viên.


<b>2. Một số giải pháp đã triển khai</b>


Nhằm tăng cường hiệu quả và khai thác tốt các CTĐT sau đại học, Nhà trường,
đã triên khai nhiều biện pháp hạn chế xu hướng sụt giảm về tuyển sinh và đào tạo.
Bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy, Nhà trường đã thực hiện một
số giải pháp tương đối đồng bộ, cụ thể:


<i>Thứ nhất, phát huy vai trò của các nhóm nghiên cứu (NNC) mạnh. Hiện tại </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tăng. Không chỉ tạo sức hút bằng việc gợi mở hướng nghiên cứu cho NCS, các NNC
chủ động kết hợp công bố nghiên cứu với nghiên cứu sinh, hồ trợ cho nghiên cứu
sinh đảm bảo đu điều kiện về cơng bố cơng trình khoa học.


Có thê nêu ra một số ví dụ tiêu biếu: nhóm nghiên cứu Tơn giáo và Pháp quyên
<i>đang hướng dẫn các luận án tiến sĩ: “Vấn đề nhà nước thế tục ở Việt Nam trong </i>


<i>tiến trình đơi mới đường loi, chính sách tôn giáo ”, “Tiếp tục đơi mới chính sách </i>
<i>tơn giáo với nhu cầu phát triền bền vững xã hội ở Việt Nam hiện nay ”, “Quan hệ </i>
<i>quốc tế của cộng đồng Hồi giáo Việt Nam ”....; nhóm nghiên cứu Lịch sử và quan </i>



<i>hệ thương mại châu Á: “Hoạt động khai thác mỏ của người nước ngoài ở miên Băc </i>


<i>Việt Nam từ cuối thế kỷ X V II đến đầu thế kỷ X X ”, “Hoạt động của Công ty Đông </i>
<i>Ả n Anh ở Vương quốc Xiêm thế kỷ X V IF , “Nguôn ” trong các mối quan hệ kinh tê </i>
<i>khu vực và quốc tế của Đàng Trong thế kỷ XVI-XIX"', nhóm Cơng tác xã hội và An </i>


<i>sinh xã hội, “D ịch vụ hỗ trợ xã hội cho người cao tuôi tại Hà N ội” ; nhóm Nghiên </i>
<i>cứu Chính sách và Quản lí: “ 7ữc động của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư </i>


<i>đến chính sách công nghệ thông tin của ngành Mỏ”, “Chính sách phát triên nhân </i>
<i>lực nghiên cứu khua học cơ bản ớ Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp Viện Hàn lâm </i>
<i>Khoa học và Công nghệ Việt Nam) ..</i>


<i>Thứ hai, đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động công bố quốc tế nhằm cải thiện vị trí xếp </i>


hạng, qua đó nâng cao tính cạnh tranh trong tuyển sinh và đào tạo. Thực tiễn cho thấy
các đơn vị đào tạo trong nước (kế cả khối công lập và dân lập) ngày càng tăng cường
cho công tác này. Thực tế đó đặt ra những yêu cầu cấp bách cho Nhà trường trong
việc tìm giải pháp cụ thể để thúc đẩy công bố quốc tế cho giảng viên và NCS trong
bối cảnh quốc tê hóa và hội nhập giáo dục ngày càng sâu - rộng hiện nay.


Nhà trường đã ban hành cơ chế đầu tư để tạo ra những ấn phẩm quốc tế thuộc
nhiều cấp độ mang tính tập thể của các cán bộ và nghiên cửu sinh. Kinh phí đầu tư
được lấy từ nguồn phát triển khoa học của Nhà trường, trên cơ sở Nghị định 99/2014/
NĐ-CP về việc quy định đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa
học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học của chính phủ (25/10/2014) và
chỉ đạo của Đại học Quốc gia Hà Nội qua Công văn số 1028/ĐHQGHN-KHCN
(27/3/2018). Cụ thể chi 220 triệu/đầu sách trong danh mục ISI-Scopus hoặc trong
TOP 500 trường Đại học theo xếp hạng của Times Higher Education (THE); 200
triệu/đầu sách nằm trong danh mục A-B của SENSE; 180 triệu/đầu sách không nằm


trong 2 loại trên nhưng vẫn có ISBN chuẩn (khuyến khích in tại các NXB chuyên
ngành; các trường đại học trong TOP 2.000 của THE; hoặc hạng c của SENSE...);
150 triệu/đầu sách tiếng Anh là sản phẩm của hội thảo quốc tế (được tổ chức tại Nhà
trường) và được in chính thức tại một nhà xuất bản uy tín trong nước.


<i>Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính theo hướng “một cửa” giảm thiều thời gian </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>3. Một sô định hướng triển khai trong thời gian tới</b>


<i><b>3 .7. Quan điểm hành động</b></i>


Nhà trường đã kiên định mục tiêu phát triển Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn trở thành đại học nghiên cứu trong khuôn khổ ĐHQG Hà Nội, vừa phù
họp với xu thế phát triển đại học thế giới, vừa gắn với chiến lược quốc gia về phát
triên kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và các chủ trương
của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến đầu tư, phát
triến của ĐHQGHN. Quá đó, tiếp tục đầu tư cho công tác tuyển sinh và đào tạo sau
đại học, đảm bảo tỷ lệ đào tạo sau đại học là 25% trên tống số các loại hình đào tạo,
<i><b>đáp ứng tiêu chí đại học nghiên cứu. Nhà trường xác định nhiệm vụ trọng tâm là tiếp </b></i>


<i><b>tục đoi mới tồn diện cơng tác đào tạo sau đại học; đối mới, nâng cao hiệu quả </b></i>
<i><b>công tác quản lý đào tạo.</b></i>


<i>3.2. Hệ giải pháp</i>


<i>Thứ nhất, tiếp tục xây dựng các chương trình đào tạo sau đại học mới theo hướng </i>


tiếp cận gần gũi hơn nhu cầu của thị trường. Xác định và cân đối cấu trúc tổng thể
các CTĐT sau đại học của Nhà trường theo hướng củng cố và phát triển các chương
<i>trình đào tạo khoa học cơ bản truyền thống, đất nước có nhu cầu bên cạnh việc xây </i>


dựng các ngành có tính chất đáp ứng nhu cầu xã hội ngắn hạn; xây dựng các chương
<i>trình đào tạo liên ngành, xuyên ngành theo hướng ứng dụng, cung cấp nguồn nhân </i>
<i>lực cho một số lĩnh vực quan trọng của đất nước; các chương trình đào tạo mới có </i>
<i>tính ứng dụng, khả năng khởi nghiệp cao; các chương trình đào tạo liên kết quốc tế </i>
<i>hoặc có yếu tổ quốc tế, cung cấp cho người học kiến thức và kỹ năng thích ứng với </i>
mơi trường quốc tế.


Rà soát lại các CTĐT, kiên quyết loại bỏ các CTĐT khó tuyển sinh, khơng cịn
phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động. Tái sử dụng các nhân lực cua CTĐT
cũ, khuyến khích xây dựng các CTĐT mới có tiềm năng, triển vọng. Rà soát và loại
bỏ các học phần không phù họp với chuẩn đầu ra của CTĐT, có sự trùng lặp về nội
dung với các học phần khác.


<i>Thứ hai, tăng cường tính liên thơng, liên kết tồn diện giữa các đon vị đào tạo </i>


trong trường nhằm tiết giảm chi phí đào tạo, tận dụng tối đa nguồn lực chuyên gia tại
chỗ, đồng thời tháo gỡ được nút thắt về các qui định về nhân lực liên quan đến mở
mới, xây dựng mới chương trình đào tạo. Neu khơng có sự liên kết giữa cac đơn vị
nhằm sử dụng chung nguồn lực thì rất khó để mở các CTĐT mới bởi nếu tính riêng
từng ngành đào tạo của Nhà trường, nhiều đơn vị đã đạt điếm “tới hạn” về nhân lực
trong việc xây dựng CTĐT mới.


<i>Thứ ba, đầu tư cho công tác tuyến sinh nói chung và tuyến sinh sau đại học nói </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin đế minh </i><b>b ạ c h </b>hóa thơng tin, đơn giản thủ
tục hành chính và nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý đào tạo. Thường xun rà sốt
quy trình đào tạo, xây dựng qui định và tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đê
đảm bảo công tác quản lý và tổ chức đào tạo theo đúng quy định. Đầu tư cho công
tác biên soạn học liệu sau đại học, cân đối tỷ lệ giữa các nguồn học liệu liên quan như
bài giảng, giáo trình, tài liệu dịch. Quan tâm hơn tới chất lượng biên soạn bài giảng


và tăng cường số hóa học liệu.


<i>Thứ năm, tập trung triển khai thực hiện tốt Đe án “Đổi mới đào tạo tiến sĩ tại </i>


ĐHỌGHN” theo hướng nâng cao chuẩn đầu ra và đổi mới quy trình đào tạo tiến sĩ
theo tiếp cận từng bước với các chuẩn mực quốc tế, gắn đào tạo tiến sĩ với đơn vị
chun mơn (bộ mơn, phịng thí nghiệm) và nhóm nghiên cứu. Căn cứ thực tiễn đào
tạo NCS trong khu vực và trên thế giới, đề nghị các cấp có thẩm quyền điều chỉnh
các tiêu chí đầu vào phù hợp hơn đối với những ngành, lĩnh vực đặc thù, phù hợp với
những biến đổi trong hệ thống đào tạo.


<i>• k </i> <i>" k </i> <i>'k</i>


</div>

<!--links-->

×