Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.09 KB, 15 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>GS.TS. Phạm Hồng Thái – ThS. NCS. Nguyễn Anh Đức </b></i>
<i>Khoa Luật ĐHQGHN </i>
<i><b>Tóm tắt: Bài viết khái quát các trường phái khoa học pháp lí trên thế giới và đưa ra </b></i>
một số nhận định về sự ảnh hưởng của những trường phái này cũng như của nền luật học
Xô viết đến luật học và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là khoa học luật Hiến pháp Việt Nam
qua các thời kỳ. Tác giả cho rằng, những biểu hiện của nền luật học Việt Nam hiện nay
phản ánh sự cấy ghép của nhiều trường phái khoa học pháp lí khác nhau. Điều đó xuất
phát một phần từ bối cảnh lịch sử nhưng cũng là lựa chọn phù hợp với những quốc gia nhỏ
như Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay. Tác giả sẽ cố gắng lí giải những
yếu tố lịch sử khách quan và chủ quan đã ảnh hưởng đến các diễn biến này. Trên cơ sở đó,
tác giả sẽ nhận định về một số thách thức và nhu cầu đổi mới trong khoa học pháp lí phù
hợp với điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
<b>Đặt vấn đề </b>
Trong lịch sử tư tưởng, có nhiều trường phái khoa học khác nhau về pháp luật, nhưng
mỗi trường phái cũng chỉ có thể phản ánh khía cạnh này hay khía cạnh khác của pháp luật –
một hiện tượng đa diện phức tạp. Nhưng mỗi trường phái lại có những tác động nhất định đến
pháp luật, đời sống pháp luật của các quốc gia qua các thời đại. Nói cách khác, sự tồn tại của
nhiều trường phái khoa học pháp lý khác nhau cũng hướng tới phục vụ con người. Đúng như
<i>Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ―Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của của cuộc sống, loài </i>
<i>người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn </i>
<i>giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các </i>
<i>phương thức sử dụng‖559</i>
<i>. Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn khơng nên tuyệt đối hóa bất kỳ </i>
<b>1. Các trƣờng phái pháp luật trên thế giới </b>
<i><b>1.1. Trường phái pháp quyền tự nhiên </b></i>
Trường phái pháp quyền tự nhiên560
hình thành rất sớm trong lịch sử nhân loại, ngay từ
thời Hy lạp, La mã cổ đại. Arixtốt (Aristotel 384-332 trước Công nguyên) quan niệm pháp
quyền phải là sự suy diễn từ sự hài hòa của trật tự tự nhiên. Xixêrôn (Cicéron, 106-43 trước
Công nguyên) trong tác phẩm ―Về nền cộng hòa‖ (De republica) cho rằng cao hơn pháp luật do
con người sáng tạo ra (pháp luật thực định) là luật bất biến và vĩnh cửu của tự nhiên. Nhiều nhà
luật học La mã cổ đại cũng đã coi pháp quyền là công lý gắn với bản chất tự nhiên của con
người. Như vậy, bản chất xã hội của con người không thể tách rời khỏi bản chất tự nhiên của
chính con người và bản chất tự nhiên của con người quyết định bản chất xã hội của con người.
Trên cơ sở những triết lý, tư tưởng pháp quyền tự nhiện thời cổ đại, ở phương Tây vào
thế kỷ XVII- XVIII hình thành trường phái pháp quyền tự nhiên, mà đại biểu là: Grôxi,
T.Hôpxơ, J. Lokk, S.L Vônte, S. L.Môngteskiơ, J.J. Rút xô, A.N. Rađưxév và nhiều tác giả
khác561. Tư tưởng pháp quyền tự nhiên trở thành tư tưởng chiếm ưu thế trong tư tưởng chính
trị - pháp lý châu Âu lúc bất giờ. Trường phái pháp quyền tự nhiên xuất phát từ quan niệm
cho rằng trong đời sống xã hội có sự tồn tại của hai hệ thống pháp quyền: pháp quyền tự
nhiên và pháp luật thực định. Trong đó pháp quyền tự nhiên được coi là những chuẩn mực,
công lý bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của con người, được hình thành từ những ngun tắc
của đạo lý, vì vậy nó cơng bằng, khơng thể bị hạn chế bởi nhà nước, nó phổ biến ở mọi thời
đại và mọi dân tộc. Pháp quyền tự nhiên tồn tại vĩnh cửu và không hề bị thay đổi như là sự
vĩnh cửu của tự nhiên thiên nhiên. Những tư tưởng, nguyên tắc đạo đức, pháp lý cơ bản của
các đạo luật được hình thành trên cơ sở của lý thuyết này coi những quyền: tự do, bình đẳng,
gia đình, sở hữu, an toàn, chống áp bức... là những quyền tự nhiên vốn có của con người
Hồ Chí Minh. Tồn tập. NXB. Chính trị Quốc gia. HN. 2002. Tập 3, tr. 434.
560
Xem: Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB ―Sách pháp lý‖. M. 1974, tr. 119 – 138; 138- 215 (sách tiếng Nga);N.I. Matuzova
TSKH,GS (chủ biên), Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB. Iurixt. Maxcơva. 2001.tr.130 – 145 (sách tiếng Nga).
không thể bị tước đoạt, và do đó mọi nhà nước đều phải bảo vệ những quyền này của con
người. Còn pháp luật thực định là những quy tắc được thừa nhận chính thức, tồn tại trong nhà
nước này hay nhà nước khác được thể hiện trong các đạo luật và các văn bản pháp luật khác
của các cơ quan nhà nước, trong đó có cả những tập quán đã được nhà nước phê chuẩn thừa
nhận. Pháp luật do nhà nước đặt ra - pháp luật thực định phải phù hợp với pháp quyền tự
nhiên là cái vốn có, cái tối thượng trong xã hội. Vì vậy, nhà nước cùng với các cơ cấu của nó
phải tuân thủ pháp quyền tự nhiên và việc tuân thủ pháp quyền tự nhiên chính là tuân thủ quy
luật của đời sống tự nhiên, xã hội của con người.
<i><b>1.2. Trường phái lịch sử pháp luật </b></i>
Trường phái lịch sử pháp luật562
hình thành vào khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XIX
ở Đức, các đại biểu của trường phái này như – G. F. Guxta, Cavin, Phuxta, đã phủ nhận
trường phái pháp quyền tự nhiên và coi đó như là sự phản động đã sinh ra cách mạng Pháp.
Họ phủ nhận khả năng tồn tại những quyền chung của mọi dân tộc và cho rằng dân tộc Đức
cũng như các dân tộc khác có quyền riêng của mình, quyền của dân tộc này khác với quyền
của dân tộc khác bởi lịch sử đã hình thành ra nó. Quyền của từng dân tộc là sự biểu hiện ―ý
thức chung‖, ―niềm tin chung‖ của họ, là kết quả của quá trình lịch sử lâu dài và như là
―nguồn sữa mẹ‖ được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Những người theo trường phái này quan niệm vai trò quyết định sự hình thành pháp
luật thuộc về sự điều chỉnh của thượng tầng kiến trúc, sự hình thành pháp luật được ví với sự
hình thành các quy tắc trò chơi, vốn được xác lập dần dần trên cơ sở thực tiễn. Vì vậy, các
đạo luật khơng phải là nguồn duy nhất và càng không phải là cơ sở của pháp luật, mà là các
tập quán truyền thống, điều này được họ lý giải rằng nhiều người không biết các quy định của
luật, nhưng lại biết rất rõ về trật tự của đời sống xã hội đã tồn tại. Cách lý giải như vậy, trong
một chừng mực nhất định là có lý vì con người cụ thể có thể khơng biết pháp luật – những
quy định của nhà nước, nhưng mọi hành vi hoạt động của họ do các quy tắc truyền thống, hay
tập quán, đạo đức điều chỉnh. Họ xử sự theo những chuẩn mực đó trong nhiều trường hợp
cũng phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay nếu quá nhấn mạnh quan
điểm này cũng dễ dẫn đến sự ―khép kín‖ trong nhận thức, và khó hịa nhập vào thế giới
phẳng, thế giới mở.
<i><b>1.3. Trường phái quy phạm học (pháp luật thực chứng) </b></i>
Dưới sự ảnh hưởng của triết học I. Kant, trường phái quy phạm học563
xuất hiện vào
thế kỷ XIX như là lý thuyết trung dung, đã sử dụng lý thuyết pháp quyền tự nhiên vốn thừa
nhận pháp luật bắt nguồn từ đạo đức và pháp luật thực định là do nhà nước ban hành hay thừa
nhận. Những người theo trường phái quy phạm học quan niệm pháp luật là những địi hỏi bắt
buộc chung của ý chí, khơng hề chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố bên ngoài nào.
N.I. Matuzova TSKH,GS (chủ biên), Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB. Iurixt. Maxcơva. 2001.tr.130 – 145 (sách tiếng
Nga) Lý luận nhà nước và pháp luật. NXB. Iurixt. Maxcơva. 2001.tr.130 – 145 (sách tiếng Nga).
Sự ra đời của trường phái quy phạm học pháp luật đã góp phần củng cố pháp chế, trật
tự nhà nước và hạn chế sự tuỳ tiện của quan tòa và các cơ quan hành chính. Chính trường phái
quy phạm học đã hình thành nên quan niệm về nhà nước pháp quyền, tư tưởng tự hạn chế
quyền lực nhà nước bằng luật. Nhưng vào cuối thế kỷ thứ XIX và hai mươi năm đầu thế kỷ
XX trường phái quy phạm học đã có những thay đổi căn bản của nó. G. Kenzen và những
người ủng hộ ông quan niệm pháp luật chỉ thuần tuý là những quy phạm pháp lý tách rời khỏi
đời sống chính trị, kinh tế, xã hội... Những người theo trường phái này xuất phát từ một thực
tế là các quy phạm pháp luật xuất hiện và phát triển không phải do đời sống xã hội hiện thực
quyết định, mà do chính sự quy định chính thức của nhà nước, từng quy phạm pháp luật có
hiệu lực đối với xã hội và hiệu lực có tính thứ bậc của nó trong các văn bản quy phạm pháp
luật theo hình tháp, tuỳ theo địa vị của cơ quan đã ban hành ra nó.
Chống lại lý thuyết pháp quyền tự nhiên, G. Kenzen khẳng định rằng, pháp luật tồn tại
không dựa vào bất kỳ một cái gì khác, ngồi dựa vào nhà nước, tính bắt buộc của các quy
phạm pháp luật không bắt nguồn từ đạo đức mà bắt nguồn từ quyền uy nhà nước. G. Kenzen
coi pháp luật là ― tổng thể các quy phạm pháp luật của sự cần thiết trừu tượng hóa‖. Quan
điểm này cũng có những hạn chế của nó là nếu nhấn mạnh vai trị chủ quan của nhà nước
trong ban hành pháp luật cũng dễ dẫn đến sự tùy tiện, duy ý chí, đơi khi vì ―sự độc ác‖ của
nhà cầm quyền, mà đưa cả dân tộc vào trật tự chật hẹp; sự tự do, dân chủ bị hạn chế; quyền
con người, quyền côn dân dễ bị xâm phạm.
<i><b>1.4. Trường phái hội học pháp luật </b></i>
Trường phái xã hội học pháp luật564
là tiền thân của ―trường phái pháp luật tự do‖, đấu
tranh cho ―pháp luật sống của nhân dân‖, vốn quan niệm pháp luật không phải dựa trên các
đạo luật, mà trên cơ sở sự tự phán quyết của quan tòa.
Trường phái xã hội học pháp luật là một khuynh hướng cơ bản của khoa học pháp lý ở
nhiều quốc gia trên thế giới, về hình thức chống lại trường phái coi pháp luật là kết quả của sự
<i><b>1.5. Trường phái duy vật lịch sử - trường phái Mác </b></i>
Sự xuất hiện của trường phái này thường được gắn với tên tuổi của C. Mác và Ph.
Anggen, nên đôi khi người ta quên rằng, trước đó đã có những nhà tư tưởng như L.Moóc
găng và những người khác đã bàn luận về những vấn đề căn bản của trường phái duy vật lịch
sử pháp luật565
.
Trường phái duy vật lịch sử dựa trên cơ sở triết học biện chứng và duy vật coi pháp
luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Pháp
luật chịu sự tác động quyết định của các điều kiện kinh tế, đồng thời pháp luật tác động ngược
lại các quan hệ kinh tế - xã hội. Các Mác viết ―Trong thời đại nào cũng thế, chính vua chúa
phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều
kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như dân sự là cái việc nói
lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế‖566
.
C. Mác và Ph.Anggen cho rằng trong điều kiện như vậy, các cá nhân thống trị cần
phải hiến pháp hóa sức mạnh của mình dưới dạng nhà nước, họ cần phải tạo cho ý chí của
mình, vốn chịu sự quyết định của các quan hệ này, biểu hiện dưới dạng quyền lực nhà nước,
dưới dạng các đạo luật- sự biểu hiện, nội dung của nó ln ln phản ánh các quan hệ của giai
cấp này. Việc khẳng định bản chất giai cấp của pháp luật, thực chất là nhìn nhận pháp luật từ
khía cạnh chính trị, xã hội học của pháp luật.
Trường phái Mác xem xét pháp luật luôn gắn liền với nhà nước, do nhà nước ban
hành, bảo đảm thực hiện, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nội dung, hình thức
của pháp luật chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế, điều kiện tồn tại của giai cấp thống
trị. Nếu so sánh trường phái Mác với các trường phái pháp luật nói trên có thể nhận thấy
những tương đồng và những khác biệt. Trường phái Mác như là sự kế thừa của trường phái
quy phạm học, trường phái ý chí, trường phái duy vật lịch sử, nhưng khác nhau căn bản là
pháp luật không thuần tuý là sản phẩm của sự tư duy trừu tượng, sản phẩm của ý chí con
người, mà nguyên nhân ra đời, phát triển của pháp luật là do những điều kiện vật chất, điều
kiện kinh tế quyết định, những thay đổi của điều kiện, quan hệ kinh tế dẫn đến những thay đổi
của pháp luật.
Trường phái Mác về pháp luật có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển nhận thức vật chất
về pháp luật, là trường phái chính thống được đưa vào giáo khoa ở Việt Nam, chi phối cách tiếp
cận, giải quyết các vấn đề về pháp luật, nhà nước và các hiện tượng xã hội khác. Tuy vậy, cũng
cần phải nhận thấy rằng ngoài cơ sở kinh tế, pháp luật còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp của nhiều nhân tố khác: chính trị, đạo đức, truyền thống quốc gia, dân tộc, điều kiện tự
nhiên, thiên nhiên, quan hệ quốc tế, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ.
<i><b>1.6. Trường phái pháp luật Xô viết (Liên Xô) </b></i>
Trường phái pháp luật Xô viết567
sau Cách mạng Tháng Mười Nga Vĩ đại hình thành
Xem: A. G. Kha bibulin TSKH, GS; V.V.Lazarev,TSKH,GS, hoạt động khoa học công huân, Lý luận nhà nước và pháp luật
(tái bản lần thứ ba, có sửa chữa, bổ sung) Nxb, „Pho Rum – Infra‖, Maxcơva, 2009,tr, 57 (sách tiếng Nga).
566
C. Mác, Sự khốn cùng của triết học, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1971,tr,93.
trên cơ sở học thuyết Mác về nhà nước và pháp luật, nhưng trong một chừng mực nhất định
cũng chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái pháp luật ở các nước Châu âu lục địa, đặc biệt là
trường phái ―quy phạm học pháp luật‖. Các nhà bác học - luật học nổi tiếng ở nước Nga như
M.A.Apgianôv, M.M. Agarkov, C.A.Golunxky, N.N.Nolianxky, M.C. Xtrogovích, N.G.
Alekxanđrov, C.N. Bratuxơ và nhiều người khác, vào cuối những năm ba mươi đầu những
năm 40 thế kỷ XX bằng mọi cố gắng của mình cố chứng minh pháp luật là hệ thống các quy
phạm pháp lý tồn tại trong nhà nước. Trải qua bao biến cố thăng trầm nhưng nhận thức quy
phạm về pháp luật vẫn là một giá trị, thành tựu của trường phái pháp luật này, mặc dù trường
phái này cũng có những hạn chế nhất định của nó là đã nhấn mạnh nhiều tới tính giai cấp, tính
ý chí giai cấp của pháp luật. Bên cạnh trường phái quy phạm học pháp luật, vào cuối những
năm ba mươi - bốn mươi, sau đó vào những năm năm mươi thế kỷ XX, các nhà khoa học
khác như: C.Ph.Ketrekian và A.A. Piontkốpxky cho rằng cần phải hiểu pháp luật gồm cả quy
phạm pháp luật và quan hệ pháp luật. Về sau, IA. Ph. Mikolenko còn đưa vào định nghĩa pháp
luật cả ý thức pháp luật. Thực chất của điều này là muốn mở rộng khái niệm pháp luật, khơng
khác gì với trường phái xã hội học pháp luật ở Châu Âu và Mỹ như đã nêu ở trên. Thực chất ở
đây, các nhà luật học đi tìm cơng lý, cơng bằng khơng chỉ ở các quy tắc, quy định- trạng thái
tĩnh của pháp luật, mà cịn đi tìm cơng lý, cơng bằng ở các hiện tượng pháp luật - pháp luật
trong hành động. Điều này phù hợp với thực tiễn cuộc sống vì rằng cùng một chuẩn mực pháp
Vào cuối những năm sáu mươi, đầu những năm bẩy mươi thế kỷ XX ở Liên xô lại nẩy
sinh những cuộc tranh luận sôi nổi về pháp luật. Trong ―Hội nghị bàn trịn‖ do tạp chí ―Nhà
nước xơ viết và pháp luật‖ tổ chức người ta đã không những không tìm được tiếng nói chung
về pháp luật mà ngược lại còn khẳng định rằng cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra chân lý
và các quan điểm về pháp luật cần phải xích lại gần nhau.
Ngày nay ở nước Nga, những vấn đề lý luận về pháp luật, các hiện tượng pháp luật
vẫn kế thừa, phát triển lý luận Xô viết trước đây – trường phái quy phạm học, nhưng bổ sung
vào khái niệm pháp luật những yếu tố khác ngoài các quy phạm pháp luật, coi pháp luật bao
gồm các yếu tố: quy phạm pháp luật, ý thức pháp luật, quan hệ pháp luật và các văn bản áp
dụng pháp luật568
.
Bên cạnh những trường phái phổ biến nêu trên, còn nhiều trường phái khác như:
trường phái: tâm lý học pháp luật, kinh tế học pháp luật.
568
<b>2. Sự ảnh hƣởng của một số trƣờng phái pháp luật đến khoa học pháp lý ở Việt </b>
<b>nam hiện nay </b>
Khoa học pháp lý ở Việt Nam là ngành khoa học phát triển chậm so với các khoa học
khác và chịu ảnh hưởng của nhiều trường phái pháp luật khác nhau trên thế giới, chủ yếu là từ
các nước phương Tây, qua những con đường, cơ chế khác nhau. Sự ảnh hưởng có thể được
nhìn thấy thơng qua ba phương thức: ―một là sự áp đặt của bên gây ảnh hưởng đối với bên
chịu ảnh hưởng; sự tiếp nhận chủ động của bên tiếp nhận; và cuối cùng là ảnh hưởng bởi hấp
lực tự nhiên như con người ta vẫn thường hấp dẫn nhau bởi những giá trị của chính mình‖569
.
Chẳng hạn như trong thời kỳ pháp thuộc, pháp luật thực định và khoa học pháp lý Việt Nam
chịu sự ảnh hưởng của pháp luật, tư tưởng pháp luật Pháp theo cơ chế áp đặt: ―pháp luật Pháp
đã ―theo chân‖ đội quân xâm lược và thực dân của Pháp. Sau khi giành được độc lập, chúng
ta lại thấy có ―sự tiếp nhận chủ động tư tưởng pháp luật tiến bộ‖ (như thể hiện ở bản Tun
ngơn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay trong Hiến pháp 1946) cũng như sự hấp dẫn tự
nhiên thơng qua ―q trình hợp tác trong khn khổ hỗ trợ pháp luật của Chính phủ Pháp‖570
.
<i><b>2.1. Sự ảnh hưởng của trường phái pháp quyền tự nhiên </b></i>
Trường phái pháp quyền tự nhiên trong một chừng mực nhất định có ảnh hưởng đến
tư tưởng của các nhà lập hiến Việt Nam, đến tư tưởng lập Hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khơng ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn quan điểm của Thô-mát
Gie-phec-xơn (Thomas Jeffeson) - nhà khai sáng vĩ đại trong lịch sử đấu tranh giải phóng của nhân dân
Mỹ, và đưa vào Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam: ―Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc‖571<sub>. Từ quyền tự nhiên của con </sub>
người Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển, khái quát nâng lên thành quyền của dân tộc, Người
viết: ―Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do‖572<sub>. Đây là sự sáng tạo </sub>
cách mạng, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về pháp quyền tự nhiên, quyền con người, từ
quyền tự nhiên, quyền con người của cá nhân đã được nâng lên quyền tự nhiên, quyền con
người của cả một dân tộc. Vì nếu khơng có quyền tự nhiên, quyền con người của dân tộc thì
sẽ khơng thể có quyền tự nhiên, quyền con người của những cá nhân. Quyền tự nhiên, quyền
con người của từng cá nhân tùy thuộc vào quyền tự nhiên, quyền con người của quốc gia, dân
tộc. Một dân tộc bị nơ lệ, thì các thành viên trong xã hội đó cũng khơng khác gì nơ lệ.
Trên cơ sở những triết lý đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể tìm thấy những biểu
hiện của tư tưởng pháp quyền tự nhiên và quyền con người trong các Hiến pháp Việt Nam
năm 1946, 1959, 1980 thể hiện ở các chương về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đặc
biệt Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), lần đầu tiên đã sử dụng chính
Arnaud de raulin GS.TS, Jean –paul pasrorel GS.TS, Trịnh Quốc Toản PGS.TS, Nguyễn Hoàng Anh PGS.TS (chủ biên),
Ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam, Nxb, ĐHQGHN, 2016,tr, 16.
570
Tài liệu đã dẫn, tr. 17 – 19.
571<sub>Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012, tr, 1. </sub>
572
thức thuật ngữ quyền con người. Hiến pháp quy định: ―Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật‖573<sub>. Hiến pháp </sub>
Việt Nam năm 2013 đã giành một chương ghi nhận về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của cơng dân, trong đó khẳng định ―Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền cơng
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng‖574
.
Đây là bước tiến đặc biệt quan trọng trong nhận thức lập hiến Việt Nam về quyền con người,
quyền công dân, là kết quả lâu dài của quá trình tiếp thu, kế thừa, phát triển tư tưởng pháp
quyền tự nhiên, tư tưởng về quyền con người của nhiều thế hệ những nhà khoa học, chính trị,
đặc biệt của các nhà khoa học, chính trị cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI – những người
trực tiếp tham gia vào quá trình truyền bá các tư tưởng đó, hoặc trực tiếp tham gia vào quá
trình biên soạn dự thảo Hiến pháp năm 2013. Chính nhờ sự tác động của trường phái pháp
quyền tự nhiên, của những tư tưởng về quyền con người, ở Việt Nam đã hình thành nên một
chuyên ngành luật học mới – Pháp luật về quyền con người.
Những quy định của Hiến pháp Việt Nam năm 2013, mở ra một xu hướng mới nghiên
cứu về quyền con người, về cách tiếp cận dựa trên quyền. Vì vậy, trong các ấn phẩm khoa học
nghiên cứu về quyền con người, hay nghiên cứu nhà nước, các hoạt động nhà nước, pháp luật
và các hiện tượng pháp luật, các nhà khoa học Việt Nam ở một mức độ nhất định đều tiếp cận
từ khía cạnh quyền tự nhiên của con người, hay cách tiếp cận dựa trên quyền để nghiên cứu575
.
<i><b>2.2. Ảnh hưởng của khoa học luật Xô viết đến luật học Việt Nam </b></i>
Lý thuyết pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của trường phái quy phạm học
và như là sự kế thừa trực tiếp từ lý luận pháp luật Xơ viết chính thống trước đây vốn chịu ảnh
hưởng nhất định của các trường phái pháp luật ở các nước Châu Âu lục địa.
Sự ảnh hưởng của lý luận pháp luật Xô viết tới khoa học pháp lý ở Việt Nam có mang
tính lịch sử khá rõ ràng. Trong một thời gian dài, ở Việt Nam đã khơng có đầy đủ các điều
kiện, tiền đề cho sự hình thành, phát triển ngành khoa học pháp lý. Để hình thành một ngành
khoa học nói chung, luật học nói riêng cần phải có những điều kiện, tiền đề sau: Nhu cầu của
đời sống xã hội con người; có người am hiểu lý luận về pháp luật; có trường học, có cơ sở đào
tạo về pháp luật (có người dạy học và người học); có nơi cơng bố các cơng trình khoa học, từ
đó mới hình thành được trường phái khoa học. Đây là những điều kiện cần và đủ để hình
thành và phát triển của một ngành khoa học. Việt Nam một thời kỳ dài khơng có đầy đủ các
Điều 14 Hiến pháp Việt Nam năm 2013
575
điều kiện và tiền đề đó. Nói như vậy, khơng có nghĩa là từ xa xưa khơng có ai nghĩ về pháp
luật, nhưng nhìn lại toàn bộ lịch sử thời kỳ quân chủ ở Việt Nam, những bậc tiền bối dường
như không để lại hậu thế những cơng trình khoa học về pháp luật, mặc dù thời phong kiến đã
có những bộ luật, chẳng hạn như ―Quốc triều hình luật‖576<sub>. Các nhà tư tưởng Việt Nam cuối </sub>
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tuy tiếp thu những triết lý khoa học pháp lý của Pháp nhưng thực
tiễn cũng ít tác động đến nền khoa học pháp lý Việt Nam sau này.
Từ năm 1930 Đảng cộng sản Đông dương ra đời, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng
Tháng 8 năm 1945, lật đổ chế độ thực dân phong kiến, xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, nhưng cũng bắt đầu từ đó nhân dân Việt Nam lại tập trung cho cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954). Sau năm 1954 miền Bắc hồn tồn giải phóng,
miền Nam vẫn bị đế quốc Mĩ xâm lược và đăt dưới sự cai trị của chính quyền Việt Nam cộng
hịa – tay sai của đế quốc Mĩ. Nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ mới với hai nhiệm vụ cơ
Năm 1975 Miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất, bước sang một giai
đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng
yêu cầu của đời sống nhà nước, xã hội, tư tưởng quản lý xã hội bằng pháp luật dần hình thành.
Năm 1976, Khoa Luật thuộc Đại học tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội)
được thành lập, có nhiệm vụ đào tạo cử nhân luật học. Mặc dù trước đó đã có một số trường
như: trường Cán bộ tòa án, trường Cán bộ kiểm sát, thực chất là những trường đào tạo cán bộ
ngành tư pháp, nhưng chưa phải là trường đại học. Đến năm 1977, trường Đại học pháp lý...
được thành lập trên cơ sở hợp nhất Khoa Luật trường Đại học tổng hợp với trường Cao đẳng
pháp lý. Nhưng những bài giảng ở các cơ sở đó và các cơ sở bồi dưỡng cán bộ, công chức
cũng được xây dựng trên cơ sở những triết lý của khoa học pháp lý Xơ Viết, vốn được hình
thành, tiếp thu qua các bài giảng của các chuyên gia Liên Xô, hay qua đội ngũ giảng viên
được đào tạo ở Liên Xô, hoặc ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. Dù rằng những khóa đào tạo
đầu tiên vẫn có sự tham gia giảng dạy của một số chuyên gia được Pháp đào tạo trước năm
1945, nhưng dấu ấn dường như không đáng kể. Bên cạnh đó việc đào tạo tiến sĩ luật học
chuyên ngành: lý luận nhà nước pháp quyền (nay là chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật) được đào tạo đầu tiên ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nơi mà
các nhà khoa học chủ yếu được đào tạo ở Liên Xô, hay tiếp thu những tri thức lý luận Xô viết
bằng những con đường khác nhau. Do đó những lý luận pháp luật Xô viết cũng được truyền
bá, tiếp thu thông qua hệ thống này, ở các cơ sở đào tạo khác cũng diễn ra như vậy. Cứ như
Con đường ảnh hưởng của luật học Xô viết đối với luật học Việt Nam chủ yếu bằng
những con đường kể trên. Những ảnh hưởng trực tiếp của luật học Xơ viết đối với luật học
Việt Nam có thể kể ra để minh chứng như:
Thứ nhất, chương trình đào tạo cử nhân luật học ở Việt Nam, chủ yếu do những người
được đào tạo ở Liên Xô trước đây xây dựng nên được mô phỏng như chương trình đào tạo cử
nhân luật học ở Liên Xơ. Tuy có những cải biến nhất định về chương trình, nội dung, phương
thức đào tạo cho phù hợp với yêu cầu mới.
Thứ hai, cách biên soạn giáo trình cũng chịu ảnh hưởng nhiều của cách biên soạn giáo
trình của Liên Xơ. Do đó các giáo trình thường tập trung giải quyết những vấn đề lý luận về
các hiện tượng pháp luật được luận giải và khái quát lên thành các khái niệm, định nghĩa.
Giáo trình các mơn học chủ yếu được viết ra vào cuối những năm tám mươi, đầu những năm
chín mươi của thế kỷ 20 nên chủ yếu dựa vào các giáo trình của Liên Xơ để biên soạn. Tới
nay nhiều giáo trình đã được sửa đổi, bổ sung, cập nhật những tri thức mới, nhưng những vấn
đề cơ bản cũng không có những thay đổi mà vẫn thường rất quan tâm đến những vấn đề lý
luận, ít quan tâm đến các tình huống và giải quyết tình huống trong thực tiễn. Chính điều này
làm cho người học rất thiếu những tri thức thực tiễn sau khi tốt nghiệp đại học.
Thứ ba, các giáo trình đào tạo cử nhân về cơ bản vẫn được thiết kế theo „khuôn mẫu‖
giáo trình giảng dạy từ thời Xơ Viết. Chẳng hạn như giáo trình „ Lý luận nhà nước và pháp
luật‖577
là môn học cơ sở, nền tảng để xây dựng các giáo trình khoa học pháp lý chuyên
ngành, vẫn có kết cấu các chương, mục, nội dung tương tự như giáo trình „Lý luận nhà nước
và pháp luật‖578
ở Liên Xơ trước đây, nước Nga ngày nay. Trong đó, các khái niệm cơ bản về
pháp luật và các hiện tượng pháp luật như: định nghĩa pháp luật, thuộc tính, hay đặc điểm của
pháp luật, nguồn gốc, vai trò, bản chất, chức năng, kiểu pháp luật, nguồn pháp luật; quy phạm
pháp luật, cơ cấu của quy phạm; hệ thống pháp luật; hành vi pháp luật; vi phạm pháp luật;
trách nhiệm pháp lý; trật tự pháp luật, quan hệ pháp luật; cơ chế điều chỉnh pháp luật; ý thức
pháp luật; thực hiện pháp luật, pháp chế và nhiều khái niệm khác được xây dựng trên nền tri
577<sub> Xem:Hoàng Thị Kim Quế (chủ biên) giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb, ĐHQGHN, Hà Nội, 2018; Nguyễn </sub>
Minh Đoan, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; Đinh Văn Mậu và
Phạm Hồng Thái, Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb, Giao thông vận tài, Hà Nội 2009 và nhiều giáo trình, tài liệu
khác cũng tương tự như vậy.
thức lý luận Xơ viết. Mặc dù các tác giả có những cách trình bày, diễn đạt khác nhau và bổ
sung một số lý thuyết, kết quả nghiên cứu mới về nhà nước và pháp luật.
Những vấn đề lý luận của khoa học pháp lý chuyên ngành cũng mang nhiều dấu ấn lý
luận Xô viết, được thể hiện trong các giáo trình các ngành luật, đặc biệt là những ngành luật
thuộc luật cơng như: Luật Hành chính Việt Nam579<sub>, cũng có cơ cấu các chương, mục của giáo </sub>
trình, một số khái niệm: ngành luật hành chính, đối tượng, phương pháp điều chỉnh của luật
hành chính, cơ cấu của ngành luật hành chính, quy phạm pháp luật hành chính, quan hệ pháp
luật hành chính, chủ thể của luật hành chính, chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính, thủ
tục hành chính, vi phạm hành chính, các biện pháp xử lý hành chính, bảo đảm pháp chế, hay
kiểm sốt trong hành chính nhà nước và nhiều những vấn đề khác cũng tương tự như giáo
những nội dung mới phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay. Những vấn đề lý luận trong
các giáo trình các ngành luật khác như: Luật Hiến pháp, Luật hình sự cũng chịu sự ảnh hưởng
của khoa học Xô viết tương tự như vậy.
Ngày nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam tuy khá phát triển, nhiều cơ sở đào tạo có
nhiệm vụ đào tạo chuyên gia pháp luật ở bậc thạc sĩ, tiến sĩ, các chủ đề nghiên cứu rất đa
dạng, nhưng cũng chủ yếu là những đề tài mang tính ứng dụng, rất ít những cơng trình nghiên
cứu cơ bản, do đó những vấn đề lý luận về pháp luật, hiện tượng pháp luật chủ yếu vẫn dừng
lại ở việc thừa nhận những khái niệm đã có trong các giáo trình ở bậc đại học với những cải
biến, bổ sung nhất định về đặc thù của pháp luật trên từng lĩnh vực, do đó những vấn đề lý
luận vẫn dừng lại ở mức độ cịn thấp. Vì vậy, khó có thể nói ở Việt Nam đã hình thành những
trường phái khoa học pháp lý.
Những tri thức về pháp luật Xô viết không chỉ ảnh hưởng đến khoa học pháp lý, mà
còn ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam, mà trước hết là các bản Hiến pháp Việt Nam, bắt đầu
từ Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
cả Hiến pháp năm 2013 vẫn chịu ảnh hưởng của khoa học luật Xô viết về Hiến pháp. Sự ảnh
hưởng được thể hiện ở những điểm căn bản sau đây:
Một là, về phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp. Theo mơ hình Hiến pháp Xô
viết, các Hiến pháp Việt Nam đều tập trung điều chỉnh khá cụ thể về: chế độ chính trị (các
thiết chế hợp thành hệ thống chính trị); chế độ kinh tế; văn hóa, xã hội; quốc phòng, an ninh;
về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Hiến pháp năm 2013 có thay đổi chương 2:
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân); về tổ chức bộ máy nhà nước từ
trung ương đến địa phương. Hiến pháp của đa số các quốc gia khác thường không đi theo
hướng điều chỉnh cụ thể như Hiến pháp Xô viết, Hiến pháp Việt Nam.
Hai là: Về tổ chức quyền lực nhà nước, tất cả các Hiến pháp Việt Nam đều đi theo
Xem: Nguyễn Cửu Việt, giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb ĐHQGHN, 2013; Phạm Hồng Thái và Nguyễn Thị
Minh Hà (chủ biên), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb, ĐHQGHN 2018.
580
nhân dân các cấp. Các cơ quan đại diện của cộng đồng lãnh thổ địa phương đều là những cơ
quan nhà nước, khơng phải là cơ quan có quyền „ tự quản‖, cịn các cơ quan hành chính ở địa
phương cũng đều được gọi là cơ quan hành chính nhà nước, là cơ quan chấp hành của cơ quan
đại diện quyền lực nhà nước, mặc dù các Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 có
những thay đổi nhất định về quan điểm tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ―quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp‖581<sub>, nhưng thực tiễn quan điểm này </sub>
cũng chưa được cụ thể hóa, hiện thực hóa trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các
luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của nền kinh tế có quy định về mối quan hệ giữa
chính quyền trung ương và địa phương.
Đáng lưu ý nhất là, Hiến pháp Liên Xô năm 1977 tại Điều 6 quy định về sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Liên Xơ đối với nhà nước và xã hội, thì Hiến pháp Việt Nam năm 1980 tại
Điều 4 quy định về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Đây
dường như là một sự sao chép, mô phỏng, mà sau này trong Hiến pháp 1992 và Hiến pháp
năm 2013 vẫn hiện diện của quy định này, mặc dù có những sửa đổi, bổ sung về nội dung sự
lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp năm 1959 về sự lãnh đạo của Đảng chỉ được đề cập đến ở lời
nói đầu một cách khái quát. Bên cạnh đó, vẫn có thể viện dẫn ra nhiều quy định có tính tương
đồng giữa Hiến pháp Việt Nam năm 1980 với Hiến pháp Liên Xô năm 1977.
<b>4. Một số thách thức và nhu cầu đổi mới trong khoa học pháp lí phù hợp với điều </b>
<b>kiện hiện nay ở Việt Nam </b>
Luật học Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn:
Một là: sự thay đổi của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội Việt Nam. Nếu trước đây với
quan điểm chủ nghĩa xã hội không thừa nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì nay Việt
Nam đã thừa nhận ―Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo...
Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà
nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư,
sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước‖582
.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tồn tại của nhiều hình thức sở
hữu, thành phần kinh tế, sự bình đẳng giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế làm phát
sinh nhiều quan hệ xã hội mới, buộc nhà nước phải có những thay đổi về chính sách, pháp luật
và giải quyết hàng loạt những vấn đề phát sinh mới trong đời sống nhà nước, xã hội, nhằm
hướng tới phục vụ cho sự phát triển của kinh tế xã hội. Từ sự phát triển của nền kinh tế, mà
hàng loạt những hiện tượng pháp luật đã xuất hiện, chẳng hạn trong lĩnh vực hành chính, sự
xuất hiện „ hợp đồng hợp tác công tư‖- là những hợp đồng được giao kết giữa nhà nước với các
tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để các tổ chức đó cung cấp các dịch vụ cơng cho xã hội,
hay khi cơ quan nhà nước cấp trên chuyển giao cơng việc của mình cho cơ quan nhà nước cấp
dưới thực hiện thường bằng những hợp đồng, ở nhiều quốc gia gọi là ―hợp đồng hành chính‖583
và coi các hợp đồng này là „nguồn‖ của pháp luật584<sub>, ở Mĩ gọi là hợp đồng th ngồi, cịn ở </sub>
Việt Nam chưa thấy đề cập đến vấn đề này. Hay trong lĩnh vực hình sự, vấn đề an ninh phi
truyền thống đã trở thành vấn đề lớn trong đời sống nhà nước, xã hội, quốc tế, hàng loạt những
tội phạm mới xuất hiện như tội phạm công nghệ cao v.v đã xuất hiện cũng cần phải được quan
tâm. Sự tác động của cuộc cách mạng lần thứ 4 đến mọi mặt đời sống nhà nước, xã hội, quan hệ
trong quốc gia, cộng đồng khu vực, quốc tế cũng có những thay đổi, có nhiều vấn đề đặt ra cần
được điều chỉnh bằng pháp luật và nhiều vấn đề lý luận cần được nghiên cứu như chủ thể pháp
luật, quan hệ pháp luật, trách nhiệm pháp lý v.v.
Thứ hai, sự tự đổi mới của các nhà luật học. Đây cũng là vấn đề khơng đơn giản, địi
hỏi cần phải tự đổi mới chính mình và nhận thức lại những vấn đề lý luận về pháp luật và
các hiện tượng pháp luật mà mình đã tiếp thu. Các nhà khoa học Viêt Nam cần đặt ra và trả
lời một cách ngiêm túc, trung thực về các câu hỏi: những nhận thức của mình về pháp luật,
các hiện tượng pháp luật có cịn phù hợp trong điều kiện của thế kỷ XXI khơng?. Nếu cịn
phù hợp thì sẽ phát triển như thế nào?. Thực tiễn cuộc sống có những triết lý, hay lý thuyết
tưởng là chân lý thì ngày nay khơng cịn là chân lý nữa, nhưng người ta không phải lúc nào
cũng nhận thức đầy đủ được điều này. Ngược lại, cũng có nhà khoa học lại không muốn
thừa nhận, hay phủ nhận những lý luận pháp luật đang tồn tại, đang được giảng dạy tại các
cơ sở đào tạo ở Việt Nam. Cả hai xu hướng này đều có nguy cơ nhất định, hoặc là kìm hãm
sự phát triển của khoa học, hoặc lại như là „sự sao chép‖, do đó địi hỏi sự lựa chọn thông
minh của các nhà khoa học để sao cho có thể tiếp thu được những tri thức mới, và tìm ra
những quy luật vận đông của các hiện tượng pháp luật và xây dựng, hình thành được những
vấn đề lý luận pháp luật vừa phù hợp với văn hóa pháp luật Việt Nam, lại vừa tiếp thu được
những tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Để sao cho không sảy ra sự „sung đột‖ về lý luận giữa
những thế hệ các nhà luật học.
Thứ ba, luật học là lĩnh vực khoa học liên quan đến mọi mặt đời sống nhà nước, xã
hội, con người, do đó mọi „sáng tạo‖ khoa học cũng không vượt khỏi sự chi phối của nền
Xem: Panthéon – Assas và Gilees Dumont: Pháp luật hành chính của Cộng hịa Pháp, Nxb. Tư pháp Hà Nội, 2007, tr. 423
– 431; Đ. N. Bakhrắc, Luật hành chính Nga, Nxb. EKXMO, Matxcơva, 2010, tr. 343 – 348.
584
Thứ tư, việc nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật ở Việt Nam hiện nay lệ
thuôc vào nguồn kinh phí, sự đầu tư của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà chưa hình
thành cơ chế ― đấu thầu‖ hay theo các đơn đặt hàng của các cơ quan nhà nước, một thực tế
đang tồn tại, các cơ quan quản lý nhà nước có một lượng kinh phí khá lớn để nghiên cứu khoa
học, nhưng lại khơng có lực lượng để nghiên cứu, cịn các cơ sở đào tạo có nguồn nhân lực
khá lớn, những lại rất hạn hẹp kinh phí đề nghiến cứu khoa học.
Để đổi mới khoa học pháp lý ở Việt Nam
Để đổi mới, trước hết cần phải tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về pháp luật,
các hiện tượng pháp luật và khi nghiên cứu phải xuất phát từ những quy luật của đời sống xã
hội, truyền thống Việt Nam, gắn với những tri thức chung của nhân loại, tránh xu hướng
Hai là: trong đào tạo các chuyên gia pháp luật, đặc biệt là đào tạo cử nhân luật học cần
tham khảo chương trình đào tạo của các quốc gia có nền khoa học pháp lý tiên tiến trên thế
giới để đổi mới chương trình đào tạo, và phải đặt câu hỏi và phải trả lời một cách xác đáng,
nghiêm túc, trung thực, khách quan là chương trình đào tạo các chuyên gia pháp luật hiện nay
ở Việt Nam có hợp lý hay khơng hợp lý, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn tới mức nào,
những môn học nào là cần thiết, những môn học nào là khơng cần thiết vì khơng mang lại
những giá trị thiết thực cho người học. Mặt khác, nghiên cứu khoa học phải trở thành nhiệm
vụ của tất cả các cơ sở đào tạo, của các nhà giáo để sao cho mỗi cơ sở đào tạo đều trở thành
một trung tâm đào tạo vào nghiên cứu khoa học.
Ba là, cùng với q trình đó cần tạo được sự tự chủ của các cơ sở đào tạo về tổ chức,
nguồn nhân lực, tài chính, đặc biệt là cần phải coi tự do học thuật là bảo đảm để phát triển
khoa học, tránh tình trạng áp đặt, hay trói buộc bởi những quan điểm chính trị và đồng thời
dẫn xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cơ quan hành chính chủ quản, các đại học hoạt động trên cơ
sở pháp luật, sự cam kết và chịu trách nhiệm của cơ sở đào tạo trước người học, người sử
dụng lao động, xã hội – họ là những khách hàng của các cơ sở giáo dục và là người đánh giá
khách quan nhất về chất lượng đào tạo; việc kiểm định chất lượng đào tạo phải được tiến hành
thường xuyên, khách quan, khoa học.
lầm về lý thuyết, phương pháp luận, quy phạm và thực tiễn, những lầm lạc và những xét đốn
khơng tương xứng. Những sai lầm về nhận thức tất yếu dẫn đến những sai lầm trong thực tiễn.
Trong điều kiện hội nhập và mở cửa hiện nay, các nền văn hóa của các dân tộc, khu
vực và trên thế giới có xu hướng xích lại gần nhau, thống nhất trong đa dạng, vì vậy cần phải
biết khai thác những yếu tố hợp lý của mọi trường phái pháp luật vào điều kiện cụ thể của
Dù quan niệm như thế nào về pháp luật, thì pháp luật vẫn là những chuẩn mực hành vi
của con người, là thể chế điều chỉnh hành vi, cách xử sự của con người. Nhờ có pháp luật mà
nhà nước gắn liền với hệ thống các quan hệ xã hội của con người, cùng tham gia trong nhận
thức, hành vi và hoạt động của họ, pháp luật tạo ra khn khổ tổ chức cuộc sống, trong đó cả
đời sống kinh tế, văn hóa- xã hội và nhiều vấn đề khác trên lãnh thổ quốc gia của mình. Pháp
luật có ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của xã hội, cộng đồng, dân tộc, của các giai cấp, tầng
lớp xã hội và thậm chí là của từng con người. Pháp luật là phương tiện để liên kết con người
sinh sống trên một lãnh thổ nhất định và bảo đảm các mối quan hệ của họ với nhau, quan hệ
của họ với cả môi trường thiên nhiên trên lãnh thổ của họ và trên toàn hành tinh- ngôi nhà
chung của nhân loại.