LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NƠNG THƠN
BÀI BÁO CÁO GIỮA KÌ
PHONG TỤC TẬP QUÁN LỄ HỘI VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: LỄ HỘI ÓC OM BOC CỦA NGƯỜI KHMER
GVHD: Ths Lý Mỹ Tiên
Hồn An 22/9/2020
Nhóm 1
Nguyễn Thị Hiếu Thảo
Nguyễn Trung Nguyên
Trần Nhật Bằng
Nguyễn Minh Hậu
Nguyễn Thành An
B1708084
B1912381
B1912270
B1708114
B1912267
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
1.
Mục lục
Khái quát ........................................................................................................................... 1
1.1.
Khái niệm về “ lễ” và “hội” ........................................................................................ 1
1.1.2. Khái niệm về “Lễ”................................................................................................... 1
1.1.3. Khái niệm về “Hội” ................................................................................................. 2
1.1.4. Mối quan hệ giữa “Lễ” và “Hội” ............................................................................ 3
1.2.
Khái quát lễ hội Ĩc-om-bóc ........................................................................................ 4
1.3.
Lễ hội Ĩc-om-bóc xưa và nay ..................................................................................... 6
1.4.
Lịch sử hình thành ....................................................................................................... 6
1.5.
Mục đích tổ chức ......................................................................................................... 6
1.6. Thời gian tổ chức ............................................................................................................ 7
1.7. Đối tượng tôn thờ ........................................................................................................... 7
2.
Tiến trình lễ hội (lễ, hội) ................................................................................................. 7
2.2. Tiến trình lễ .................................................................................................................... 7
2.2.1. Khơng gian và thời gian diễn ra lễ .......................................................................... 7
2.2.2. Các nghi thức và lễ vật cúng ................................................................................... 7
2.3. Tiến trình hội .................................................................................................................. 8
2.3.1. Khơng gian và thời gian diễn ra hội ........................................................................ 8
2.3.2. Một số lễ hội tiêu biểu ............................................................................................. 8
3.
4.
5.
Sự biến đổi của lễ hội qua thời gian............................................................................... 8
3.1.
Về thời gian tổ chức lễ hội .......................................................................................... 8
3.2.
Thay đổi về cách thức tổ chức..................................................................................... 9
3.3.
Thay đổi các hoạt động hội ......................................................................................... 9
Khai thác du lịch từ lễ hội ............................................................................................ 10
4.1.
Thực trạng ................................................................................................................. 10
4.2.
Tiềm năng.................................................................................................................. 10
4.3.
Định hướng................................................................................................................ 11
Tài liệu t hủ yếu sinh sống.
1.5. Mục đích tổ chức
Lễ hội Ocomboc tổ chức thờ Thần Mặt Trăng để cầu mong hàng năm mùa màng
bội thu. Lễ hội Ocomboc có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Khmer từ
xưa đến nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến cơng
ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang vật
thịnh”. Lễ hội Ocomboc không chỉ đơn thuần để vui chơi gải trí mà nó đã trở thành tục
lệ, tín ngưỡng độc đáo của người Khmer. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng
6
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
sẽ gặp được những đều may mắn trong cuộc sống và cầu được ước thấy. Vào hội, mọi
người đều được hồ mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì
thế mà tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng được khẳng định.
1.6. Thời gian tổ chức
Người Khmer Nam Bộ là một tộc người lớn trong cộng đồng 54 dân tộc Việt
Nam. Với bề dày lịch sử sinh sống lâu đời trên mảnh đất Nam Bộ, họ đã hình thành và
phát huy nhiều giá trị văn hóa phong phú và độc đáo cho đồng bào Khmer nói riêng và
cho người Việt Nam nói chung.
Trong đó, các lễ hội dân gian của người Khmer là nét đặc sắc rất riêng biệt, thu
hút nhiều du khách trong và ngoài đến để chung vui ngày hội về. Và lễ hội Ok Om
Bok là lễ hội lớn nhất, được chờ đợi nhiều nhất trong năm của tộc người Khmer Nam
Bộ. Lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ còn được biết đến với cái tên khác
là lễ Cúng Trăng hay “Đút cốm dẹp”, được diễn ra vào ngày 14 và 15 tháng 10 âm lịch
hàng năm.
1.7. Đối tượng tôn thờ
Người Khmer xem Mặt Trăng là một vị thần điều tiết mùa màng trong năm. Vì
vậy, họ lấy lúa nếp quết thành cốm dẹp cùng các hoa màu khác để làm lễ vật cúng Mặt
Trăng.
2. Tiến trình lễ hội (lễ, hội)
2.2. Tiến trình lễ
2.2.1. Không gian và thời gian diễn ra lễ
Công việc chuẩn bị lễ vật hoàn tất, vào đêm 14 trăng tròn hoặc 15 tháng 10 âm
lịch khi trăng lên cao (ngày chính của Lễ hội Ok Om Bok), họ bắt đầu trải chiếu đốt
đèn, đốt nhang, mời bà con dân làng cùng quay về phía mặt trăng để làm lễ. Nếu ngày
trước, chủ lễ là người cao tuổi trong phum, sóc hoặc trong nhà thơng thái các lễ nghi
trực tiếp làm lễ, thì ngày nay họ cịn đặt thêm một bàn trang trọng kế bên bàn cúng rồi
mời các hòa thượng, đại đức cùng thực hiện nghi thức cúng vái, tụng niệm với thần Mặt
Trăng, bày tỏ sự biết ơn, mong thần Mặt Trăng tiếp nhận lễ vật và ban cho mọi người
sức khỏe, mùa màng tươi tốt. Nghi thức cúng của lễ hội Ok Om Bok có thể tổ chức tại
nhà, sân chùa hay bãi đất trống đều được, khá giản dị nhưng cũng đầy ấm cúng.
2.2.2. Các nghi thức và lễ vật cúng
Từng món lễ vật trong đêm Cúng Trăng đều có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, bà con
trong các phum, sóc Khmer phải chuẩn bị cả tháng trước khi diễn ra lễ hội. Bên cạnh
các lễ vật, người dân còn cho dựng thêm một cổng bằng tre hoặc trúc và lá dừa, với hai
7
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
cây trụ được kết dính phần ngọn tượng trưng cho vòng đai vũ trụ. Hai cây mía đứng hai
bên trụ cổng tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở.
Ba cây nến đặt trên cây đà ngang nối liền hai cổng tượng trưng cho ba mùa trong
năm: nắng, mát, mưa. Hai bên cổng người ta treo mỗi bên 12 lá trầu được cuộn tròn
tượng trưng cho 12 con giáp và 12 tháng trong năm. Giữa cổng treo 7 quả cau được chẻ
vỏ thành hình dạng như con ong bầu, tượng trưng cho 7 ngày trong tuần. Trên bàn đặt
30 lá trầu bên phải tượng trưng cho tháng đủ. Bên trái đặt 29 lá trầu tượng trưng cho
tháng thiếu. Lễ vật chính chủ chốt khơng thể thiếu đó chính là cốm dẹp, ngồi ra cịn có
các nơng sản khách như khoai mơn, khoai lang, khoai mì, dừa, chuối cùng một số bánh
kẹo khác.
2.3. Tiến trình hội
2.3.1. Khơng gian và thời gian diễn ra hội
Sau khi kết thúc phần lễ thì ngày hơm sau, phần hội được tổ chức nghiêm trang,
ý nghĩa. Lễ hội Ok Om Bok còn đươc tổ chức ở các chùa, phum sóc với phần hội rộn
ràng, vui tươi, mang tính cộng đồng rất cao, với các hoạt động như: hội hoa đăng, trò
chơi dân gian, biểu diễn văn nghệ, cùng nhau hát múa những bài ca, điệu múa truyền
thống dưới ánh trăng rằm trong niềm vui được mùa. Đặc biệt, cuộc thi đua ghe ngo,
một trong những hoạt động sôi nổi được mọi người mong đợi nhất.. Thời gian diễn ra lễ
hội từ 2 đến 3 ngày, cũng tùy vào tập tục địa phương và các hoạt động diễn ra trong lễ
hội
2.3.2. Một số lễ hội tiêu biểu
- Đua ghe ngho: Lễ hội đua ghe Ngo của người Khmer gồm hai loại: đua trên cạn
và đua dưới nước. Đua ghe Ngo trên cạn chủ yếu là sự tái hiện, mô phỏng lại cuộc đua
ghe dưới nước. Nó thường được tổ chức gắn liền với các lễ hội truyền thống và đó là
một trị chơi thường xuất hiện trong phần hội sau các lễ thức truyền thống. Cịn đua ghe
ngo dưới nước thì mới chính là hoạt động được trông đợi của bao người dân, du khách
vào ngày lễ Cúng Trăng nổi tiếng (rằm tháng 10 âm lịch).
- Hội thả đèn: Sau lễ cúng trăng, các gia đình đến chùa xem thả đèn gió, đèn
Lơipratip (đèn nước-hoa đăng). Bầu trời rực sáng với những chùm đèn gió bay cao, trên
sơng lung linh đủ màu sắc của những ngọn nến được cắm trong những con thuyền hoặc
bè nhỏ kết bằng cây chuối, trang trí giấy đủ màu sắc
3. Sự biến đổi của lễ hội qua thời gian
3.1. Về thời gian tổ chức lễ hội
8
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
Nếu như trước đây, dân làng tổ chức lễ hội dài ngày, năm hội chính có khi tổ
chức từ 7-10 ngày, thì đến nay, lễ hội truyền thống của các địa phương thường được tổ
chức từ 1-3 ngày, thậm chí có năm khơng mở hội mà chỉ thực hiện các nghi thức tế lễ
đơn giản. Bên cạnh đó, cũng có những địa phương tự phát sinh lịch tổ chức lễ hội. Bởi
ở những làng mới thành lập, khơng có bề dày lịch sử cũng như các thần tích liên quan
đến thành hồng. Trước đây, những làng này không tổ chức cúng lễ thường niên, nhưng
họ học theo truyền thống của các làng bên, tự lấy ngày mở hội cho làng mình. Cũng có
nhiều tường hợp, lễ hội được tổ chức đơn thuần chỉ để con cháu có dịp về thăm làng
nên họ chọn ngày cuối tuần, mỗi năm một ngày, không theo lịch cố định. Việc thay đổi
thời gian tổ chức lễ hội làm giảm thiểu được tính chất rườm rà của các nghi thức. Tuy
nhiên, với nhiều trường hợp, nó làm giảm đi tính chất thiêng liêng của lễ hội. Bên cạnh
đó, khơng gian tổ chức lễ hội cũng có nhiều thay đổi. Trước tiên là do ảnh hưởng của
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đường xá, cầu cống, nhà cửa được sửa sang,
xây mới làm biến đổi không gian của làng. Các hoạt động trong lễ hội theo đó mà phải
thay đổi, nhất là các nghi thức, nghi lễ, hoạt động diễn ra ở phạm vi ngồi di tích.
Khơng gian bị thu hẹp khiến cho nhiều nghi thức không được bảo tồn nguyên vẹn.
3.2. Thay đổi về cách thức tổ chức
Trước đây, sau vụ mùa đầy vất vả, người dân rất háo hức chờ đợi và vinh dự khi
được tham gia lễ hội. Họ có niềm tin mãnh liệt về đấng thần linh và sức mạnh siêu
nhiên. Nhưng ngày nay, khi có rất nhiều ngày lễ, tết được du nhập vào, người dân tiếp
cận với nhiều hình thức vui chơi giải trí khác nên sự háo hức giảm đi rõ rệt. Chọn người
để tham gia trực tiếp vào tổ chức lễ hội là việc làm khó khăn với ban tổ chức. Ngay cả
việc cơng đức, dân làng hầu hết đều góp tiền, chứ ít góp cơng. Nhất là đối với nam, nữ
thanh niên, sự nhiệt tình khác hẳn với thế hệ trước. Khi xã hội bị cuốn theo sự vận động
của nền kinh tế thị trường, con người cũng có cái nhìn khác về tín ngưỡng cổ truyền.
Đặc biệt khi đời sống của người dân được cải thiện, hình thành quan niệm phú quý sinh
lễ nghĩa. Nhà nào cũng sửa soạn mâm cao cỗ đầy, hy vọng sẽ được thần thánh phù hộ
hơn. Những lễ vật truyền thống bị quên lãng, thay vào đó là những đồ đắt đỏ, thể hiện
sự giàu có của mỗi gia đình.
3.3. Thay đổi các hoạt động hội
Ở khu vực Bắc Bộ, trước đây, dân làng thường tập các tích chèo cổ, hát quan
họ… hàng tháng trước lễ hội. Điều đó đã trở thành thói quen, nhưng đến nay, sinh hoạt
văn hóa truyền thống độc đáo này đã dần vắng bóng. Nếu khơng phải các làng quan họ,
chèo truyền thống thì làng nào cũng phải thuê đồn văn nghệ từ nơi khác đến. Thậm chí
có làng còn thuê đội văn nghệ hát nhạc trẻ, ăn mặc khơng phù hợp với văn hóa truyền
9
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
thống, cũng như không gian linh thiêng của lễ hội. Với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế thị trường, con người ngày càng hiện đại và văn minh hơn, nhưng điều đó
khơng có nghĩa là họ khơng có nhu cầu về tâm linh và tinh thần cộng cảm thông qua
các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Khi con người cịn giữ lịng thành kính với
những giá trị thiêng liêng của làng, cịn muốn gắn kết với nhau thì khi đó lễ hội vẫn tiếp
tục tồn tại, phát triển.
4. Khai thác du lịch từ lễ hội
4.1. Thực trạng
- Đối tượng du khách trong dịp lễ hội Ok Om Bok chưa được quan tâm đúng
mức; Sự kiện văn hóa lễ hội tổ chức tốt nhưng chưa gắn kết được nguồn du khách. Minh
chứng là lượng du khách đến lễ hội khá ít so với người dân địa phương tham gia lễ hội.
Nguồn du khách chưa phong phú cả nội địa và quốc tế; chỉ tập trung là khách tự phát
thuộc các đối tượng tiêu dùng ít trong du lịch như học sinh sinh viên, cịn cán bộ viên
chức chỉ tham dự với tính chất đại biểu.
- Vai trị của các cơng ty du lịch cũng chưa phát huy mạnh mẽ trong dịp khai thác
nguồn khách cũng như tour tuyến phục vụ lễ hội. Đa phần du khách tự tổ chức đi và về
trong ngày; lễ hội chưa thật sự đủ sức lưu giữ du khách ở lại lâu và gia tăng giá trị kinh
tế cho cộng đồng địa phương
- Sự quan tâm của du khách thật sự chú ý nhiều ở phần hội; ý nghĩa và giá trị văn
hóa của lễ hội chưa được khai thác tốt. Mặc dù địa phương đã có sự đầu tư kéo dài các
chuỗi hoạt động để người dân và du khách tham gia, nhưng những hoạt động chưa có sự
kết nối giá trị văn hóa giữa các điểm tổ chức, những hoạt động vẫn cịn mang tính hình
thức. Do đó, du khách chưa có cơ hội trải nghiệm và cảm nhận hết giá trị văn hóa của lễ
hội Ok Om Bok
- Lễ hội chưa khai thác được sản phẩm hàng lưu niệm, đặc sản địa phương phục
vụ du khách trong mùa lễ hội. Tình trạng ăn xin, trộm cắp ở lễ hội; sự kết nối giữa các
điểm chùa, nhà dân, nơi sinh hoạt cộng đồng và các điểm tham quan khác; các hoạt
động trong lễ hội còn bị sân khấu hóa; chưa có nhiều chương trình du lịch dịp lễ hội;
chưa có nhiều món ăn đặc sản địa phương được giới thiệu trong dịp lễ hội.
4.2. Tiềm năng
Phải khẳng định lại một lần nữa: du lịch lễ hội nước ta có rất nhiều tiềm năng để
phát triển du lịch. Một năm trên toàn lãnh thổ diễn ra 7.966 lễ hội lớn nhỏ, cứ trung
bình một ngày trên đất nước ta diễn ra 22 lễ hội. Con số do Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch công bố cho thấy tiềm năng du lịch lễ hội của Việt Nam quá
dồi dào. Trải khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mỗi lễ hội mang một
10
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
nét tiêu biểu và giá trị riêng nhưng bao giờ cũng hướng tới một đối tượng linh thiêng
cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có cơng dạy
dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt ác, trừ tà, giàu lòng cứu nhân độ thế… Nhìn chung
lại thì các lễ hội ngày nay đều có mục đích là thu hút khách du lịch. Riêng lễ hội Ĩc
Om Bóc - Đua ghe Ngo hay còn gọi là lễ cúng Trăng của đồng bào Khmer, được tổ
chức vào dịp rằm tháng 10 âm lịch hằng năm. Trong lễ hội Ĩc Om Bóc cịn có ngày hội
Đua ghe Ngo, một mơn thể thao truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, thu hút
hàng nghìn vận động viên cả nam lẫn nữ tham gia vốn là những nông dân chân chất
vùng miệt vườn, sông nước.
4.3. Định hướng
Vấn đề đặt ra ở đây là sự khai thác tốt để nâng cao giá trị văn hóa trong phát triển
du lịch. Từ đó, lễ hội Ok Om Bok khơng chỉ là di sản văn hóa của cộng đồng Khmer, mà
còn được nhiều người biết đến để bảo tồn và mang lại giá trị kinh tế cho cộng đồng từ
hoạt động du lịch. Khi khai thác và phát triển du lịch cho lễ hội Ok Om Bok, cần chú ý
khai thác ý nghĩa các yếu tố “thiêng” trong lễ hội. Yếu tố thiêng như “nước”, “mặt
trăng” trong lễ hội Ok Om Bok cần có sự đầu tư và kết hợp chặt chẽ với nhiều sự kiện
diễn ra trong lễ hội; Phải nâng cao được giá trị bảo vệ môi trường từ tín ngưỡng thờ thần
“mặt trăng”, “mẹ nước” qua những nghi lễ cúng và những sinh hoạt đời thường của cộng
đồng Khmer Nam bộ.
Kế đến cần chú ý khai thác yếu tố truyền thống trong lễ hội Ok Om Bok, làm tôn
lên giá trị thiêng của lễ hội. Cụ thể là những chiếc đèn hoa đăng nên thực hiện bằng chất
liệu truyền thống (gáo dừa, bè chuối, hoa sen…) bảo vệ được mơi trường nước thay vì
những chất liệu hiện nay. Điều này sẽ tạo nên thương hiệu du lịch xanh cho lễ hội Ok
Om Bok, đồng thời cũng góp phần tuyên truyền cho du khách và cộng đồng địa phương
về ý nghĩa môi trường sinh thái nhân văn mà lễ hội muốn truyền tải. Bên cạnh đó, nhạc
ngũ âm, trang phục và ẩm thực truyền thống, không gian văn hóa truyền thống của lễ hội
(các ngơi chùa, điểm sinh hoạt cộng đồng…) cũng cần được đầu tư và chú ý lưu giữ
những nghi lễ truyền thống.
Có như vậy, lễ hội mới thật sự bảo tồn được không gian văn hóa và những giá trị
văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, cần khai thác đúng hướng, thế mạnh riêng và nhấn
mạnh tính dân tộc trong lễ hội. Thế mạnh của phát triển du lịch lễ hội của người Khmer
Nam bộ chính là văn hóa Phật giáo Nam tơng. Triết lý Phật giáo kết hợp với việc thiêng
hóa tạo điều kiện làm hấp dẫn các chương trình du lịch lễ hội Khmer và dễ dàng thuyết
phục du khách cùng tham gia vào những giá trị nhân văn mà lễ hội hướng đến.
Ví dụ:
11
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
Trà Vinh đã thu hút khách du lịch với nhiều những nghi thức lễ truyền thống ở Ao
Bà Om và những ngôi chùa cổ rợp bóng cây cổ thụ. Nên lễ hội Ok Om Bok của người
Khmer tỉnh Trà Vinh có thể khai thác thành trung tâm di sản văn hóa với mơ hình làng
văn hóa Khmer, chủ đạo là cuộc thi thả hoa đăng và đèn gió bên Ao Bà Om linh thiêng
huyền thoại. Đây cũng là nơi thực hiện nghi thức kêu gọi mọi người cùng chung tay
hành động bảo vệ nguồn nước, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
5. Tài liệu tham khảo
-Văn hóa tín ngưỡng Việt Nam-Nguyễn Hạnh
- />- />- />- />- />
12
LỄ HỘI OC-OM-BOC CỦA NGƯỜI KHMER
13