BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH THANH HÓA
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Nghệ An, 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH THANH HÓA
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Lương Bằng
Nghệ An, 2017
i
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, với lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
các thầy giáo, cơ giáo trong Khoa Giáo dục Chính trị, Phịng Đào tạo sau Đại học,
Trung tâm Thơng tin - Thư viện Nguyễn Thúc Hào - Trường Đại học Vinh đã tạo
điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành tốt chương trình học tập. Đặc biệt, tơi xin
chân thành cám ơn thầy giáo PGS - TS Nguyễn Lương Bằng, người đã định
hướng đề tài, tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tơi nghiên cứu và hồn thiện luận văn
tốt nghiệp này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các đồng nghiệp và các
đồng chí lãnh đạo, cán bộ cơ quan Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa,
nơi tơi cơng tác đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tơi hồn thành khóa học.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song, do nhận thức và thời gian có hạn, nên
luận văn khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp
ý tận tình của các thầy, các cơ giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 8 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Xuân Dương
ii
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG .................................................................................................... 11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN .......................................................................... 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức lối sống
cho cán bộ, đảng viên .......................................................................................... 11
1.2. Sự cần thiết phải giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ
khối các cơ quan cấp tỉnh .................................................................................... 27
1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
Đảng bộ khối các cơ quan cấp tỉnh...................................................................... 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO
CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH THANH
HÓA .................................................................................................................... 39
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa .................................. 39
2.2. Trực trạng giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối
các cơ quan tỉnh Thanh Hóa những năm qua ...................................................... 52
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa hiện nay ........................................ 655
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐẢNG
BỘ KHỐI CÁC CƠ QUAN TỈNH THANH HÓA ...................................... 766
3.1. Quan điểm về giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa...................................................................... 766
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa ...................................... 800
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 1011
D. DANH MỤC TÀI TIỆU THAM KHẢO ................................................ 1044
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 10808
iii
CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH TW
Ban Chấp hành Trung ương
CNH - HĐH
Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TCCSĐ
Tổ chức cơ sở đảng
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngoài những thời cơ và
thuận lợi, đất nước ta đã và đang đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức từ mặt trái,
hệ lụy của kinh tế thị trường, mà biểu hiện rõ nhất là sự suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên tha hóa: sống
hưởng thụ, chạy theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập, thiếu ý
thức rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ, vơ cảm, vị kỷ… sống thực
dụng, ích kỷ, đua đòi, sùng bái thần tượng thái quá, thiếu trách nhiệm với
cộng đồng, thiếu quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu niềm tin về tương lai,
tiền đồ, mục tiêu, lý tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật,
như: vi phạm giao thông, cờ bạc, lô đề…
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay của Đảng đã chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vơ ngun tắc...Ngun nhân dẫn đến tình trạng trên là do: cán bộ,
đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách
nhiệm, nghĩa vụ của mình trước Đảng, trước dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị q uyết, chỉ thị, quy định về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật
khơng nghiêm, nói khơng đi đơi với làm, hoặc làm chiếu lệ.
Ngày 30/10/2016, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Nguyễn Phú
Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về tăng cường xây
2
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII),
Đảng ta đã chỉ ra 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, cụ thể là: 1) Cá
nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân,
khơng quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, khơng muốn
người khác hơn mình; 2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đồn
kết nội bộ; đồn kết xi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa
vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo,
điều hành; 3) Kê khai tài sản, thu nhập khơng trung thực; 4) Mắc bệnh “thành
tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh
bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen
thưởng”, “chạy danh hiệu”; 5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ
sở, thiếu kiểm tra, đơn đốc, khơng nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn
vị mình; thờ ơ, vơ cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và địi
hỏi chính đáng của nhân dân; 6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí,
thất thốt tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư
công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản
công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí
nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động; 7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi.
Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp
tay cho tham nhũng, tiêu cực; 8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức,
chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng
quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi; 9) Đánh bạc, rượu chè bê tha,
mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào
các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp
của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
3
Mặt khác, trong nhiều văn kiện gần đây, Đảng cũng đã chỉ rõ những hạn
chế, yếu kém của công tác giáo dục đạo đức, lối sống. Nhìn chung, cơng tác giáo
dục đạo đức, lối sống nhiều khi cịn hình thức, hiệu quả cơng tác giáo dục đạo
đức, lối sống có phần hạn chế, yếu kém. Do vậy, chưa đủ sức động viên và
thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có
tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ;
những sai sót, vi phạm khơng được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm
tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên,
ráo riết; đấu tranh với những vi phạm cịn nể nang, khơng nghiêm túc. Vai trị
giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.
Nhận thức rõ vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp bách và có ý nghĩa tiên quyết trong việc nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên
và nhân dân đối với Đảng. Trong những năm gần đây, dưới sự quan tâm chỉ đạo
sâu sát, trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa, sự phối hợp của lãnh
đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, với sự quyết tâm của Ban Chấp hành,
Ban Thường vụ Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh, sự đồng thuận của các tổ chức
cơ sở đảng, đồn thể chính trị - xã hội trực thuộc và sự nỗ lực của cán bộ, đảng
viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa đã và đang có nhiều
sáng tạo, đổi mới, góp phần tạo nên một đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất
đạo đức, lối sống tốt, tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội, giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc, có ý thức công dân, chấp hành pháp luật, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn; sống có nghĩa tình,
ln có ý thức cầu thị, học tập, rèn luyện nâng cao kỹ năng, chun mơn nghiệp
vụ hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
4
Tuy nhiên, trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa vẫn cịn bộc lộ một số mặt hạn
chế dẫn đến tình trạng cán bộ, đảng viên có biểu hiện lệch lạc về đạo đức lối
sống, như: Trong điều kiện mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên mắc bệnh cá
nhân chủ nghĩa, sống buông thả, thực dụng, cơ hội, thiếu tự giác rèn luyện, tu
dưỡng, trong khi đó sự giáo dục, quản lý, kiểm tra của các tổ chức đảng, cấp uỷ
lại lỏng lẻo, không thường xuyên, nghiêm túc; một số tổ chức đảng coi nhẹ công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; thiếu những hình thức,
biện pháp thích hợp để quản lý, kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ,
đảng viên; xử lý khi cán bộ, đảng viên có vi phạm chưa kịp thời, kiên quyết và
triệt để; một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền, đã “biến quyền lực thành
cơ hội trục lợi cá nhân”; quan liêu, cửa quyền, sống trên dân, xa dân. Những tiêu
cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, từ quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của cán bộ,
đảng viên; các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hồ
bình” bằng những âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm làm tha hố về lý
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, tăng
cường giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên hiện nay đang trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết.
Vấn đề giáo dục nói chung, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống nói
riêng ln là đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vấn đề này cũng được đề cập rất nhiều trong
các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các văn kiện Đảng và cũng
có khá nhiều tác giả, nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu hết sức cơng phu đã
được trình bày thành sách, đề án, luận án, luận văn và các bài viết trên báo, tạp
chí. Tiêu biểu như: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), “Giáo dục đạo
đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Phúc - Tổng
biên tập Tạp chí Cộng sản, (2007) “Rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng -
5
Một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng đảng hiện nay”, Tạp chí Cộng
sản. Hồng Văn Vân (2011) “Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
- nhiệm vụ cơ bản và cấp bách hiện nay”, Tạp chí Xây dựng Đảng. PGS-TS Vũ
Văn Phúc (2015), “Một số giải pháp phịng, chống suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đang viên hiện nay”, Nxb Chính
trị Quốc Gia, Hà Nội. TS. Trịnh Thanh Tâm, Viện Xây dựng Đảng - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2015), “Cấp ủy, tổ chức đảng giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng.
Trong những năm gần đây, có nhiều tác giả đã đi vào nghiên cứu vấn đề
đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường. Chẳng hạn Trịnh Duy Huy (2009),
Xây dựng đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã phân tích tác động của kinh tế thị trường đối với
đạo đức, đạo đức mới và những chuẩn mực cơ bản của đạo đức mới. Đặc biệt trên
cơ sở phân tích, chỉ rõ thực trạng đạo đức xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay. Nguyễn Ngọc Hà (Chủ biên) (2011). Đặc điểm tư
duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trong công trình này các tác giả đã trình
bày một cách có hệ thống những quan điểm khác nhau về cách định nghĩa khái
niên “tư duy” và “lối sống”, cơng trình đã phân tích sâu sắc một số đặc điểm cơ
bản của tư duy và lối sống truyền thống của con người Việt Nam, sự bất cập của
các đặc điểm ấy so với yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế. Khơng chỉ có ý
nghĩa góp phần nâng cao nhận thức của con người Việt Nam về con người Việt
Nam, mà con cung cấp căn cứ lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vấn đề này cũng được tiếp cận ở một số luận văn, luận án, đề tài như:
Luận án tiến sĩ triết học Cao Thu Hằng (2012), Kế thừa các giá trị đạo
đức truyền thống trong xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay,
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội. Trong cơng trình khoa học này
6
tác giả đã trình bày một cách tương đối có hệ thống quan điểm mácxít về nhân
cách, vai trị của giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con
người Việt Nam hiện nay; đề xuất một số giải pháp kế thừa các giá trị đạo đức
truyền thống trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Luận văn thạc sĩ triết học Đỗ Thị Toán (2006), “Vấn đề đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng hiện nay” (Qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa). Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong đó, tác giả đã gợi
mở một số vấn đề đạo đức mới, luận giải, chỉ ra thực trạng vấn đề đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng hiện nay qua thực tế ở tỉnh Thanh Hóa, từ đó đề xuất
phương hướng, giải pháp để nâng cao vai trò của đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn tiến sĩ triết học Nguyễn Thị Thanh Hà (2014), Giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Những luận giải của tác giả khá rõ nét về lối sống sinh viên, cũng
như tầm quan trọng, nội dung của việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt
Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
Trước tình hình suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay, đã có nhiều tác giả có nhiều
cơng trình nghiên cứu, bài viết phát huy hiệu quả của việc đẩy mạnh “Học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số
03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị và gần đây nhất là Chỉ thị số 05CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị vào việc phịng, chống suy thối đạo
đức lối sống của cán bộ, đảng viên, tiêu biểu như:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giải quyết mối quan hệ cá nhân - xã hội
trong đạo đức của người cách mạng” Tiến sĩ Phan Huy Kỳ, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội, 2010. Cơng trình nghiên cứu về tư tưởng nói chung và đạo
đức Hồ Chí Minh nói riêng, thiết thực góp phần vào việc thực hiện học tập và
7
làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh. Cơng trình khơng chỉ là
kết quả nghiên cứu, chắt lọc về tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cịn là những đúc kết
về mặt lý luận trong mối quan hệ đạo đức giữa cá nhân và xã hội.
“Góp phần phịng, chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)”, PGS, TS Võ Văn Thắng, NXB Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012. Cơng trình nghiên cứu đề cấp đến những
vấn đề chung về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nêu thực trạng và giải
pháp ngăn chặn suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên hiện nay.
“Bàn về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thối tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống hiện nay”, Ban Tổ chức Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012. Cuốn
sách này bao gồm các tham luận, các ý kiến tâm huyết của các đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học và những người trực tiếp làm cơng tác
thực tiễn; tập trung phân tích thực trạng, ngun nhân, trình bày kinh nghiệm ở
các địa phương, đồn thể và đưa ra nhiều giải pháp để thực hiện có hiệu quả việc
đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống trong điều kiện hiện nay.
Từ các cách tiếp cận khác nhau, những cơng trình nêu trên đã nghiên
cứu, tiếp cận theo những hướng nhất định, với một đối tượng nghiên cứu cụ
thể và đề xuất nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên trong cả nước; là cơ sở phục vụ việc học tập,
nghiên cứu xây dựng luận văn Tiến sĩ, thạc sỹ khoa học, chuyên ngành Chính
trị học. Tuy nhiên, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, tồn diện giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra phải đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh để nâng cao năng lực
8
lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ, chi bộ cơ sở, tạo niềm tin vững chắc
của cán bộ, đảng viên vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước và phát
huy vai trò tiền phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị cơ quan, đơn vị, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh
trong tình hình mới. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết, cần phải được nghiên cứu cả
về lý luận và thực tiễn để tìm ra phương hướng, giáp pháp thích hợp, cụ thể và có
tính khả thi cao. Với những lý do trên và nhận thức được tầm quan trọng, chúng tôi
chọn vấn đề “Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các
cơ quan tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao
học, chuyên ngành Chính trị học.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; luận văn tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ
khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn phân tích, khái quát những vấn đề lý luận về công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và làm rõ sự cần thiết phải giáo dục đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa.
- Khảo sát, phân tích, tìm hiểu thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn hiện nay .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán
bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
9
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa. Quan
điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về giáo dục đạo đức, lối sống. Ngồi ra, luận văn có kế thừa kết quả
nghiên cứu của một số cơng trình có liên quan.
Luận văn sử dụng những văn bản của Trung ương, Tỉnh ủy Thanh Hóa và
Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa về công tác giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên. Cụ thể là Nghị quyết Trung ương 4 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” và Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học: phân tích, tổng hợp, nghiên
cứu tài liệu, thống kê, điều tra, so sánh ..
6. Đóng góp của đề tài
- Những luận điểm và kết luận của luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ và
cung cấp luận cứ khoa học cho việc xác định các quan điểm và hoạch định chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên nói chung và cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh
Hóa nói riêng.
10
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho các đảng bộ, chi bộ, các tổ
chức chính trị - xã hội khối các cơ quan tỉnh trong việc xây dựng các nghị quyết,
chương trình, chính sách về cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể góp phần nâng cao cơng tác công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa và các
đơn vị thuộc Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh, Đảng bộ khối doanh nghiệp tỉnh
trên phạm vi cả nước. Góp phần vào việc đấu tranh chống các biểu hiện suy
thoái về đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên - những vấn đề bức xúc ở cơ sở
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
chữ viết tắt và phụ lục, phần nội dung luận văn này gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên.
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Thanh Hóa.
11
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
1.1. Một số khái niệm cơ bản về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức lối
sống cho cán bộ, đảng viên
1.1.1. Khái niệm đạo đức, lối sống
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một vấn đề rất quen thuộc và gần gũi với mỗi chúng ta. Nó gắn
liền với bản chất con người và đời sống xã hội, đồng thời nó được xem như một
biểu tượng đặc trưng về nhân cách văn hóa. Cho nên người ta thường nói đến văn
hóa đạo đức. Nếu một cá nhân thiếu đạo đức thì mọi phẩm chất, năng lực khác sẽ
khơng có ý nghĩa và xã hội cũng khơng thể phát triển bình thường.
PGS.TS Nguyễn Lương Bằng đã viết: “Đạo đức là tập hợp những nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng cử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [7,tr.9].
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống
những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó
ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự
tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với xã hội” [22, tr.12].
Từ những quan niệm trên cho thấy: Thứ nhất, với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức bao giờ cũng bị chi phối bởi điều
kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Thứ hai, đạo đức với tư cách là hành vi của con
người, nó hồn tồn mang tính tình nguyện, tự giác khơng chịu sự ép buộc nào,
cho nên những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm, khơng
trừ một ai. Do đó địi hỏi chủ thể phải có ý thức tự giác cao trong nhận thức và
12
trong hành động, đây chính là nét đặc trưng tiêu biểu của đạo đức, đồng thời nó
cũng phản ánh các “đặc biệt” của đạo đức. Thứ ba, tiêu chuẩn giá trị đạo đức
phải phù hợp với mối tương quan giữa lợi ích chung của xã hội và lợi ích riêng
của cá nhân trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Xuất phát từ những căn cứ trên, có thể khái quát định nghĩa về đạo đức
như sau: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh các mối quan hệ cá nhân - xã
hội, nó bao gồm một hệ thống những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội
nhằm điều chỉnh hành vi mang tính tự nguyện, tự giác của mỗi người trong mối
quan hệ với người khác và với xã hội nói chung, điều chỉnh mối quan hệ lợi ích
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội trong những giai đoạn lịch
sử nhất định [30, Tr.12].
Cấu trúc của đạo đức gồm ba thành tố cơ bản: ý thức đạo đức, hành vi đạo
đức và quan hệ đạo đức.
Một là, ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về
thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, nghĩa vụ, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng...và
về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi, ứng xử của cá nhân đối với xã
hội, giữa cá nhân với cá nhân.
Hai là, hành vi đạo đức. Là sự biểu hiện trong ứng xử thực tiễn của ý thức
đạo đức mà con người nhận thức và lựa chọn. Hành vi đạo đức tác động trực
tiếp đến con người và gắn liền với ý thức đạo đức. Khi xem xét văn hóa đạo đức,
chúng ta khơng thể chỉ xem xét ý thức đạo đức mà phải xem xét cùng với những
hành vi đạo đức.
Ba là, quan hệ đạo đức. Quan hệ đạo đức là hệ thống những mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội về mặt đạo đức, được thể hiện qua các phạm
trù: bổn phận, trách nhiệm, lương tâm, nghĩa vụ, quyền lợi... giữa cá nhân với cá
nhân, cá nhân với tập thể, cộng đồng và cá nhân với xã hội. Những quan hệ này
thường được hình thức hóa bằng những nghi thức xã hội, những phong tục, tập
qn... Chính vì vậy, một mặt, nó thể hiện ý thức đạo đức; mặt khác, nó đóng
vai trị hình thành và củng cố ý thức đạo đức. Đạo đức là cái thiện, nhưng cái
13
thiện thể hiện rất cụ thể dưới hình thức ứng xử hoặc thái độ của từng cá nhân.
Đời sống tinh thần của các cá nhân được hun đúc, nuôi dưỡng và hình thành bởi
lịch sử cá nhân. Đạo đức của mỗi cá nhân phụ thuộc vào nhận thức, tình cảm và
ý chí của họ. Nhận thức, tình cảm đạo đức có vai trị quan trọng với hành vi đạo
đức của mỗi cá nhân. Bởi lẽ, trước hết, khi nói đến đạo đức là nói đến những
tình cảm đạo đức tích cực, lòng yêu thương của mỗi cá nhân. Các nhân tố tình
cảm, nhận thức, hành vi... gắn bó chặt chẽ, tác động và quan hệ mật thiết với
nhau. Nhận thức đúng là điều kiện cần thiết dẫn tới việc hình thành tình cảm đạo
đức tích cực và ngược lại, nếu nhận thức sai sẽ dẫn đến hành vi xấu. Tình cảm
đó ảnh hưởng rất nhiều tới q trình nhận thức, dẫn tới những hành vi có đạo
đức hay phi đạo đức. Ngược lại những thói quen, cách cư xử trong giao tiếp, tạo
cho con người nhận thức và hành động theo qn tính, theo đường cũ, ảnh
hưởng tới tình cảm của cá nhân. Đạo đức cá nhân góp phần hình thành đặc điểm
cộng đồng. Nếu đạo đức cá nhân tương tác nhau tạo ra một giá trị thống nhất
tương đối trong cộng đồng thì được xem là đạo đức của cộng đồng.
1.1.1.2. Vai trò của đạo đức
Chức năng của đạo đức thể hiện rõ nét vai trò của đạo đức. Đạo đức có
các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng phản ánh: Đạo đức bị chi phối bởi những quan hệ
lợi ích. Hành vi đạo đức cá nhân khơng chỉ thể hiện ý thức đạo đức của họ mà
còn phản ánh quan hệ lợi ích giữa họ với các cá nhân khác và với xã hội. Ở góc
độ triết học, mâu thuẫn xã hội được phản ánh trong đạo đức xã hội, bởi vì, ý
thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội mà ý thức xã hội do tồn tại xã hội
quyết định.
Thứ hai, chức năng giáo dục: Là quá trình tác động đến đối tượng giáo
dục nhằm mục đích chuyển hóa những ngun tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội
thành những phẩm chất đạo đức nhân cách cho đối tượng giáo dục, hình thành ở
họ thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của
xã hội, thói quen chấp hành các quy định của pháp luật.
14
Hay nói cách khác, khi chuẩn mực đạo đức được cộng đồng chấp nhận thì
nó tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo
dục, tự rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã
hội. Khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của một người, chủ thể nhận xét
cũng tự điều chỉnh mình, tự giáo dục và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức
chung trong xã hội ngày càng hồn thiện hơn. Đó chính là sự giáo dục lẫn nhau
giữa các cá nhân và cá nhân với cộng đồng.
Thứ ba, chức năng điều chỉnh. Những chuẩn mực đạo đức điều chỉnh
hành vi của cá nhân, của cộng đồng và mối quan hệ giữa người với người trong
xã hội. Với mỗi cá nhân, các nguyên tắc, chuẩn mực và định hướng giá trị đạo
đức, cùng với sự kiểm tra, đánh giá của toàn xã hội có tác dụng điều chỉnh hành
vi của họ, để họ tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu chung
của cộng đồng. Trong quan hệ giữa người với người, quan niệm và hành vi đạo
đức của người này có tác động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người
khác và ngược lại. Đạo đức khơng hẳn tỷ lệ thuận với trình độ học vấn, trình độ
nhận thức của mỗi cá nhân. Bởi vì, có trình độ học vấn cao chưa hẳn có ý thức
và hành vi đạo đức cao. Tuy vậy, để có được nhân cách cao thượng thì cần phải
có đạo đức tốt và năng lực hiểu biết nhất định.
Từ những chức năng cơ bản trên, ta thấy đạo đức có vai trò quan trọng đối
với đời sống xã hội. Chế độ xã hội nào xây dựng được những chuẩn mực giá trị
đạo đức tốt, hồn thiện sẽ góp phần tạo dựng nền tảng tinh thần của cộng đồng
xã hội, cho xã hội vững chắc, góp phần ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Trong
bất kỳ xã hội nào, sự xuống cấp, suy thoái đạo đức, sự lệch lạc chuẩn mực đạo
đức là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, mất ổn định chính
trị, kinh tế, xã hội...
1.1.1.3. Khái niệm về lối sống
Hiện nay, có khá nhiều quan niệm khác nhau, với nhiều định nghĩa khác
nhau về “Lối sống”. Từ lâu, khái niệm này được các nhà triết học, văn hóa, xã
15
hội đề cập. Từ “lối sống” được dịch từ chữ “Mode de vie” trong tiếng Pháp,
“Lebensweise” trong tiếng Đức và “Way of life” trong tiếng Anh. Vào những
thập niên 60-80 của thế kỷ XX, ở Liên Xô cũ và các nước Đơng Âu có hơn 50
định nghĩa về lối sống. Theo Rútkêvích: “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống
những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, giai cấp, các nhóm
xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất
định”, còn G.Glezerman cho rằng: “Lối sống là tổng hịa những nét cơ bản, nói
lên những đặc điểm của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các
nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”. Mặc dù
đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm lối sống, nhưng đến nay
người ta vẫn chưa thể nêu lên một định nghĩa tương đối thống nhất về nội dung
và ý nghĩa của nó. Điều này cho chúng ta thấy rõ tính phức tạp của khái niệm
“lối sống”. Có thể nói “Lối sống là sự khúc xạ hình thái kinh tế xã hội trong nhận
thức, tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân
của con người” [44, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau, có lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái kinh tế - xã
hội có giai cấp, lối sống mang tính giai cấp.
Ở Việt Nam, “lối sống” là một danh từ ghép. Lối là lề lối, thể thức, kiểu
cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động của sinh vật, của con
người và xã hội. Hiện nay, nhiều từ điển tiếng Việt và Hán - Việt đã và đang lưu
hành chỉ đề cập khái niệm “lối sống giản dị” làm ví dụ, làm minh họa cho từ “lối”
và dẫn “nếp sống” khi đề cập đến khái niệm “sống”. Có tác giả cho rằng, từ lối
sống và nếp sống là kết quả của việc tạo từ trong ngôn ngữ tiếng việt và cách
dùng thuật ngữ khác nhau để dịch một thuật ngữ nước ngoài (Nga). Và sách cổ,
sách chữ Hán, sách chữ Nơm khơng có hai thuật ngữ này. Trong thời kỳ cận đại
và hiện đại (sau cách mạng Tháng Tám), đã bắt đầu hình thành khái niệm về cách
thức, lề lối, nề nếp của con người trong sự sống. Các khái niệm trên có thể mượn
dịch hoặc phỏng theo từ nước ngoài. Hiện nay, khái niệm lối sống được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau: triết học, xã hội học, tâm lý học...
16
Thuật ngữ “lối sống” được Đảng ta đề cập lần đầu tiên trong văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Các đại hội sau đó, Đảng ta đều đề
cập vấn đề lối sống. Quan tâm sâu sắc đến vấn đề này, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nhấn mạnh “Tệ sùng
bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống
thực dụng cá nhân vị kỷ. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống
của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có
quyền”[10, tr.46-47]. Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề lối sống được Đảng ta quan
tâm sâu sắc như hiện nay. Tháng 7 năm 2004, Hội nghị lần thứ mười, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX họp để tổng kết, đánh giá tình hình 5 năm thực
hiện Nghị quyết lần thứ năm. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Đảng
ta đã 17 lần đề cập khái niệm lối sống.
Hiện nay, vấn đề lối sống được các nhà nghiên cứu ở nước ta quan tâm
nhiều hơn và nghiên cứu sâu hơn. Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin về lối sống, Giáo sư Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam,
xã hội và con người” đã quan niệm lối sống theo nghĩa rất rộng: “Lối sống là
phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các
nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và
hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn
hóa” [32, tr.517].
Có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của lối sống sau đây:
Thứ nhất, nói đến lối sống là nói đến tổng hịa các hoạt động sống ổn định
của con người gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và các cá nhân trong
cộng đồng. Vì vậy, có thể phân loại lối sống theo ba cấp độ: lối sống của dân tộc
(hay quốc gia), lối sống của giai cấp (hay nhóm xã hội), lối sống của cá nhân.
Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều
kiện sống của con người.
17
Thứ ba, đặc trưng bản chất của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là
hoạt động sản xuất, bởi nó là hoạt động có tính chất nền tảng, có tính người
trong việc sáng tạo các giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần.
Thứ tư, tổng hòa các khuôn mẫu ứng xử, các thể chế xã hội được vận
hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định, đó chính là nội dung và phạm vi của lối sống.
Thứ năm, lối sống nói chung mang tính văn hóa, bởi vì trong các hành động
xã hội, các quan hệ xã hội, các thể chế xã hội, các khuôn mẫu ứng xử... trong lối
sống đều mang ý nghĩa văn hóa, hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp.
Từ những luận điểm trên, có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về lối
sống là: “Lối sống là tổng thể những nét căn bản, đặc trưng cho hoạt động sống
của các cá nhân, các nhóm xã hội, các tập đồn xã hội và các giai cấp, các dân
tộc - trong những điều kiện xã hội nhất định về mặt lịch sử, nhằm thể hiện họ về
mọi mặt, với tư cách là các thực thể xã hội”.
1.1.2. Quan niệm về giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
1.1.2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trải qua 87 năm xây dựng và
trưởng thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ln coi trọng công tác giáo dục
đạo đức cách mạng và lối sống cho cán bộ, đảng viên. Ngay khi chuẩn bị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1927 trong tác phẩm Đường kách mệnh,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đặt lên trang đầu nội dung về tư cách một
người cách mệnh. Có thể coi đó là một chuẩn mực đầu tiên cần có cho những ai
bước vào con đường cách mạng. Tư cách ấy có 03 nhóm vấn đề: tự mình phải
làm gì; đối với người phải thế nào; làm việc phải như thế nào. Trong 14 điểm tự
mình phải làm gì rất đáng chú ý như: Giữ chủ nghĩa cho vững; không hiếu danh,
không khiêu ngạo; nói thì phải làm; ít lịng tham muốn về vật chất; cần kiệm, vị
công vong tư... Nhận thức lời dạy sâu sắc của Bác Hồ, nhiều thế hệ các chiến sỹ
18
cách mạng, những đảng viên cộng sản đã giữ vững khí tiết cộng sản, ý chí đấu
tranh trên nền đạo đức đó.
Ngay sau khi giành được chính quyền, đã xuất hiện những tiêu cực,
những căn bệnh cần phải loại trừ. Trong thư gửi chính quyền các cấp ngày
17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh như: Trái phép,
cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhấn mạnh: “Chúng ta không
sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, không
ai phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho thêm tiến
bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải ra sức sửa chữa, nếu khơng tự
sửa chữa thì Chính phủ sẽ khơng khoan dung”.
Trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc vơ cùng khó khăn gian khổ, Hồ
Chí Minh cũng luôn đặt ra những yêu cầu nghiêm khắc về tu dưỡng đạo đức
cách mạng. Trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc (10-1947) Chủ tịch Hồ Chí
Minh nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm của một số cán bộ, đảng
viên với các bệnh tham nhũng, lười biếng, khiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật,
hẹp hòi địa phương chủ nghĩa, bè cánh cá nhân... Người nhấn mạnh 5 đức tính
tốt cần rèn luyện đó là: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Sau ngày miền Bắc được giải phóng (1954) và tiến lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng cầm quyền đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ, nặng nề. Điều đó địi hỏi
cán bộ, đảng viên của Đảng phải có trình độ học vấn và lý luận nhất là lý luận về
xây dựng chủ nghĩa xã hội, hiểu biết về kinh tế, nắm bắt quy luật và đặc điểm
thực tiễn. Mặc khác phải tu dưỡng đạo đức nhiều hơn để khắc phục những nguy
cơ của Đảng cầm quyền. Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm quan
trọng: Đạo đức cách mạng. Người nêu rõ, đạo đức cách mạng là: “Quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức
làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước
lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân, mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ
19
nghĩa Mác - Lênin, ln ln dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng
và cải tiến cơng tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Ngày 03/02/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo: “Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Người cho rằng: “Để làm cho tất cả
cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sỹ cách mạng, Đảng ta phải ra sức
tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối,
chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”. “Mỗi cán
bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên
hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức
cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đồn kết, tính tổ chức và kỷ
luật”. Phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, cố gắng học tập, rèn luyện,
nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.
Trong bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”. Chỉ trong một đoạn ngắn nói về đạo đức cách mạng, Người đã 4
lần dùng chữ thật và thật sự để nhấn mạnh phẩm chất trung thực, thực hiện triệt
để, rèn luyện đến nơi, đến chốn. Tư tưởng của Người là đạo đức cách mạng
không thể dung hoà với cái giả dối, nữa vời, qua loa. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, cái xấu và cái tốt, cái tích cực và cái tiêu cực đan xen tác động
hàng ngày, hàng giờ đến mọi người. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống,
tham nhũng, quan liêu, cơ hội, luồn lách, chạy theo tiền tài, danh lợi, nói khơng
đi đơi với làm, dối trá, đạo đức giả… đang diễn ra phổ biến. Đó là những thách
thức lớn đối với vận mệnh của Đảng và tiền đồ của đất nước. Bởi vậy, thực hiện
cho được chữ thật, thật sự của Bác Hồ được đầy đủ, trọn vẹn, phải là công việc
bền bỉ, phải làm thường xuyên và suốt đời. “Đạo đức cách mạng không phải trên
trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
cũng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
20
Theo Người, rèn luyện đạo đức cách mạng là một quá trình gian khổ, phải
kiên trì, tự giác, tự nguyện, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, gắn rèn
luyện đạo đức với thực tiễn công tác, nêu cao chủ nghĩa tập thể, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Mỗi một con người hơm qua cịn vĩ đại, nhưng ngày mai sẽ
không như thế nếu không rèn luyện thường xuyên, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Coi xây dựng đạo đức cách mạng “là việc sung sướng, vẽ vang nhất trên đời”.
“Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa
chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ khơng có bệnh
mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vơ cùng”.
1.1.2.2.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức, lối sống có vai trị to lớn, góp phần quan trọng vào việc giác ngộ
cách mạng, nâng cao nhận thức chính trị, thống nhất ý chí và hành động của cán
bộ, đảng viên nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nhất quán của Đảng là coi trọng đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên cả về đức và tài, trong đó đức là gốc. Điều
này được thể hiện rõ trong các văn kiện, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, như:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006) nhấn mạnh
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng nhằm đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nội
dung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng được Đại hội đề cập tồn diện từ nâng
cao trình độ trí tuệ, lý luận, bản lĩnh chính trị đến đổi mới tổ chức, hoạt động của
Đảng, đến kiện toàn và đổi mới tổ chức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, từ đổi
mới phương thức lãnh đạo đến nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Chất
lượng đội ngũ đảng viên thể hiện ở trình độ học vấn, hiểu biết lý luận, ở năng