THỰC TRẠNG XKTS VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA
I. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA XKTS TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Thuỷ sản là một ngành công nghiệp thực phẩm có vị trí quan trọng trong nền kinh tế
thế giới nói chung và Việt nam nói riêng. Việc phát triển ngành thuỷ sản tạo cơ hội công ăn
việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven
biển, là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận nhân dân làm nghề khai
thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá như: Cảng,
biển, đóng sửa tàu thuyền, sản xuất nước đá, cung cấp bao bì…và sản xuất hàng tiêu dùng
cho ngư dân. Thuỷ sản cũng có những đóng góp đáng kể cho sự khởi động và tăng trưởng
kinh tế chung của cả nước
Việt Nam có điều tự nhiên và nguồn lợi phong phú, đa dạng thuận lợi cho phát triển
và hợp tác quốc tế về thuỷ sản. Do đó kinh tế thuý sản ngày càng có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Cả nước có hàng chục tỉnh ven biển coi thuỷ sản là ngành kinh tế
quan trọng. Tuy sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) còn thấp so với tiềm
năng thuỷ sản của đất nước, nhưng nó cũng cung cấp hơn 30% lượng đạm động vật cho
bữa ăn của người dân trong nước và xuất khẩu sang thị trường các nước trên thế giới một
lượng hàng thuỷ sản đáng kể, góp phần trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Đối với kinh tế thế giới, ngành thuỷ sản nói chung và XKTS Việt Nam nói
riêng đã xác lập được vị trí có ý nghĩa chiến lược, phá thế bị bao vây, năm 1997 đã vươn
lên đứng thứ 19 về tổng sản lượng, thứ 30 về giá trị KNXK, thứ 5 về sản lượng tôm tươi
và đứng đầu về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Sản phẩm thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại
25 nước trong đó xuất khẩu trực tiếp tới 22 nước, một số sản phẩm đã có uy tín tại các thị
trường quan trọng ( Nhật Bản, Mỹ, EU,...).
1. Tác động của ngành thuỷ sản tới thu nhập xuất khẩu
1.1. Chỉ số đóng góp GTXK của ngành thủy sản
Bảng 2: GTXK và đóng góp của XKTS đối với xuất khẩu quốc gia thời kỳ 1996 -
2001
` Ðơn vị: 1000 USD
Năm GTXK toàn quốc
GTXK các mặt
hàng khác
GTXK nông, lâm,
thuỷ sản GTXK thuỷ sản
1996 7255,9 4214,1 3041,8 670,0
% 100,0 58,1 41,9 9,23
1997 9185,0 5952,0 3233,0 776,5
% 100,0 64,8 35,2 8,45
1998 9360,3 6036,0 3324,3 858,6
% 100,0 64,5 35,5 9,17
1999 11540,0 8627,8 2912,2 976,1
% 100,0 74,8 25,2 8,46
2000 14308,0 10186,8 4121,2 1402,2
% 100,0 71,2 28,8 9,80
2001 15100,0 10090,4 5009,6 1760,6
% 100,0 66,8 33,2 11,66
TĐTTBQ (%) 13,0 14,9 9,5 14,6
Nguồn : Số liệu lấy từ Niên giám thống kê Nông Lâm Thuỷ sản
Những số liệu trong bảng trên đây cho ta thấy, XKTS đã có một tốc độ tăng trưởng
tương đương với tốc độ tăng trưởng trong xuất khẩu của các ngành công nghiệp, dịch vụ
và xây dựng. Nếu so sánh với các ngành kinh tế khác thì Thủy sản vốn là một ngành nhỏ
bé, không đồ sộ, tuy nhiên với GTXK của ngành hàng năm có chiều hướng tăng lên và đã
vượt qua giới hạn 10 % (gần 12%) của xuất khẩu quốc gia vào năm 2001 thì phải nói đây
là một thế mạnh thực sự của kinh tế Việt Nam.
Theo bảng 3 ta có thể thấy: Tỷ trọng GTXK ngành Thuỷ sản trong tổng
GTXK trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp toàn quốc liên tục tăng trong thời kỳ 1996
- 2001, từ 22% lên 35,14%.
Tốc độ tăng trưởng bình quân (TÐTTBQ) giá trị xuất khẩu ngành Thuỷ sản giai
đoạn 1996 - 2001 đạt trên 14%, cao hơn tốc độ TTBQ của toàn quốc và cao hơn rất nhiều
so với ngành nông và lâm nghiệp. Chứng tỏ ngành Thuỷ sản đang có lợi thế hơn hẳn nông
nghiệp và lâm nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Cho nên, với thời đại kinh tế mang xu
hướng hội nhập toàn cầu thì ngành thủy sản là một lĩnh vực kinh tế đầy tiềm năng và có lợi
thế cao của nền kinh tế nước nhà.
Bảng 3 : Vị trí XKTS đối với ngành nông lâm ngư nghiệp
ĐVT: %
Năm
%
GTXK nông,
lâm, thuỷ
sản
Trong đó
GTXK
nông sản
GTXK
lâm sản
GTXK
thuỷ sản
1996 3041.
8
2
159.6
2
12.2
670.
0
%
41,9
7
1,0
7,
0 22,0
1997 3233.
0
2
231.3
2
25.2
776.
5
%
35,2
6
9,0
7,
0 24,0
1998 3324.
3
2
274.3
1
91.4
858.
6
%
35,5
6
8,4
5,
8 25,8
1999 2912.
2
2
545.9
1
69.2
976.
1
%
25,2
8
7,4
5,
8 6,8
2000 4121.
2
2
563.3
1
55.7
1402
.2
%
28,8
6
2,2
3,
8 34,0
2001 5009.
6
2
984.1
2
65
1760
.6
%
33,2
2
9,6
5,
3
35,1
4
TĐTT BQ
9,5
7,
1
5,
0 14,6
Nguồn: Niên giám thống kê - tổng cục thống kê
1.2.Chỉ số so sánh tốc độ tăng trưởng GTXK ngành Thuỷ sản với toàn quốc:
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng GTXK của các ngành kinh tế thời kỳ 1996 - 2001
ĐVT: %
STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001
I Cả nước 24,904 21,003 1,873 18,888 19,346 5,245
1
Mặt hàng
khác 28,832 29,199 1,391 23,670 22,373 -0,957
2
Nông, lâm,
Thuỷ sản 19,462 5,913 2,747 8,477 11,864 17,736
2.1 Nông sản 19,161 3,213 1,891 10,668 0,679 14,101
2.2 Lâm sản 27,474 5,773 -17,659 -13,121 -8,671 41,245
2.3 Thuỷ sản 17,896 13,712 9,566 6,381 34,593 20,358
Nguồn: Niên giám thống kê - tổng cục thống kê
Tốc độ tăng trưởng GTXK chung của cả nước không ổn định, nếu như năm 1996
tốc độ tăng là 28,83%/năm thì đến năm 2001 chỉ còn 5,24%/năm. Tuỳ theo từng năm mà
tốc độ tăng khác nhau nhưng nhìn chung tốc độ tăng GTXK của các năm gần đây có xu
hướng giảm. Tuy nhiên nếu xét theo ngành nghề cụ thể thì có sự khác biệt rõ rệt, đối với
ngành thuỷ sản ta thấy đây là ngành có sự tăng trưởng khá cao, tuy cũng không ổn định.
Năm 1996 tốc độ tăng GTXK của ngành là 17,89% và năm 2001 tốc độ tăng là 20,35%;
đặc biệt năm 2000 ngành đã đạt được tốc độ tăng trưởng là 34,59%. Có thể nói XKTS giai
đoạn 1996-2001 đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Bảng tính hệ số so sánh tốc độ tăng trưởng GTXK (α
xk
) của các ngành kinh tế cho
ta thấy được mức độ ảnh hưởng tốc độ tăng GTXK của từng ngành đối với tốc độ tăng
trưởng GTXK của nền KTQD, nó được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 5: Hệ số so sánh tốc độ tăng trưởng GTXK của các ngành kinh tế so với
GTXK toàn quốc thời kỳ 1996-2001
STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001
1
Mặt hàng
khác 1,158 1,390 0,743 1,253 1,156 -0,182
2
Nông, lâm,
Thuỷ sản 0,781 0,282 1,467 0,449 0,613 3,382
2.1 Nông sản 0,769 0,153 1,010 0,565 0,035 2,689
2.2 Lâm sản 1,103 0,275 -9,429 -0,695 -0,448
7,864
2.3 Thuỷ sản 0,719 0,653 5,108 0,338 1,788
3,881
Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục thống kê
Bảng trên cho thấy hệ số α
xk
ngành Thuỷ sản đến năm 1997 vẫn nhỏ hơn 1 có
nghĩa tốc độ tăng trưởng GTXK của ngành Thuỷ sản trong những năm 1996-1997 thấp hơn
tốc độ tăng trưởng chung của toàn quốc, năm 1998 hệ số này đã tăng mạnh, đạt 5,2 và
ngành thuỷ sản đã góp phần làm tăng sự tăng trưởng GTXK của nền kinh tế quốc dân.
Năm 1999, hệ số α
xk
của ngành giảm mạnh, một trong những nguyên nhân cơ bản là do
dịch bệnh tôm ảnh hưởng lớn đến sản lượng tôm xuất khẩu. Từ năm 2000, hệ số này của
ngành thuỷ sản lại có sự tăng mạnh và là cao nhất so với các ngành còn lại, ngoại trừ ngành
lâm nghiệp có sự tăng trưởng rất bấp bênh. Ðây là một biểu hiện tốt trong tác động của
ngành Thuỷ sản tới thu nhập xuất khẩu của nền kinh tế quốc dân, sự phát triển ngành xứng
đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
2. Tác động của ngành Thuỷ sản tới phát triển thương mại quốc tế
2.1. Ðánh giá khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam
Bảng 6: Hệ số cạnh tranh RCA của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam thời kỳ
1996 - 2000
RC
A
199
6
1997 1998 1999 2000
RC
A
(Tôm)
35,6 28,7 32,4 31,2 34,1
RC
A
(Mực)
11,1 19,0 18,3 15,6 15,0
RC
A
(Cá)
16,9 17,6 15,9 15,6 21,9
Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục thống kê
Chỉ số RCA càng cao thì càng có lợi thế so sánh, theo các chuyên gia kinh tế cho
rằng:
RCA < 1 Sản phẩm không có lợi thế so sánh.
1 < RCA < 2,5 Sản phẩm có lợi thế so sánh.
RCA > 2,5 Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao.
Kết quả phân tích trên cho ta thấy tất cả các nhóm sản phẩm chính của hàng thuỷ
sản Việt Nam đều có hệ số cạnh tranh rất cao và có xu hướng ngày càng cao. Chứng tỏ lợi
thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam khá cao.
Tuy kết quả tính toán cho thấy RCA của Việt Nam khá cao (khả năng cạnh tranh
cao), nhưng thực tế trên thị trường quốc tế để cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại
không phải không gặp rất nhiều khó khăn do hàng thủy sản của Việt nam cũng gặp những
đối thủ cạnh tranh có ưu thế cạnh tranh rất lớn như sản phẩm của Thái Lan, Indonexia,
Trung quốc. Do phương pháp tính này chỉ đưa ra kết luận về lợi thế cạnh tranh so với quốc
tế mà không tính đến tương quan giữa các nước có cùng lợi thế cạnh tranh như nhau nên
mặc dù đã có được lợi thế cạnh tranh so với quốc tế nhưng để cạnh tranh được với các
nước có cùng lợi thế cạnh tranh thì đòi hỏi phải chú ý tới các yếu tố khác như giá, chất
lượng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm, cách tiếp cận thị trường.
2.2.Ðánh giá tác động của ngành Thuỷ sản tới mở rộng quan hệ thương mại quốc
tế:
Phát triển của ngành Thuỷ sản nói chung, của XKTS nói riêng đã mở ra một thời kỳ
phát triển mới cho quan hệ thương mại quốc tế. Nếu năm 1996, quan hệ thương mại quốc
tế của ngành Thuỷ sản mới chỉ dừng ở con số 30 nước thì đến năm 2001, hàng thuỷ sản
Việt Nam đã có bán tại 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 con số này đã là 75 nước và
vùng lãnh thổ, năm 2004 là 80. Quan hệ thương mại thuỷ sản được mở rộng tại Mỹ và các
nước EU là một đóng góp đáng kể của ngành Thuỷ sản trong việc mở rộng quan hệ thương
mại quốc tế của nền kinh tế Việt Nam.
Quan hệ thương mại thuỷ sản được mở rộng đã dẫn đến các quan hệ với nhiều ký
kết song phương và đa phương với các nước Ðan Mạch, Nhật Bản, Na Uy, Nga, Mỹ, Hàn
Quốc, và với các tổ chức quốc tế như FAO, SEAFDEC, DANIDA, UNDP, ADB, WB, .
Các ký kết này đã phát huy hiệu quả to lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của ngành
Thuỷ sản nói riêng của cả nước nói chung. Cũng trên cơ sở này, tạo điều kiện cho Việt
Nam hiểu đầy đủ hơn về pháp luật và thông lệ quốc tế giúp cho kinh tế Việt Nam thâm
nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới.
II. THỰC TRẠNG XKTS VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Thành tựu của XKTS trong những năm qua, nguyên nhân
1.1.Thành tựu của xuất khẩu thuỷ sản
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, sau gần
20 năm ngành thuỷ sản đã có nhiều nỗ lực và chủ động phát huy mọi nguồn lực của các
thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh và đã đạt nhiều thành tựu đáng kể, đóng
góp tích cực vào công cuộc ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
* Về kim ngạch xuất khẩu
Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô và tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong 20 năm qua. Tốc độ tăng bình quân hàng năm về sản lượng sản
phẩm từ 4,6% đến 5,5%, về KNXK thuỷ sản từ 22% đến 25%. Năm 2000 GTXK thuỷ sản
tăng gấp 7 lần so với năm 1990, 13 lần so với năm 1986 và khoảng 140 lần so với năm
1980.
Tuy bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế trong khu
vực nhưng KNXK thuỷ sản năm 1998 của nước ta vẫn đạt 858,6 triệu USD tăng gần 10%
so với thực hiện năm 1997 (776,5 triệu USD), đưa Việt Nam vào hàng thứ 29 trên thế giới
và thứ 4 tại khu vực ASEAN về XKTS, sau Thái Lan, Indonexia, Singapore…
Bảng 7: Tổng giá trị kim ngạch XKTS của Việt Nam qua các năm.
Năm Giá trị kim
ngạch XKTS
(tr.USD)
Tăng
(giảm) so
với năm
trước (%)
GTXK toàn
quốc
(tr.USD)
% so với
GTXK toàn
quốc
1986 109,23 - 789,1 13,8
1987 132,00 20,8 854,2 15,5
1988 178,00 34,8 1.038,4 17,1
1989 188,20 5,7 1.946,0 9,7
1990 239,00 27,0 2.404,0 9,9
1991 252,00 5,4 2.087,1 12,1
1992 305,00 21,0 2.580,7 11,8
1993 427,00 40,0 2.985,2 14,3
1994 551,00 29,0 4.054,3 13,6
1995 620,00 12,5 5.448,9 11,4
1996 670,00 8,0 7.255,8 9,2
1997 776,50 15,9 9.185,0 8,5
1998 858,60 10,6 9.360,3 9,2
1999 976,10 13,7 11.540,0 8,5
2000 1.402,20 43,7 14.308,0 9,8
2001 1.760,60 25,6 15.027,0 11,7
2002 2.014,00 14,4 16.706,0 12,7
2003 2.201,00 9,3 19.880,0 11,1
2004 2.397,00 8,9 26.500,0 9,1
Ước 2005 2.744,60 14,5 31.500,0 8,7
Ước 2010 4.500,00 - - -
Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng cục thống kê
Trong tháng cuối năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình
XKTS đến năm 2005 với chỉ tiêu 950 triệu USD năm 1999, 1,1 tỷ USD năm 2000 và 2 tỷ
USD năm 2005. Nhưng thực tế đến nay chúng ta đã đạt được KNXK vượt xa so với kế
hoạch, thể hiện ở bảng trên đây (bảng 6).
* Về thị trường xuất khẩu thuỷ sản
Thị trường XKTS có nhiều chuyển biến tích cực ngày càng được mở rộng đã hình
thành cơ cấu thị trường hợp lý, không lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường nào, giảm hẳn
tỷ trọng các thị trường trung gian và bắt đầu giành được vị trí quan trọng trên các thị
trường lớn có yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh, có khả năng chủ động
điều chỉnh cơ cấu thị trường truyền thống có biến đổi bất lợi.
Nếu như năm 1998 hàng thuỷ sản Việt Nam mới chỉ có mặt ở khoảng 50 nước trên
khắp thế giới thì đến năm 2003 con số này đã lên tới 75. Năm 2004, thuỷ sản Việt Nam đã
được xuất khẩu vài trên 100 quốc gia, khu vực, lãnh thổ kể cả những thị trường nhỏ bé
như: Fiji, Iran, Irăc, Mali, Ruanda, Xira…với giá trị từ 10 nghìn đến vài trăm nghìn USD.
Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản, Việt Nam từ chỗ chỉ xuất khẩu qua 2 thị trường
trung gian là Hồng Kông và Singapore thì hiện nay thuỷ sản Việt Nam đã có 5 thị trường
chính là: Nhật Bản, Mỹ, EU, Trung Quốc và Đông Nam Á, với cơ cấu thị trường thay đổi
như sau:
Bảng 8: Cấu trúc thị trường XKTS Việt Nam giai đoạn 1997 - 2004
ĐVT: %
Thị trường
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Nhật 50,0 43,9 40,9 33,0 26,5 26,8 26,5 31,9
Mỹ 5,5 9,8 14,3 20,6 28,0 31,8 38,0 24,7
EU 10,0 11,4 9,6 6,2 7,0 3,5 5,5 10,3
Trung Quốc +
Hồng Kông
2,0 14,4 14,6 19,8 16,5 15,3 16,3 15,5
Thị trường khác 19,0 20,5 20,6 20,4 22,0 12,6 13,7 17,6
Nguồn: Tạp chí thủy sản qua các năm
* Về chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu
Cùng với sự tăng nhanh của KNXK, công tác quản lý chất lượng an toàn vệ sinh
thực phẩm đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam có nhiều cải thiện và không
ngừng được nâng cao, nhiều mặt hàng được đánh giá tiêu chuẩn quốc tế.
Nếu như năm 1999 mới có 18 doanh nghiệp XKTS vào thị trường EU thì đến năm
2000 uỷ ban liên minh Châu Âu đã công nhận Việt Nam có thêm 40 doanh nghiệp trong
danh sách 1 các nước XKTS kể cả nhuyễn thể hai mảnh vỏ, và 70 doanh nghiệp đủ điều
kiện xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Đến năm 2002 đã có 68 đơn vị (tăng 7 đơn vị so với năm 2001) được vào danh sách
1 XKTS vào thị trường EU, 128 đơn vị áp dụng tiêu chuẩn HACCP đủ tiêu chuẩn xuất
khẩu vào thị trường Mỹ, có 2 doanh nghiệp được cơ quan kiểm tra chất lượng hải sản của
Mỹ cấp chứng chỉ HACCP. Từ ngày 20/9/2002 EU ra thông báo ngừng áp dụng chế độ
kiểm tra 100% về dư lượng kháng sinh hàng thuỷ sản Việt Nam.
Năm 2003, số các doanh nghiệp được công nhận trong danh sách 1 của EU lên tới
100 cơ sở, đã có 160 cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn trong tổng 332 cơ sở (= 48,18%). Đồng
thời có 197 doanh nghiệp được cục quản lý chất lượng thực phẩm Hàn Quốc chấp thuận
cho xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản vào Hàn Quốc.
Đến năm 2004, các con số trên lại tiếp tục tăng lên, 200/350 cơ sở được Bộ Thuỷ
Sản công nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của ngành. Số cơ sở được phép
xuất khẩu vào thị trường sản phẩm của EU đã tăng lên 153, 200 cơ sở chế biến thuỷ sản
được phép xuất khẩu vào Hàn Quốc. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho Việt Nam có
thể tăng cường xuất khẩu trong thời gian tới.
* Về cơ cấu hàng hoá thuỷ sản xuất khẩu
Về cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất đã có sự thay đổi nhanh chóng theo hướng tăng
dần về những mặt hàng có chất lượng cao và đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm, trong đó tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng ngày càng cao, năm 1999 chỉ đạt 19,7% đến
năm 2000 đã đạt 35%. Từ một nhãn hiệu Seaprodex đến nay đã có hàng chục nhãn hiệu
thủy sản Việt Nam được thị trường thế giới công nhận như: Cafatex, Fimex VN, Kim Anh,
Minh Phú...
Năm 2003, trong cơ cấu mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu: Tôm đông lạnh vẫn là sản
phẩm chính đạt 1.059,068 triệu USD chiếm 47,28% tổng giá trị KNXK thuỷ sản, tăng
7,87% về lượng và 11,55% về giá trị so với 2002. Cá đông lạnh đạt 440 triệu USD chiếm
19,7% tổng giá trị KNXK thuỷ sản, tăng 20% về lượng và 26,2% về giá trị so với 2002.
Mực + bạch tuộc đạt 130 triệu USD chiếm 5,85 tổng giá trị KNXK thuỷ sản, giảm 1,075 so
với 2002. Mặt hàng khô giảm 1,17%.
Hiện nay, trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu , xuất khẩu tôm vẫn là mặt
hàng chủ lực có tỷ trọng áp đảo, sau đó là đến mặt hàng cá đặc biệt là cá tra và cá basa. Về
sản lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, tôm chiếm khoảng 1/4 nhưng về giá trị KNXK tôm
chiếm gần 50%. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng giá trị KNXK của ngành thủy sản quá lệ
thuộc vào tôm, Hơn nữa tại thị trường Mỹ, giá trị tôm xuất khẩu ước đạt trên 500 triệu
USD chiếm 65%. Vì thế, năm 2004 do chịu hậu quả của vụ kiện bán phá giá tôm nên
ngành thuỷ sản nhất là XKTS đã gặp rất nhiều khó khăn góp phần làm tổng KNXK năm
2004 không đạt mức kế hoạch đề ra.
Như vậy, ngành thủy sản Việt Nam nhất là XKTS trong thời gian qua đã đạt được
thành công lớn trong chiến dịch “tiến quân” vào những thị trường khó tính của thế giới,
góp phần nâng tổng KNXK thuỷ sản từ 109,23 triệu USD năm 1986 lên hơn 2 tỷ năm 2002
và 2.397 triệu USD năm 2004 vừa qua. Đây là thành tích lớn mà ngành thuỷ sản đóng góp
vào sự tăng trưởng kinh tế chung khoảng 7% của cả nước năm 2002. Thực tế này cũng
khẳng định: Thuỷ sản đang thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
1.2. Nguyên nhân của những thành tựu
Bảng 9: Kết quả thực hiện kế hoạch hàng năm của ngành thuỷ sản
Năm
Tổng sản lượng
thủy sản
(nghìn.tấn)
Sản lượng
khai thác hải
sản
(nghìn.tấn)
Sản lượng
nuôi thủy
sản
(nghìn.tấn)
Giá trị xuất
khẩu
(tr. USD)
Tổng số tàu
thuyền
(chiếc)
Diện tích mặt
nước NTTS
(tr.ha)
Số lao động
nghề cá
(1.000
người)
1990 1.019 709 310 205 72.723 491,7 1.860
1991 1.062,2 714,3 347,9 252 72.043 489,8 2.100
1992 1.097,8 746,6 351,3 305 83.972 577,5 2.350
1993 1.116,2 793,3 368,6
427
93.147 600 2.570
1994 1.211,5 878,5 333
551
93.672 576 2.810
1995 1.344,1 928,9 415,3
620
95.700 581 3.030
1996 1.373,5 962,5 411 670 97.700 585 3.120
1997 1.570 1.062 481 776 71.500 600 3.200
1998 1.668,5 1.130,7 537,9 858,6 71.799 626,3 3.350
1999 1.827,3 1.212,8 614,5 976,1 73.397 630 3.380
2000 2.003 1.280,6 723,1 1.402,2 79.768 652 3.400
2001 2.226,9 1.347,8 879,1 1.760,6 78.978 887,5 Chua XD
2002 2.410,9 1.434,8 976,1 2.014 81.800 955 Chua XD
2003 2.854,8 1.856,5 998,3 2.201 83.122 1.125 Chưa XD
2004 3.076,6 1.923,5 1.150,1 2.397 Chua XD Chưa XD Chưa XD
Nguồn : Báo cáo tổng kết hằng năm của Bộ Thủy sản
Đạt được những thành tựu to lớn kể trên, trước hết là nhờ vào sự định hướng đúng
đắn của Bộ Thuỷ sản, sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban Nhân dân và Sở Thuỷ sản các tỉnh, sự
hỗ trợ của Dự án Cải thiện Chất lượng và XKTS (SEAQIP) do Đan Mạch tài trợ, các
doanh nghiệp chế biến XKTS Việt Nam đã tập trung nỗ lực để cải tạo nâng cấp nhà xưởng,
đổi mới công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh tiên tiến
trên thế giới, chất lượng và vệ sinh thuỷ sản, ưu tiên đầu tư tối đa trang thiết bị, đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ và tạo tất cả những điều kiện thuận lợi nhất để Trung
tâm trở thành Cơ quan thẩm quyền về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm của Ngành thuỷ
sản. Đã tổ chức hàng chục lớp tập huấn, đào tạo hàng ngàn cán bộ quản lý cho các doanh
nghiệp về quy định mới của các nước nhập khẩu, xúc tiến xây dựng các tiêu chuẩn và quy
định bắt buộc áp dụng về an toàn vệ sinh tương đương với quy định của Codex, EU và Mỹ,
đã từng bước chủ động thiết lập mối quan hệ ngoại giao với các cơ quan thẩm quyền của
các nước nhập khẩu.
Bên cạnh đó, Bộ Thuỷ sản đã cùng các doanh nghiệp đổi mới hoạt động xúc tiến
thương mại, các hoạt động maketing với phương châm chuyển từ tiếp thị thụ động, doanh
nghiệp ngồi chờ khách hàng sang việc chủ động tham gia hàng loạt các Hội chợ quốc tế về
Thuỷ sản và mở gian hàng Thuỷ sản Việt Nam tại các hội chợ đó.
Việc thành lập Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ngày 12/6/1998
đã tạo nên một sức bật mới cho ngành Thuỷ sản. Hiệp hội đã tích cực bắt tay vào tổ chức
công tác thông tin thị trường và xây dựng các quan hệ phối hợp về thị trường. Các Hội chợ
Viêtfish được hiệp hội tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành ngày hội
hàng năm của ngành thuỷ sản và thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến với ngành
thuỷ sản Việt Nam, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp chế biến và XKTS.
Thứ hai, phải kể đến 3 chương trình: Khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản và chế
biến XKTS đang ngày càng phát huy tác dụng, tạo ra nguồn nguyên liệu vững chắc, phong
phú, đảm bảo chất lượng cho XKTS của Việt Nam.
* Về khai thác và bảo vệ hải sản
Thực hiện chủ trương mở rộng khai thác xa bờ, hạn chế khai thác ven bờ, đảm bảo
khai thác vừa có hiệu quả, vừa bảo vệ, tái tạo nguồn lợi hải sản nên tốc độ tăng về khai
thác thuỷ sản tuy chưa cao lắm nhưng cũng đạt được một số kết quả khá ổn định và vững
chắc (bảng 9).
Qua bảng, ta có thể thấy lượng khai thác thuỷ sản đã tăng năm 2000 so với năm
1986 là 318,3% và năm 2002 so với năm 2000 tăng 112%.
Trong khai thác hải sản, ngư dân tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, áp dụng
công nghệ khai thác tiên tiến, đạt hiệu quả cao, từ đó tạo thêm nhiều sản phục vụ chế biến
xuất khẩu.
Đến nay toàn ngành đã có hơn 83.100 tàu thuyền với 6.258 tàu khai thác xa bờ,
trong đó có 161 tàu công suất trên 90 CV được đóng mới trong năm 2003. Tỷ lệ tàu xa bờ
làm ăn có hiệu quả chiếm 50%, số hoà vốn là 35% và số chưa có lãi là 15%. Sản phẩm hải
sản do tàu khai thác xa bờ đóng góp 18,67% tổng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu.
Thực hiện chỉ thị 01/1998/CT- TTg ngày 02/01/1998 của Thủ tướng chính phủ về
việc nghiêm cấm sử dụng chất nổ, chất độc và xung điện khai thác thuỷ sản, các địa
phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho dân và kiểm
tra, kiểm soát, xử lý nghiêm khắc các vi phạm. Nhiều nơi đã thực hiện tốt việc thả giống cá
hải sản ra biển, hồ chứa và quản lý ô nhiễm biển, hồ chứa…bảo đảm nguồn nguyên liệu cả
về chất lượng và số lượng cho XKTS.
* Về nuôi trồng thuỷ sản
Nguồn thủy sản nuôi trồng đã được xác định là nguyên liệu chính dành cho xuất
khẩu. Do vậy, từ sau những năm đổi mới, NTTS đã phát triển khá mạnh mẽ và vững chắc
trên cả 3 mặt: Diện tích, sản lượng và giá trị hàng hoá, từng bước đẩy lùi việc nuôi trồng
manh mún, tự phát theo lối thủ công truyền thống, dựa vào thiên nhiên sang nuôi trồng có
quy hoạch với khoa học, công nghệ hiện đại hơn (bảng 9).
Đến hết năm 2003, diện tích NTTS đã đạt trên 1 triệu ha, tăng 5,26% so với năm
2002, sản lượng nuôi đạt trên 1.110.138 tấn, tăng 15,06% so với năm 2002. Năm 2004 vừa
qua sản lượng nuôi đã tăng lên và đạt 1.150.100 tấn.
Trong những năm qua, nhiều loại hình nuôi được áp dụng có hiệu quả như: nuôi
thâm canh, bán thâm canh, nuôi lồng bè, nuôi ao hầm, nuôi luân canh và xen canh tôm lúa,
tôm - cá, tôm - vườn - rừng, nuôi tôm trên cát…
Đối tượng nuôi được đa dạng hoá, tập trung phát triển các loại có giá trị xuất khẩu,
có thị trường tiêu thụ như: tôm sú, cá tra, cá basa, tôm càng xanh, cua, cá rô phi đơn, cá do,
cá cam, cá song và một số loại nhuyễn thể.
Công tác điều phối, quản lý, lưu thông, kiểm dịch giống thuỷ sản được chú trọng,
đã triển khai trên diện rộng, phổ biến những thuốc hoá chất bị cấm sử dụng trong NTTS.
Công tác quy hoạch được các địa phương đặc biệt quan tâm. Đến năm 2002 đã có 32 tỉnh
hoàn thành quy hoạch NTTS, trong đó có 4 tỉnh hoàn thành quy hoặc chuyển đổi diện tích
trồng lúa sang NTTS.
Có thể nói những thành công của phát triển NTTS kể trên có ý nghĩa quan trọng
trong việc phục vụ cho phát triển thuỷ sản lâu dài nói chung và cho XKTS nói riêng.
* Về chế biến phục vụ xuất khẩu thuỷ sản