Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân đang điều trị tại thành phố hồ chí minh​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.77 KB, 143 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là cơng trình nghiên cứu thực sự của tơi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất kì hình thức nào khác.
Người thực hiện khóa luận

Trần Lâm Thúy Vy

i


LỜI CÁM ƠN
Dưới đây là những lời cám ơn chân thành dành cho những người đã đồng hành cùng
tôi trong suốt q trình tơi thực hiện khóa luận.
Em xin cám ơn TS. Võ Thị Tường Vy đã nhận lời hướng dẫn, tạo nhiều điều kiện
thuận lợi và đồng hành cùng em trong suốt thời gian thực hiện khóa luận. Cơ đã chỉ
dẫn cho em rất nhiều, giúp em trưởng thành hơn về cả kiến thức lẫn tính cách trong
thời gian qua. Cám ơn Cô đã tạo cho em cảm giác thoải mái, động viên em những lúc
em gặp khó khăn.
Em xin cám ơn Quý thầy cô tại Khoa Tâm lý học đã giảng dạy cho em trong suốt 4
năm Đại học. Trong 4 năm học tại khoa, em đã nhận được rất nhiều kiến thức và tình
cảm từ các Thầy Cô. Đây là những điều quý giá mà em sẽ luôn ghi nhớ.
Xin gửi lời cám ơn đến các anh chị, các bạn, các em trong khoa đã luôn động viên,
giúp đỡ em, chỉ dẫn và chia sẻ kinh nghiệm cho em. Những lúc trò chuyện cùng mọi
người giúp em có thêm năng lượng và niềm vui để em cố gắng vượt qua những lúc
khóa luận gặp khó khăn.
Em xin cám ơn Ban giám đốc Bệnh viện Tâm thần, các bác sĩ Khoa Nội trú và các anh
chị điều dưỡng đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khảo sát tại bệnh viện.
Em xin gửi lời cám ơn đến các thân nhân bệnh nhân và bệnh nhân đã đồng
Con xin cám ơn ba mẹ, gia đình đã ln bên cạnh để con an tâm học tập.


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................... i
LỜI CÁM ƠN............................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT.......................................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ............................................................. i
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1................................................................................................................... 5
CÁCH ỨNG PHĨ CỦA THÂN NHÂN VỚI BỆNH LOẠN THẦN MÃN TÍNH........5
CỦA NGƯỜI THÂN..................................................................................................... 5
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................... 5
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ngoài nước..................................................................... 5
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trong nước................................................................... 13
1.2. Cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân...........17
1.2.1. Khái niệm cách ứng phó và phân loại cách ứng phó......................................17
1.2.1.1. Khái niệm cách ứng phó.......................................................................... 17
1.2.1.2. Phân biệt cách ứng phó, hành vi ứng phó, chiến lược ứng phó và phong
cách ứng phó......................................................................................................... 21
1.2.2. Phân loại cách ứng phó.................................................................................. 22
1.2.3. Bệnh loạn thần và đặc điểm của bệnh nhân loạn thần....................................30
1.2.3.1. Bệnh loạn thần......................................................................................... 30
1.2.3.2. Đặc điểm của bệnh nhân loạn thần mãn tính............................................ 36
1.2.4. Đặc điểm tâm lý của thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính.......................38
1.2.5. Cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân.....42
1.2.6. Tiêu chí đánh giá cách ứng phó...................................................................... 44
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁCH ỨNG PHÓ CỦA THÂN NHÂN VỚI BỆNH
LOẠN THẦN MÃN TÍNH CỦA NGƯỜI THÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ TẠI TPHCM ..48
2.1. Tổ chức nghiên cứu và đạo đức nghiên cứu...................................................... 48

2.1.1. Tổ chức nghiên cứu........................................................................................ 48
2.1.2. Đặc điểm mẫu khách thể nghiên cứu.............................................................. 52
2.1.3. Đạo đức trong nghiên cứu.............................................................................. 54
2.2. Kết quả nghiên cứu............................................................................................... 55
2.2.1. Mức độ nhận thức của TNBN về loạn thần.................................................... 55
2.2.2. Các cách ứng phó của TNBNLTMT............................................................... 58
iii


2.2.3. Mối liên hệ giữa cách ứng phó và các yếu tố có liên quan.............................68
2.2.4. Phân tích trường hợp...................................................................................... 78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................................... 84
1. Kết luận................................................................................................................ 84
2. Kiến nghị.............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 86
PHẦN PHỤ LỤC........................................................................................................ 90

iv


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TH


Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TNBN

Thân nhân bệnh nhân

v


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng biểu:
Bảng 2.2.1. Mức độ nhận thức của TNBN về loạn thần
Bảng 2.2.2. Mức độ nhận thức của thân nhân về loạn thần
Bảng 2.2.3. Tỉ lệ phần trăm các cách ứng phó tập trung vào nhận thức
Bảng 2.2.4. Tỉ lệ phần trăm các cách ứng phó tập trung vào hành vi
Bảng 2.2.5. Tỉ lệ phần trăm các cách ứng phó tập trung vào cảm xúc
Bảng 2.2.6. Sự khác biệt trong chọn lựa các cách ứng phó ở hai nhóm TNBN có nhận
thức trung bình và nhận thức cao về loạn thần
Bảng 2.2.7. Sự khác biệt trong việc sử dụng các cách ứng phó giữa thân nhân nam
và thân nhân nữ
Bảng 2.2.8. Sự khác biệt trong việc sử dụng các cách ứng phó giữa thân nhân cao tuổi

và thân nhân trẻ tuổi
Bảng 2.2.9. Sự khác biệt trong việc sử dụng các cách ứng phó ở các nhóm thân nhân
có trình độ học vấn khác nhau
Bảng 2.2.10. Sự khác biệt trong việc lựa chọn các cách ứng phó ở nhóm thân
nhân chăm sóc chính và chăm sóc phụ
Bảng 2.2.11. Sự khác biệt trong việc chọn lựa các cách ứng phó ở các nhóm thân nhân
có tình trạng cơng việc khác nhau
Bảng 2.2.12. Sự khác biệt trong việc lựa chọn cách ứng phó ở thân nhân cư trú ở
TPHCM và nơi khác
Bảng 2.2.13. Tỉ lệ phần trăm mức độ khó khăn của thân nhân
Bảng 2.2.14. Tỉ lệ phần trăm mức độ khó khăn nhiều thân nhân gặp nhất ở mỗi item
Bảng 2.2.15. Sự khác biệt trong việc lựa chọn các cách ứng phó ở các nhóm thân nhân
có mức độ khó khăn khác nhau


Bảng 2.2.16. Mối tương quan giữa ba cách ứng phó tập trung vào cảm xúc, suy
nghĩ và hành vi
Biểu đồ:
Biểu đồ 2.2.1. Mức độ nhận thức về bệnh loạn thần của thân nhân
Biểu đồ 2.2.2. Tỉ lệ phần trăm các cách ứng phó thân nhân sử dụng

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Loạn thần là bệnh tâm thần nặng, nó khơng chỉ ảnh hưởng đến bệnh nhân mà
còn ảnh hưởng đến cả người thân của bệnh nhân. Thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn
tính chịu áp lực từ nhiều phía, chẳng hạn như việc chăm sóc bệnh nhân loạn thần, tài
chính, xã hội,… Khơng chỉ có vậy, cách chăm sóc bệnh nhân của thân nhân là một

nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hồi phục của bệnh nhân. Vai trò của thân
nhân trong tiến trình điều trị bệnh loạn thần là vơ cùng quan trọng.
Hiện tại ở Việt Nam, đã có một số khảo sát về những khó khăn của thân nhân
bệnh nhân tâm thần. Theo khảo sát “Phản ứng tâm lý của 158 cha mẹ khi con bị rối
loạn tâm thần” mới đây của bác sĩ Lê Thị Hồng Nhung, Chủ nhiệm Bộ môn Tâm lý y
học, Khoa Y, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy kết quả phần lớn
thân nhân đều có những phản ứng tiêu cực khi nhận tin người thân của mình mắc bệnh
loạn thần như phủ nhận hay có những đau khổ kéo dài. Thêm vào đó, trong gia đình có
bệnh nhân loạn thần thường xuất hiện tình trạng các thành viên cịn lại cũng mắc phải
những căn bệnh tâm lý như trầm cảm, loạn thần.
Thực tế các bệnh viện tại Việt Nam nói chung ln trong tình trạng q tải,
trong khi đó đội ngũ chun gia tâm lý cịn rất mỏng, khơng đủ sức để trấn an, trợ giúp
tinh thần cho thân nhân người bệnh. Thậm chí, họ rất khó khăn khi được gặp bác sĩ hỏi
thăm về diễn tiến bệnh của người nhà. Thân nhân khơng hiểu rõ được bệnh tình của
người thân dẫn đến lo âu và ảnh hưởng đến cách thân nhân chăm sóc bệnh nhân.
Bên cạnh đó, Việt Nam ở giai đoạn đang phát triển, xã hội vẫn còn kỳ thị với bệnh
tâm thần, đây có thể được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến thân
nhân bệnh nhân. Trong khi ở các nước, khi bệnh nhân nhập viện dù bệnh nhẹ, bệnh viện
cũng sẽ tổ chức một ê kíp để tư vấn, chăm sóc sức khỏe cho cả gia đình người bệnh nhằm
“lên dây cót tinh thần”, tránh bị sốc nếu người bệnh khó vượt qua bệnh tật.
Từ thực tế cho thấy thân nhân bệnh nhân loạn thần chịu rất nhiều áp lực và chính
những áp lực này sẽ ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh của bệnh nhân nên việc tìm
hiểu cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần của người thân là rất cần thiết. Sau
1


khảo sát, đề tài có thể tiếp tục phát triển để hỗ trợ về mặt tâm lý cho thân nhân bệnh
nhân loạn thần để cả bệnh nhân và thân nhân đều được chăm sóc và hỗ trợ tốt nhất,
cùng nhau phục hồi và phát triển.
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng cách ứng phó
của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân đang điều trị tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xây dựng cơ sở lí luận về cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần
mãn tính của người thân.
3.2. Tìm hiểu thực trạng về cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn
tính của người thân đang điều trị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của
người thân đang điều trị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Khách thể: Thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính điều trị tại bệnh viện
Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thực hiện bảng khảo sát trên 30 thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính.
+ Phỏng vấn 6 thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Những thân nhân của bệnh nhân loạn thần mãn tính có mức độ nhận thức cao
thường có xu hướng sử dụng cách ứng phó tập trung vào nhận thức hoặc hành vi hơn
là vào cảm xúc.
- Thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính sử dụng cách ứng phó tập trung vào
hành vi nhiều hơn so với cách ứng phó tập trung vào nhận thức hay cảm xúc.
6. Phạm vi nghiên cứu
2


6.1. Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu cách ứng phó của thân
nhân với bệnh loạn thần của người thân đang điều trị tại Thành phố Hồ Chí Minh chứ
khơng nghiên cứu cách ứng phó của người được nhờ/thuê chăm sóc bệnh nhân.
6.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu một số thân nhân có
người thân bị bệnh loạn thần mãn tính đang điều trị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Cách tiếp cận
- Quan điểm hệ thống – cấu trúc
Tìm hiểu ứng phó trong mối tương quan với đặc điểm tâm lý của người có người thân
mắc bệnh loạn thần. Nghiên cứu cách ứng phó của thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn
tính.
Quan điểm này được vận dụng như là phương hướng nhằm nhất quán toàn bộ quá trình
xây dựng khung lý thuyết, cơ sở lý luận của việc nghiên cứu cách ứng phó của thân
nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính.
- Quan điểm thực tiễn
Phải dựa trên kết quả nghiên cứu về thực trạng cách ứng phó của thân nhân bệnh nhân
loạn thần để có thể đề xuất một số biện pháp hình thành cách ứng phó tích cực cho họ.
Các biện pháp được đề xuất như một giải pháp nhằm giúp thân nhân điềm tĩnh hơn và
có chiến lược khi chăm sóc bệnh nhân loạn thần.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Để xây dựng hệ thống khái niệm làm cơ sở lý luận cho đề tài, tác giả sử dụng nhóm
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát lý thuyết về hệ thống khái niệm ứng phó,
đặc điểm tâm lý của thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính, cách ứng phó của thân
nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3


+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Trên cơ sở lý thuyết về hệ thống khái niệm ứng phó, đặc điểm tâm lý của thân nhân
bệnh nhân loạn thần mãn tính, cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn
tính của người thân, tác giả xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm khảo sát thực trạng cách
ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân, từ đó thu được
thơng tin để có thể phát hiện các vấn đề cần giải quyết, xác định nguyên nhân của vấn

đề và tiến hành đề xuất giải pháp.
Tác giả sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi làm phương pháp nghiên cứu (Dự
kiến thực hiện phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với 30 khách thể là thân nhân bệnh
nhân loạn thần mãn tính tại bệnh viện và phịng khám ở Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhằm thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn
những thông tin thu được từ điều tra bằng bảng hỏi.
Dự kiến phỏng vấn 6 thân nhân bệnh nhân loạn thần mãn tính điều trị tại bệnh viện
Tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng các phép toán thống kê xử lý các số liệu thu thập được từ các cuộc điều tra
bằng bảng hỏi để rút ra được những kết luận khoa học, chuẩn sát, phù hợp với mục
đích nghiên cứu của đề tài.
+ Phương pháp phân tích trường hợp
Kết hợp với phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi và phân tích số liệu, đề tài phân tích
một trường hợp để làm rõ cho thực trạng thu được.

4


CHƯƠNG 1
CÁCH ỨNG PHÓ CỦA THÂN NHÂN VỚI BỆNH LOẠN THẦN MÃN TÍNH
CỦA NGƯỜI THÂN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, ứng phó được nghiên cứu một cách sâu rộng và khá phổ biến.
Khái niệm này ban đầu bắt nguồn từ trường phái Phân tâm học, lúc này ứng phó được
xem như cơ chế phịng vệ, cách con người vơ thức phản ứng lại với các tình huống có
vấn đề. Sau này, khái niệm ứng phó được phát triển và nghiên cứu trên tầng bậc ý thức

với các khái niệm như ứng phó, cách ứng phó, chiến lược ứng phó, kỹ năng ứng phó,
…Riêng cách ứng phó với bệnh loạn thần mãn tính của người thân được các tác giả
trên thế giới rất quan tâm và có nhiều nghiên cứu giá trị. Dưới đây, tác giả sẽ trình bày
một số nghiên cứu về cách ứng phó với bệnh loạn thần mãn tính.
Có thể nói Lazarus và Folkman là hai tác giả có đóng góp lớn trong q trình xây
dựng hệ thống khái niệm cũng như ứng dụng ứng phó vào thực tế. Mơ hình ứng phó của
Lazarus và Folkman (1984) có ảnh hưởng rất lớn đến khái niệm ứng phó với bệnh mãn
tính. Mơ hình này thấy rằng cách ứng phó của bệnh nhân được xác định thông qua cả mức
độ nhận thức về nguy hiểm của bệnh và những nguồn lực có sẵn có thể giúp họ ứng phó
với hồn cảnh. Ứng phó trong mơ hình này được chia thành chiến lược ứng phó, trong đó
được chia thành hai nhóm lớn là ứng phó tập trung vào cảm xúc và ứng phó tập trung vào
vấn đề. Chức năng của ứng phó tập trung vào vấn đề là chủ động thay thế hồn cảnh gây
stress vì thế ứng phó có phát huy hiệu quả hay khơng phụ thuộc vào hồn cảnh gây stress.
Cịn ứng phó tập trung vào cảm xúc hướng đến điều chỉnh phản ứng cảm xúc của bệnh
nhân đối với tác nhân gây stress. Một vài chiến lược ứng phó tập trung vào cảm xúc cho
thấy những lợi ích tích cực đối với bệnh. Định nghĩa lại bệnh theo hướng tươi sáng hơn,
chấp nhận nó và sử dụng những nguồn lực xã hội là những chiến lược được xem là thích
nghi với bệnh mãn tính. Những chiến lược ứng phó bằng cảm xúc khác như thốt khỏi
tình huống bằng cách từ bỏ hoặc né tránh nghĩ về bệnh sẽ làm gia tăng đau khổ và khuyết
tật (Carver, 1993; Dunkel-Schetter, 1992; Felton, 1984). Những chiến lược ứng phó tập
trung vào vấn đề được xem là khả năng thích nghi tốt hơn, nhưng lại thường xuyên thất
bại trong việc chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa kết
5


quả với bệnh mãn tính. Tuy nhiên, tìm kiếm thơng tin về bệnh và lên kế hoạch có vẻ là
hai chiến lược được xem là mang lại kết quả tích cực nhất (Felton, 1984). Những chiến
lược này được xem là hiệu quả nhất khi nhân tố gây stress được bệnh nhân đánh giá là
có thể kiểm sốt được (Folkman, 1993). Những chiến lược ứng phó tập trung vào hành
động khơng mang lại hiệu quả tích cực đối với bệnh mãn tính có thể là do sự trật khớp

giữa hồn cảnh khó thay đổi hoặc kiểm sốt và cách sử dụng những chiến lược này của
cá nhân. Trong một số trường hợp, những chiến lược ứng phó tập trung vào cảm xúc
có thể hữu hiệu hơn. Một số can thiệp cũng được phát triển giúp bệnh nhân sử dụng
chiến lược ứng phó hiệu quả đối với mỗi tình huống nhất định. Một số can thiệp có vẻ
có thể làm giảm mức độ đau khổ liên quan đến việc điều chỉnh bệnh mãn tính
(Chesney, 2003) [27].
Năm 2012, tác giả Christina Mackay, Kenneth I. Pakenham nghiên cứu về sự điều
chỉnh của stress và mơ hình ứng phó để chăm sóc người trưởng thành mắc bệnh tâm thần.
Tác giả tìm hiểu lợi ích của stress và mơ hình ứng phó để xác định các yếu tố có liên quan
đến sự điều chỉnh thích nghi với việc chăm sóc bệnh nhân tâm thần. Mối quan hệ giữa
những dấu hiệu báo trước của stress, ứng phó và kết quả kéo theo khi chăm sóc bệnh nhân
tâm thần được kiểm chứng. Cụ thể là có cả những điều chỉnh chăm sóc tiêu cực gây ra sự
đau khổ và những điều chỉnh tích cực tạo nên ảnh hưởng tích cực, gia tăng mức độ hài
lịng cuộc sống ở cá nhân và một số lợi ích khác được tìm thấy. Nghiên cứu được thực
hiện trên 114 thân nhân. Thân nhân được yêu cầu trả lời các câu hỏi có liên quan đến
những dấu hiệu báo trước của stress, bao gồm biến số của bối cảnh (người chăm sóc, bối
cảnh đặc trưng của người được chăm sóc và người chăm sóc), nguồn lực ứng phó (sự lạc
quan, sự trợ giúp xã hội, chất lượng mối quan hệ người chăm sóc và người được chăm
sóc), sự lượng giá (mức độ nguy hiểm, sự kiểm soát, thử thách) và chiến lược ứng phó
(tập trung vào vấn đề, né tránh, chấp nhận, tập trung vào những mặt có ý nghĩa tích cực).
Kết quả cho thấy rằng sau khi kiểm soát các biến số bối cảnh có liên quan (gánh nặng, tần
suất chăm sóc, những triệu chứng không tiên lượng trước được của bệnh nhân tâm thần),
sự điều chỉnh thích nghi tốt hơn xuất hiện khi mức độ lạc quan cao và nhận được nhiều sự
hỗ trợ xã hội, mối quan hệ giữa người chăm sóc và bệnh nhân tâm thần có chất lượng tốt,
đánh giá yếu tố nguy cơ ở mức độ thấp và đánh giá cao các thử thách cũng như không áp
dụng các cách ứng phó né tránh. Những phát hiện mới giúp phát huy lợi ích của stress và
lý thuyết ứng phó trong việc xác định yếu tố nguy cơ
6



và có tính bảo vệ liên quan đến sự thích nghi với việc chăm sóc cho người trưởng
thành mắc bệnh tâm thần [8]. Như vậy, trong nghiên cứu này stress khơng mang ý
nghĩa tiêu cực mà mang ý nghĩa tích cực. Stress khi chăm sóc bệnh nhân loạn thần nếu
được điều chỉnh phù hợp có thể tạo nên nguồn lực cho thân nhân, tạo điều kiện cho họ
chăm sóc bệnh nhân tốt hơn.
Năm 2012, tác giả Sharon CH Tan có nghiên cứu về gánh nặng và chiến lược ứng
phó được trải nghiệm bởi người chăm sóc bệnh nhân loạn thần trong cộng đồng. Nghiên
cứu được thực hiện với mục đích cung cấp chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần
chun nghiệp với nhiều thông tin về tác nhân gây stress cho người chăm sóc bệnh nhân
loạn thần và yêu cầu những nguồn hỗ trợ, ủng hộ hiệu quả hơn từ cộng đồng. Tác giả sử
dụng thang đo gánh nặng (The Burden Assessment Scale) để đo gánh nặng trong việc
chăm sóc người bệnh loạn thần cho 150 người chăm sóc cho những bệnh nhân hiện đã
xuất viện và sống cùng cộng đồng. Thang đo giải quyết khủng hoảng của gia đình (The
Family Crisis-Oriented Personal Scales) cũng được sử dụng để kiểm tra chiến lược ứng
phó của người chăm sóc. Kết quả cho thấy 31,1% người chăm sóc cảm thấy đau khổ và
33,3% có những dầu hiệu của buồn rầu. Chỉ có 14,7% người chăm sóc tìm kiếm sự giúp
đỡ từ chun viên chăm sóc sức khỏe và 49,3% người chăm sóc cảm thấy hứng thú khi
tìm hiểu nhiều hơn về bệnh loạn thần. Và chỉ có 24,7% người chăm sóc nói rằng nhận
được sự hỗ trợ đầy đủ từ xã hội [24]. Ta có thể thấy thân nhân bệnh nhân chịu nhiều gánh
nặng trong q trình chăm sóc bệnh nhân. Trong các tình huống khó khăn, số lượng người
tìm kiếm sự giúp đỡ và có trải nghiệm tích cực có số lượng rất ít.

Năm 2012, tác giả Kerri Coomber nghiên cứu về chiến lược ứng phó và sự hỗ
trợ xã hội được xem như yếu tố dự đoán và trung gian đối với những gánh nặng và đau
khổ về mặt tâm lý mà thân nhân của bệnh nhân rối loạn ăn uống. Nghiên cứu được
thực hiện với mục đích tìm hiểu việc chăm sóc những người có hội chứng rối loạn ăn
uống có mối liên hệ như thế nào với mức độ cao các gánh nặng và đau khổ về mặt tâm
lý. Nghiên cứu tìm hiểu xem những yếu tố dự đoán của cả gánh nặng và đau khổ về
mặt tâm lý của thân nhân khi chăm sóc người thân có chứng rối loạn ăn uống. Thêm
vào đó, vai trị trung gian của chiến lược ứng phó và sự hỗ trợ xã hội cũng sẽ được

xem xét. Trong nghiên cứu, 56 thân nhân bệnh nhân tự hoàn thành các bảng hỏi liên
quan đến gánh nặng, đau khổ về mặt tâm lý, nhu cầu, sự thể hiện cảm xúc, chiến lược
ứng phó và sự hỗ trợ xã hội. Kết quả cho thấy chiến lược ứng phó thích nghi khơng tốt
7


như một chỉ báo về cả gánh nặng và đau khổ về mặt tâm lý mà thân nhân bệnh nhân
phải chịu. Hơn nữa, ứng phó thích nghi khơng tốt là yếu tố trung gian duy trì gánh
nặng của thân nhân. Tuy nhiên, sự hỗ trợ xã hội, yếu tố trung gian hay gánh nặng của
thân nhân bệnh nhân không mang giá trị dự đoán đáng kể. Cuối cùng, tác giả đề xuất
can thiệp cần tập trung vào dạy cho thân nhân bệnh nhân chiến lược ứng phó phù hợp
[17]. Nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của việc chọn cách ứng phó phù hợp, nếu
chọn cách ứng phó khơng phù hợp nó sẽ làm cho tình hình của bệnh nhân và thân nhân
thêm nghiên trọng. Ngược lại nếu thân nhân có cách ứng phó phù hợp thì họ sẽ giảm
được những gánh nặng và cảm xúc đau khổ khi chăm sóc bệnh nhân, đồng thời bệnh
nhân cũng được chăm sóc tốt hơn bởi thân nhân có mức độ gánh nặng, đau khổ thấp.
Năm 2013, tác giả Natasha Kate và cộng sự nghiên cứu về mối quan hệ giữa gánh
nặng của người chăm sóc với chiến lược ứng phó, sự hỗ trợ xã hội, bệnh tâm lý và chất
lượng cuộc sống của thân nhân bệnh nhân tâm thần phân liệt. Tác giả sử dụng công cụ là
bảng hỏi lượng giá phát triển Hindi (Hindi Involvement Evaluation Questionaire - IEQ).
Không chỉ nghiên cứu mối quan hệ của các yếu tố trên, nghiên cứu cịn tìm hiểu mối quan
hệ giữa gánh nặng của người chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt với những biến số về
mặt nhân khẩu học và lâm sàng như biến số của tâm bệnh học và mức độ thực hiện được
thế năng tâm thần của bệnh nhân. Nghiên cứu được thực hiện trên 100 bệnh nhân tâm thần
phân liệt và người chăm sóc được th thơng qua chọn mẫu ngẫu nhiên. Kết quả cho thấy
trong bốn thành tố của bảng hỏi (thành tố căng thẳng, thành tố lo lắng cấp độ I, thành tố lo
lắng cấp độ II và thành tố giám sát), chỉ số tương quan cao nhất liên quan đến thành tố
căng thẳng. Thành tố căng thẳng có liên quan dương tính với người chăm sóc đang trong
tình trạng độc thân, thời gian dành để chăm sóc người bệnh mỗi ngày và sử dụng chiến
lược ứng phó như né tránh, thơng đồng và sự ép buộc. Thêm vào đó, thành tố căng thẳng

liên quan đến chất lượng cuộc sống và liên quan đến những bệnh tâm lý cao hơn. Thành tố
lo lắng cấp độ

I của bảng hỏi liên quan đến tần số thăm viếng, sử dụng cách ứng phó tập trung vào
vấn đề cao hơn và sức khỏe thể chất kém. Thành tố lo lắng cấp độ II của bảng hỏi có
mối liên quan nhiều với mức độ cao các triệu chứng dương tính, chức năng của người
bệnh ở mức độ thấp, người chăm sóc trẻ tuổi, người chăm sóc chưa kết hơn và sử dụng
cách ứng phó tập trung vào vấn đề cao hơn, tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội như những chiến
lược ứng phó. Thành tố giám sát của bảng hỏi liên quan khá lớn đến thu nhập thấp,
8


người chăm sóc chưa lập gia đình, xét từ địa phương và khơng phải gia đình hạt nhân.
Thành tố giám sát liên quan tới tình trạng sức khỏe kém. Kết quả cho thấy những gánh
nặng của người chăm sóc, đặc biệt là sự căng thẳng liên quan đến cách sử dụng các
chiến lược ứng phó thích nghi chưa hiệu quả, chất lượng cuộc sống thấp và mức độ
bệnh tâm lý cao ở người chăm sóc. Từ nghiên cứu này, ta có thể thấy việc chịu quá
nhiều gánh nặng làm cho thân nhân bệnh nhân sử dụng các chiến lược ứng phó khơng
hiệu quả. Trong nghiên cứu về mối quan hệ của chất lượng cuộc sống với ứng phó và
gánh nặng của thân nhân cấp 1 của bệnh nhân tâm thần phân liệt, Natasha Kate và
cộng sự khảo sát về mối quan hệ giữa chất lượng cuộc sống với ứng phó và gánh nặng
mà thân nhân bệnh nhân phải chịu. Kết quả cho thấy chất lượng cuộc sống của thân
nhân bệnh nhân chịu ảnh hưởng bởi những kĩ năng ứng phó được sử dụng để giải
quyết tình trạng stress gia tăng do bệnh tình của bệnh nhân [18].
Năm 2013, S. M. Cotton và cộng sự nghiên cứu về chiến lược ứng phó của thân
nhân bệnh nhân trẻ tuổi ở giai đoạn đầu của loạn thần. Tác giả cho rằng thân nhân của
người trẻ tuổi ở giai đoạn loạn thần đầu tiên chịu nhiều áp lực. Mục đích của nghiên
cứu là tìm hiểu thực trạng chiến lược được thân nhân sử dụng để ứng phó với gánh
nặng của việc chăm sóc người thân bị bệnh loạn thần. Kết quả cho thấy chiến lược ứng
phó né tránh có liên quan đến những đau khổ, sự khốn quẩn và gia tăng gánh nặng của

thân nhân. Trong khi đó, can thiệp được xem là có hiệu quả là sử dụng cách giải quyết
thích hợp và sự tái đánh giá tích cực sẽ thúc đẩy ứng phó của thân nhân và giảm thiểu
những đau khổ mà họ đang có [10]. Ở nghiên cứu này, tác giả cho ta thấy kĩ năng ứng
phó của thân nhân bệnh nhân sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ.
Năm 2013, tác giả Shyhrete và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu tương quan
giữa hình dung về bệnh và cách ứng phó của thân nhân bệnh nhân tâm thần phân liệt. Việc
chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt có thể gây ra đau khổ và việc này có thể gây ảnh
hưởng xấu đến q trình điều trị của bệnh nhân. Vì vậy nghiên cứu được thực hiện với
mục đích tìm hiểu sự liên quan giữa sự hình dung của thân nhân về bệnh tâm thần phân
liệt và cách ứng phó của họ. Nghiên cứu về mối tương quan được thực hiện trên 92 thân
nhân bệnh nhân tâm thần phân liệt. Khách thể hoàn thành 3 bảng hỏi được dịch và chuẩn
hóa tại Pháp: (a) bảng hỏi về nhân khẩu học, (b) bảng hỏi về nhận thức về bệnh tâm thần
phân liệt và (c) bảng hỏi về ứng phó của gia đình. Kết quả cho thấy sự hình dung về bệnh
có liên quan khơng đáng kể với cách ứng phó. Tuy nhiên, nghiên
9


cứu phát hiện ra một điểm đặc biệt, đó là sự biểu hiện cảm xúc có liên quan đến cách
ứng phó tập trung vào cảm xúc thể hiện ở sự ép buộc, sự né tránh và sự cam chịu.
Khách thể chủ yếu sử dụng cách ứng phó tập trung vào vấn đề và sử dụng nguồn lực
xã hội nhiều hơn là sử dụng cách ứng phó tập trung vào cảm xúc. Nghiên cứu cho thấy
ứng phó tập trung vào cảm xúc có sự liên quan ở mức độ trung bình với (1) hậu quả
tiêu cực mà thân nhân gánh chịu (r = 0.35, p = 0.002), (2) cảm giác tội lỗi (r = 0.34, p
= 0.001) , (3) cảm giác rằng bệnh tâm thần không phù hợp (r = 0.31, p = 0.005) và (4)
toàn bộ điểm số của thang đo mô tả cảm xúc (r = 0.41, p = 0.000). Ứng phó tập trung
vào vấn đề có sự liên quan ở mức độ trung bình với (1) nhận thức về hậu quả tiêu cực
mà thân nhân gánh chịu (r = 0.31, p = 0.006) và (2) cảm giác kiểm sốt (r = 0.31, p =
0.006). Ứng phó bằng cách sử dụng nguồn lực xã hội có mối liên hệ âm tính với điểm
số của thang đo mơ tả cảm xúc (r = -0.39, p = 0.000). Tác giả kết luận rằng cách ứng
phó tập trung vào vấn đề và cách ứng phó tập trung vào nguồn lực xã hội được đánh

giá là hiệu quả hơn, có tác dụng làm tăng khả năng ứng phó với bệnh tâm thần phân
liệt. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng sự hình dung về bệnh thúc đẩy việc chọn
cách ứng phó. Tiếp cận cách ứng phó phát huy hiệu quả trong việc đặt những mục tiêu
xa hơn và khả thi hơn trong việc can thiệp. Thêm vào đó, nghiên cứu tập trung vào đo
lường sự can thiệp dựa trên sự nhận thức về bệnh. Từ đó ngăn chặn việc sử dụng các
cách ứng phó khơng phù hợp. Việc xác định tình trạng sử dụng cách ứng phó trong
cộng đồng thân nhân là rất cần thiết vì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cung cấp sự
chăm sóc và hỗ trợ phù hợp [25].
Trong nghiên cứu những yếu tố dự đoán gánh nặng của thân nhân bệnh nhân
tâm thần phân liệt: Một nghiên cứu từ những bệnh nhân được chăm sóc lần thứ ba
trong bệnh viện tại Ấn Độ, tác giả Aarti Jagannathan cho rằng thân nhân bệnh nhân trải
nghiệm những gánh nặng nặng nề khi phải chăm sóc cho người bệnh tâm thần phân
liệt. Nghiên cứu thực hiện trên những yếu tố tiên đoán về gánh nặng mà thân nhân
bệnh nhân tâm thần phân liệt ở Ấn Độ đang gặp phải. Mục đích của nghiên cứu là tìm
hiểu những yếu tố dự đoán gánh nặng mà thân nhân bệnh nhân trải qua ở lần nhập viện
đầu tiên của bệnh nhân tại Ấn Độ. Nghiên cứu được thực hiện trên 137 bệnh nhân tâm
thần phân liệt nhập viện ở miền Nam Ấn Độ. Tác giả sử dụng thời khóa biểu tiếp cận
gánh nặng (Burden Assessment Schedule) để phỏng vấn. Nghiên cứu tiếp cận cách ứng
phó, hiểu biết về tâm thần phân liệt, nhận được sự hỗ trợ từ xã hội của thân
10


nhân và sự đa dạng của bệnh, tâm bệnh học, rối loạn chức năng được trải nghiệm bởi
bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy suốt quá trình bệnh, mức độ tâm bệnh và sự
rối loạn chức năng có liên quan trực tiếp với toàn bộ mức độ gánh nặng; sự nhận trợ
giúp từ xã hội tỉ lệ nghịch với tồn bộ mức độ của gánh nặng. Bên cạnh đó, có sự liên
quan chặt chẽ giữa tâm bệnh và rối loạn chức năng (p<0.001). Hai phân tích hồi quy
riêng biệt, mỗi phân tích bao gồm tồn bộ thang PANSS (tâm bệnh) hoặc toàn bộ
thang IDEAS (rối loạn chức năng) cho thấy trong suốt quá trình bệnh và nhận sự hỗ
trợ xã hội là những yếu tố dự đoán quan trọng của gánh nặng, bên cạnh tâm bệnh và

rối loạn chức năng. Tóm lại, suốt q trình nhập viện lần đầu, bên cạnh việc giảm thiểu
các triệu chứng và sự giới hạn rối loạn chức năng, ta nên tăng các hỗ trợ xã hội để
giảm bớt gánh nặng mà thân nhân bệnh nhân tâm thần phân liệt đang gánh chịu [2].
Năm 2015, tác giả Disha Geriani và cộng sự nghiên cứu về gánh nặng của thân
nhân bệnh nhân trong việc chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt: Một mối liên hệ
với tính cách và ứng phó. Tâm thần phân liệt là một rối loạn tâm thần mà thân nhân
phải đối mặt với việc gia tăng mức độ của gánh nặng và stress. Đã có một số nghiên
cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa gánh nặng của việc chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân
liệt của thân nhân với những thông số như chiến lược ứng phó, loại nhân cách, chất
lượng cuộc sống và nhân chủng học. Nghiên cứu được thực hiện trên 110 đối tượng.
Họ được yêu cầu hoàn thành các bảng số liệu về những yếu tố nhân chủng học như
loại nhân cách, gánh nặng, chất lượng cuộc sống và cơ chế ứng phó của gia đình khi có
người thân mắc bệnh tâm thần phân liệt. Kết quả cho thấy hầu hết thân nhân chăm sóc
bệnh nhân tâm thần phân liệt là nữ. Thân nhân được nhận thấy có mức độ gánh nặng
từ trung bình đến mức độ cao. Gánh nặng của thân nhân có mối liên hệ mật thiết với
bệnh loạn thần và chất lượng cuộc sống của họ. Một sự liên quan đáng chú ý nữa đó là
mức độ ứng phó với nhân cách hướng ngoại và với môi trường sức khỏe của thân
nhân. Thân nhân sống trong các gia đình hạt nhân ứng phó tốt hơn so với thân nhân
sống trong gia đình nhiều thành viên. Nghiên cứu kết luận rằng những đặc điểm nhân
cách như bệnh tâm thần và đặc điểm xã hội như sống trong gia đình nhiều thành viên
có thể làm tăng những gánh nặng của thân nhân bệnh nhân loạn thần. Nhu cầu hỗ trợ
của thân nhân có tính dễ tổn thương có thể giúp họ giảm mức độ gánh nặng và tìm
được những chiến lược ứng phó tích cực [12].

11


Ở hai nghiên cứu trên, ta thấy được cách ứng phó tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội
được đánh giá là hiệu quả, giúp thân nhân bệnh nhân giảm bớt gánh nặng và phát huy
các kĩ năng ứng phó khác. Không chỉ ở hai nghiên cứu này, mà ở một số nghiên cứu

trên, cách ứng phó tìm kiếm chỗ dựa xã hội đều được đánh giá là hiệu quả. Có thể nói
sự hỗ trợ từ xã hội là một nguồn lực lớn đối với thân nhân đang chăm sóc bệnh nhân
loạn thần.
Nhìn nhận ở một khía cạnh khác, năm 2012, tác giả Bauer và các cộng sự cho
rằng bên cạnh các gánh nặng, chúng ta cần xem xét cả những phần thưởng tiềm năng
của gia đình và chiến lược ứng phó để xác định cách hỗ trợ gia đình một cách hiệu quả
trong việc chăm sóc bệnh nhân tâm thần. Vì thế, tác giả thực hiện một cuộc phỏng vấn
với 60 thân nhân bệnh nhân loạn thần và phân tích, cho ra một phân tích tóm tắt. Cuộc
phỏng vấn tập trung vào những mặt tích cực và tiêu cực của việc cung cấp sự chăm sóc
và trên cả những chiến lược ứng phó; tiếp theo đó họ sẽ thực hiện bảng hỏi Freiburg về
ứng phó với bệnh. Thân nhân bệnh nhân đã gọi tên 787 gánh nặng mà cá nhân có và
413 phần thưởng mà cá nhân nhận lại được khi chăm sóc bệnh nhân loạn thần. Sau khi
phân tích các nhân tố, sự trưởng thành trong tính cách được xác định là nhân tố chủ
yếu của phần thưởng. Những yếu tố tác động để các nhân tố hoạt động mạnh nhất là sự
tăng lên ở lòng tự tin, sức mạnh bên trong, sự trưởng thành và trải nghiệm cuộc sống.
Việc phân tích hồi quy tuyến tính xác định yếu tố dự đoán cho những gánh nặng của
thân nhân. Để giảm những gánh nặng một cách hiệu quả, tác giả cho rằng cần có sự
hiểu biết về gánh nặng cốt lỗi của họ. Tuy nhiên, để có gốc nhín tích cực hơn, chúng ta
cũng cần tập trung nhiều hơn vào những phần thưởng tiềm năng của việc chăm sóc
[4]. Trong nghiên cứu này, tác giả đã cho ta thêm một góc nhìn khác về cách ứng phó
của thân nhân bệnh nhân. Thân nhân bệnh nhân thấy rằng ứng phó với bệnh không chỉ
mang lại cho họ chỉ những trải nghiệm tiêu cực mà cịn có cả trải nghiệm tích cực.
Tình huống phải chăm sóc người thân mắc bệnh loạn thần ở đây được xem là cơ hội để
thân nhân gia tăng sự chín chắn, vững vàng và tự tin trong cuộc sống của thân nhân.
Tóm lại, qua các nghiên cứu trên, ta có thể thấy cách thân nhân ứng phó với
bệnh loạn thần mãn tính của người thân chịu sự tác động của nhiều yếu tố, từ yếu tố
môi trường, nhân khẩu học đến quan điểm của thân nhân về bệnh loạn thần,…Một
điều đặc biệt nổi bật lên qua hàng loạt nghiên cứu đó là thân nhân bệnh nhân chịu
nhiều gánh nặng nặng nề. Điều này tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của
12



thân nhân cũng như chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Nếu thân nhân chọn được cách
ứng phó phù hợp thì gánh gánh nặng sẽ giảm xuống và chất lượng cuộc sống không bị
ảnh hưởng quá nhiều. Đặc biệt qua nhiều nghiên cứu và phân tích dữ liệu, cách ứng
phó tập trung vào vấn đề và tìm kiếm nguồn lực xã hội được cho là hiệu quả hơn
những cách ứng phó khác. Bên cạnh những trải nghiệm tiêu cực, thân nhân bệnh nhân
cịn có những trải nghiệm tích cực trong q trình chăm sóc người thân của mình. Họ
xem việc chăm sóc bệnh nhân loạn thần là cơ hội để trưởng thành và phát triển.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, cách ứng phó cũng bắt đầu được quan tâm và nghiên cứu rộng rãi.
Tuy nhiên, nghiên cứu về cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của
người thân chưa được quan tâm nghiên cứu sâu rộng. Khách thể của các nghiên cứu
phần lớn là học sinh – thanh niên, ngồi ra cịn có khách thể là giáo viên mầm non.
Dưới đây là một số nghiên cứu đã được thực hiện:
Từ năm 2004 đến 2017, Phan Thị Mai Hương có nhiều nghiên cứu về cách ứng
phó của trẻ vị thành niên. Điển hình là nghiên cứu “cách ứng phó trong những hồn
cảnh khó khăn của trẻ vị thành niên hiện nay”. Đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp kiến
thức cho các đối tượng quan tâm về cách ứng phó của trẻ vị thành niên trong những
tình huống khó khăn, những nhân tố góp phần hình thành các cách ứng phó nhất định
(những lý luận về hành vi ứng phó trong tâm lý học; thực trạng về các cách ứng phó
của trẻ vị thành niên ở nước ta hiện nay trong những hồn cảnh khó khăn; tìm hiểu mối
liên quan của cách ứng phó trong những hồn cảnh khó khăn với các nhân tố xã hội và
nhân cách); đề xuất những ý kiến về chương trình giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống
cho trẻ vị thành niên từ phương dịên tâm lý học [35].
Năm 2012, Nguyễn Thị Nhung có nghiên cứu về áp lực tâm lý và cách ứng phó
của trẻ lao động sớm tại một số quận nội thành Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị
Nhung cho rằng có ba kiểu ứng phó ở trẻ vị thành niên: ứng phó mang sắc thái tình cảm,
ứng phó trong suy nghĩ và ứng phó bằng hành động. Trong đó, cách ứng phó được các em
sử dụng nhiều nhất để ứng phó với áp lực tâm lý là cách ứng phó thay đổi, điều chỉnh cảm

xúc (ĐTB = 1.72), tiếp đến là cách ứng phó tập trung vào thay đổi, điều chỉnh hành vi
(ĐTB = 1.85) và cuối cùng là cách ứng phó tập trung vào thay đổi, điều chỉnh suy nghĩ
(ĐTB =2.46). Trong đề tài, tác giả tập trung tìm hiểu mức độ áp lực tâm lý của trẻ em lao
động sớm và cách ứng phó của các em với chúng. Sau đó tiến hành thực nghiệm
13


nâng cao nhận thức về áp lực tâm lý và cách ứng phó với áp lực tâm lý của trẻ lao
động sớm [37].
Năm 2012, Đinh Thị Hồng Vân đã trình bày nghiên cứu về ứng dụng tiếp cận nhận
thức hành vi trong việc hình thành cách ứng phó tích cực với cảm xúc âm tính cho trẻ vị
thành niên. Tác giả quan tâm khi đứng trước những cảm xúc âm tính của bản thân, trẻ vị
thành niên sử dụng những cách ứng phó nào, những yếu tố nào ảnh hưởng đến cách ứng
phó của trẻ trong các mối quan hệ xã hội. Tác giả đã khái quát các xu hướng nghiên cứu
về cách ứng phó của trẻ vị thành niên, trong đó có các vấn đề được làm rõ như khái niệm
và phân loại ứng phó, các yếu tố tác động đến cách ứng phó với cảm xúc âm tính trong
quan hệ xã hội của trẻ vị thành niên. Kết quả nghiên cứu cho thấy cách ứng phó được trẻ
sử dụng nhiều nhất là tách mình ra khỏi vấn đề và ít nhất là tự làm hại bản thân. Khách thể
ở đây là học sinh ở tuổi vị thành niên hay học sinh THPT [42].
Năm 2014, Nguyễn Thị Minh Hằng thực hiện nghiên cứu “Cách ứng phó với cảm
xúc tiêu cực của học sinh trung học cơ sở”. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhìn chung học
sinh chưa có những cách ứng phó phù hợp (ĐTB = 2.65). Trong đó, học sinh có xu hướng
ứng phó tập trung vào nhận thức (ĐTB = 3.1) thường xuyên hơn so với ứng phó tập trung
vào hành vi (ĐTB = 2.5) và cảm xúc (ĐTB = 2.4). Nghiên cứu cũng cho thấy rằng có sự
tương quan thuận giữa ứng phó tập trung vào cảm xúc và ứng phó tập trung vào hành vi
của học sinh trung học cơ sở (r = 0.468). Ở học sinh nữ các em có cách ứng phó tích cực
hơn so với học sinh nam ở cả ba mặt cảm xúc, nhận thức, hành vi. Học sinh có rối nhiễu
cảm xúc thường xuyên ứng phó tiêu cực hơn so với học sinh khơng có rối nhiễu cảm xúc.
Tác giả cịn tìm hiểu sự ảnh hưởng của một số nhân tố đến cách thức ứng phó với cảm xúc
tiêu cực của học sinh trung học cơ sở, đó là sở thích cá nhân của các em, thời gian và tần

suất tâm sự với cha mẹ. Trong đó nhóm các em có sở thích như âm nhạc (ĐTB lần lượt là
2.34 và 2.14), mua sắm (ĐTB lần lượt là 2.38 và 2.19), tán gẫu với bạn bè (ĐTB lần lượt
là 2.39 và 2.13) tham gia hoạt động tình nguyện (ĐTB lần lượt là 2.44 và 2.22) có cách
ứng phó tích cực hơn so với các em khơng có sở thích này. Đồng thời ở các em này, cách
ứng phó tập trung vào hành vi được sử dụng nhiều hơn so với cách ứng phó tập trung vào
cảm xúc và nhận thức. Ngược lại, các em có sở thích chơi game có xu hướng sử dụng
cách ứng phó tiêu cực so với các em khơng có sở thích này (ĐTB lần lượt là 4.19 và 4.43).
Nghiên cứu cũng ghi nhận được mối tương quan nghịch giữa tần suất và thời gian tâm sự
của con với cha mẹ và biểu hiện cảm xúc tiêu
14


cực ở con (r = -0.180 và r = -0.109). Điều này có nghĩa là cha mẹ và con càng ít
thường xuyên tâm sự với nhau và thời gian tâm sự càng ít thì con càng dễ có các cảm
xúc tiêu cực [34].
Năm 2014, trong nghiên cứu về cách ứng phó với stress của giáo viên mần non
trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh, Trịnh Viết Then và cộng sự tìm
hiểu thực trạng về các kiểu ứng phó mà giáo viên mần non tại các trường công lập, dân
lập và tư thục sử dụng để ứng phó với stress. Tác giả chia ứng phó thành 5 kiểu: kiểu
ứng phó tích cực chủ động, kiểu ứng phó xoa dịu căng thẳng, kiểu ứng phó lảng tránh,
kiểu ứng phó tiêu cực và kiểu ứng phó ìm kiếm sự hỗ trợ. Kết quả nghiên cứu cho thấy
kiểu ứng phó tích cực chủ động được các giáo viên mần non sử dụng nhiều nhất (ĐTB
= 2.13, ĐLC = 0.77), còn kiểu ứng phó tiêu cực được sử dụng ít nhất (ĐTB = 0.67, ĐLC
= 0.45). Ngồi ra nghiên cứu cịn cho thấy sự tương quan giữa các kiểu ứng phó. Các

kiểu ứng phó thường đi chung với nhau thành nhóm, ở đây ta có thể thấy 3 nhóm kiểu
ứng phó: (1) kiểu ứng phó tích cực chủ động, kiểu ứng phó xoa dịu căng thẳng, kiểu ứng
phó lảng tránh, (2) kiểu ứng phó tiêu cực và (3) kiểu ứng phó tìm kiếm sự hỗ trợ [40].
Năm 2015, Trần Văn Cơng và cộng sự có bài nghiên cứu về chiến lược ứng phó
của học sinh với bắt nạt trực tuyến. Trong nghiên cứu, khảo sát được thực hiện với khách

thể là học sinh THCS, THPT ở một số trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nam và
Hải Dương. Có bốn chiến lược ứng phó với bắt nạt trực tuyến: ứng phó bằng cách suy
nghĩ, nhận thức; ứng phó bằng cách né tránh; ứng phó bằng cách chia sẻ và ứng phó bằng
cách trả đũa. Các thang đo dược sử dụng bao gồm thang đo bắt nạt trực tuyến trong bài
viết “Xây dựng thang đo bắt nạt trực tuyến cho học sinh Việt Nam”, bảng hỏi khảo sát
mức độ nhận biết của học sinh khi bị bắt nạt trực tuyến, thang đo ứng phó được thực hiện
dựa trên tham khảo cơng trình nghiên cứu của Hana Machackova và cộng sự (2013) về
chiến lược ứng phó cho nạn nhân của bắt nạt trực tuyến. Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ
giữa bắt nạt trực tuyến và cách ứng phó của học sinh trung học trước bắt nạt trực tuyến.
Đề tài cung cấp cái nhìn rõ ràng đâu là những chiến lược được học sinh THCS, THPT
chọn lựa để ứng phó với stress. Nghiên cứu làm sáng tỏ ứng phó bằng suy nghĩ, nhận thức
được các em sử dụng nhiều nhất (M = 2.21), trong khi đó ứng phó bằng cách trả đũa được
các em sử dụng ít nhất (M = 1.95). Tác giả đo lường tính hiệu quả của cách ứng phó được
học sinh sử dụng khi đứng trước bắt nạt trực tuyến, cho kết quả như sau: cách ứng phó
được nạn nhân đánh giá là có hiệu quả nhất trong việc giúp các em
15


cảm thấy thoải mái hơn là em không chú ý đến nó (M=2,67). cách ứng phó em làm
điều gì đó tương tự với người đó trong cuộc sống thực (bắt nạt lại trong đời thực) là
cách nạn nhân đánh giá có hiệu quả thấp nhất. cách ứng phó được nạn nhân đánh giá
có hiệu quả cao nhất với việc ngăn chặn bắt nạt trực tuyến là em chặn tài khoản để
người bắt nạt em không liên lạc với em được (M = 2,37); em tìm lời khuyên từ bạn bè/
người lớn (M = 2,38); em báo việc này với người quản lí trang mạng đó (M = 2,38).
Nghiên cứu cịn cho thấy mối tương quan giữa bắt nạt trực tuyến và cách ứng phó của
các em khi bị bắt nạt: có tương quan trung bình giữa ứng phó bằng suy nghĩ, nhận thức
với ứng phó bằng cách chia sẻ (r=0,329). Tương quan trung bình giữa ứng phó bằng
cách chia sẻ với ứng phó bằng cách trả đũa (r=0,345). Tương quan trung bình giữa ứng
phó bằng cách chia sẻ với ứng phó bằng cách né tránh (r=0,333). Sự tương quan này
cho thấy một số học sinh ứng phó bằng cách chia sẻ nhiều thì cũng sẽ ứng phó nhiều

bằng suy nghĩ, nhận thức nhiều, một số học sinh ứng phó bằng cách chia sẻ nhiều thì
ứng phó bằng cách trả đũa hay bằng cách né tránh cũng nhiều [30].
Năm 2015, Phạm Xuân Hưởng nghiên cứu về thực trạng cách ứng phó với stress
của học sinh ở một số trường THPT Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu
đã làm sáng tỏ khái niệm về ứng phó, phân loại cách ứng phó, khái niệm và các tác nhân
gây stress cho học sinh THPT, các yếu tố tác động đến cách ứng phó với stress của học
sinh THPT. Nghiên cứu cung cấp cái nhìn tổng quan về tính đa dạng trong cách ứng phó
với stress của học sinh THPT quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu
tác giả dùng bảng hỏi để khảo sát mức độ stress của học sinh THPT quận Tân Phú thành
phố Hồ Chí Minh. Qua đó cho thấy đa số các em ở mức độ stress nhẹ. Giới tính là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ stress, nữ giới có mức độ stress cao hơn nam
giới. Các tác nhân gây stress được tác giả chia làm bốn nhóm: học đường, gia đình, các
mối quan hệ và bản thân. Trong khảo sát về cách ứng phó của học sinh THPT, có tám cách
ứng phó được các em sử dụng, cách ứng phó được sử dụng nhiều nhất là mơ tưởng. Về
mặt giới tính, chọn lựa cách ứng phó với stress của nam và nữ tương đối giống nhau, cùng
có mức độ sử dụng cách ứng phó giải quyết vấn đề và cấu trúc lại nhận thức. Điểm khác
nhau là nữ giới sử dụng cách ứng phó hỗ trợ xã hội, bộc lộ cảm xúc và mơ tưởng nhiều
hơn nam giới. Tác giả cho rằng có ba yếu tố ảnh hưởng đến cách ứng phó với stress của
học sinh: tính lạc quan, mức độ stress và chỗ dựa xã hội [36].

16


Như vậy, các nghiên cứu về ứng phó trong nước chủ yếu tập trung vào khách
thể là học sinh, trẻ vị thành niên và giáo viên. Khái niệm và cách phân loại cách ứng
phó cũng được sử dụng rất đa dạng phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu cũng như
khách thể của đề tài. Nhìn chung, cách ứng phó tập trung vào nhận thức được sử dụng
nhiều hơn cách ứng phó tập trung vào hành vi và cảm xúc. Một số yếu tố ảnh hưởng
đến cách ứng phó của cá nhân như giới tính, sở thích, sự tương tác xã hội, tính lạc
quan, mức độ stress,…

1.2. Cách ứng phó của thân nhân với bệnh loạn thần mãn tính của người thân
1.2.1. Khái niệm cách ứng phó và phân loại cách ứng phó
1.2.1.1. Khái niệm cách ứng phó
Ứng phó là một khái niệm rất được quan tâm và nghiên cứu không chỉ trong
tâm lý học mà còn ở một số lĩnh vực khác. Trong tâm lý học, ba đầu ứng phó được các
nhà phân tâm học nghiên cứu dưới cái tên cơ chế phịng vệ, sau này nó được các nhà
tâm lý học theo trường phái nhận thức – hành vi phát triển và ứng dụng sâu rộng với
cái tên ứng phó. Qua thời gian, các khái niệm về ứng phó ngày càng nhiều, tùy vào
mục đích và định hướng của các cơng trình nghiên cứu mà các tác giả tạo ra những
định nghĩa mới về ứng phó. Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, dưới đây là một số khái
niệm về cách ứng phó.
Theo Từ điển Tiếng Việt, cách ứng phó có nghĩa là chủ động đối phó một cách
kịp thời [37].
Trong Tiếng Anh, cách ứng phó là “cope”, có nghĩa là giải quyết thành cơng
một tình huống khó khăn.
Trên đây là những khái niệm thường được sử dụng trong cuộc sống thường
nhật. Còn trong tâm lý học, cách ứng phó được định nghĩa một cách cụ thể và rõ ràng
hơn. Khái niệm cách ứng phó đã được nghiên cứu từ lâu. Theo thời gian các định
nghĩa về cách ứng phó ngày càng trở nên nhiều hơn, điển hình như một số định nghĩa
về cách ứng phó trên thế giới và ở Việt Nam như sau:
Năm 1933, những nghiên cứu của Sigmund Freud về cơ chế phòng vệ được
xem là nghiên cứu đầu tiên về cách ứng phó. Cơ chế phòng vệ được xem như cách cá
nhân đáp ứng với những khó khăn tâm lý và tìm cách vượt qua chúng [23].

17


Freud nhấn mạnh vai trò của sự thay đổi nhận thức về tình huống căng thẳng
bắt nguồn từ nội tâm bên trong. Cùng nói về cơ chế phịng vệ nhưng ở đây có sự khác
biệt về quan điểm giữa Freud và học trị của mình là Adler. Với Adler phịng vệ được

xem như "cánh cửa bảo vệ" và cách ứng phó có tác dụng bảo vệ bản ngã khỏi những
tác động bên ngồi, trong khi đó Freud nói rằng cách ứng phó bảo vệ bản ngã chống
lại những áp lực bên trong cũng như bản năng. Có sự khác biệt này là do Adler định
nghĩa cách ứng phó dựa trên những áp lực từ mơi trường/ xã hội, cịn Freud dựa vào
các yếu tố có tính quyết định về mặt thể chất khi nói về cách ứng phó [26].
Đến năm 1967, khái niệm ứng phó tâm lý mới được thừa nhận. Tiếp nối theo
đó, vào những năm 1970, các nhà nghiên cứu phát triển những cách tiếp cận và đo
lường mới về cách ứng phó. Điển hình là Lazarus và Folkman (1984), đây là hai tác
giả không thể không nhắc đến khi nói về cách ứng phó. Hai tác giả cho rằng cách ứng
phó là “những cố gắng thay đổi không ngừng về nhận thức và hành vi để giải quyết
những yêu cầu đặc biệt từ bên trong hoặc bên ngoài. Những yêu cầu này được đánh giá
là một nhiệm vụ nặng nề hoặc vấn đề vượt quá tiềm lực của một con người”. Theo
Lazarus và Folkman (1984) thì các cách ứng phó là một chuỗi những cách giải quyết
của cá nhân đối với mối quan hệ giữa con người và mơi trường với mục đích là điều
hịa trạng thái bên trong và điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và môi trường [23].
Thuyết này cho rằng những cảm xúc căng thẳng và cách ứng phó đều tùy thuộc vào
cách mà người đó nhìn nhận và nắm bắt được mối quan hệ của mình và mơi trường.
Một vài yếu tố cần lưu ý về ứng phó như sau. Đầu tiên là các đánh giá về những tác
hại của tác nhân gây căng thẳng được xem là một trong những yếu tố quan trọng của
ứng phó. Một yếu tố giữ vai trò quyết định khác là các đánh giá về khả năng kiểm soát
tác nhân gây căng thẳng. Và cuối cùng là sự lượng giá của cá nhân về hiệu quả của nỗ
lực ứng phó và sự kỳ vọng vào khả năng ứng phó của họ trong tương lai. Những nhận
xét mang tính lượng giá này có thể thay đổi kiểu ứng phó, đồng thời đóng một vai trị
quyết định khả năng thích nghi tâm lý của cá nhân.
Vì vậy, cách ứng phó là những nỗ lực ngăn chặn hoặc làm giảm tác động, tác hại
và tổn thất hoặc làm giảm đau khổ liên quan đến những trải nghiệm này. Mơ hình ứng phó
đề cập đến sự tồn tại của hồn cảnh có vấn đề hoặc stress. Khi đối mặt với những hồn
cảnh có vấn đề, một người thường ứng phó. Vì thế ứng phó gắn bó có mối liên hệ chặt chẽ
với stress. Stress xuất hiện khi con người đứng trước những tình huống tạo nên
18



×