BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
TRẦN NGUYỄN MINH CHÂU
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA THÂN NHÂN BỆNH NHÂN UNG THƯ
GIAI ĐOẠN CUỐI Ở KHOA CHĂM SÓC GIẢM NHẸ BỆNH
VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học
Niên học: 2018 - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA THÂN NHÂN BỆNH NHÂN
UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI Ở KHOA CHĂM SÓC
GIẢM NHẸ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Đoàn Bắc Việt Trân
Sinh viên thực hiện: Trần Nguyễn Minh Châu
Niên học: 2018 - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận này là cơng trình nghiên cứu của tơi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được trình bày trong khóa luận này trung thực và
chưa từng được cơng bố dưới bất kì hình thức nào.
Người thực hiện khóa luận
Trần Nguyễn Minh Châu
i
LỜI CẢM ƠN
Dưới đây là lời cảm ơn chân thành của tôi dành cho những người đã đồng
hành cùng tôi trong suốt q trình tơi thực hiện khóa luận.
Em xin cảm ơn Ths. Đoàn Bắc Việt Trân đã nhận lời hướng dẫn và đồng hành
cùng em trong quá trình làm khóa luận. Cơ đã giúp em tự lập hơn, biết bình tĩnh giải
quyết vấn đề, cho em có cơ hội để phát triển bản thân và động viên em mỗi khi gặp
khó khăn.
Em cảm ơn q Thầy Cơ tại khoa Tâm lý học đã giảng dạy em suốt 4 năm Đại
học. Trong 4 năm học tại Khoa, em đã được nhận được rất nhiều những kiến thức và
tình cảm mà các Thầy Cô dành cho. Đây là những điều quý giá đối với em.
Xin gửi lời cảm ơn đến Phòng Khoa học & Đào tạo Bệnh viện Đại học Y
Dược, Trưởng Khoa Lão – Chăm sóc giảm nhẹ TS.BS Thân Hà Ngọc Thể vì cơ đã
quan tâm, cho con cơ hội để học tập, đồng ý cho con được thực hiện nghiên cứu
trong Khoa Lão – Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Em cũng xin được cảm ơn đến tập thể các Y – Bác sĩ tại khoa Lão – Chăm sóc
giảm nhẹ đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực hiện khảo
sát tại Khoa. Đặc biệt là Ths.BS Lê Đại Dương và BS Đỗ Hữu Thành đã cho phép
em có cơ hội được tiếp xúc, phỏng vấn những thân nhân và bệnh nhân mà các bác sĩ
đang trực tiếp điều trị tại Khoa. Đây chính là những bài học và trải nghiệm đáng
quý đối với em.
Con cảm ơn ba mẹ và gia đình đã ln ở bên cạnh ủng hộ, động viên con, tạo
thêm động lực và sức mạnh cho con trong suốt q trình làm khóa luận cho đến khi
hoàn thành.
Cảm ơn các anh chị, các bạn đã động viên, giúp đỡ, chỉ dẫn và chia sẻ kinh
nghiệm cho em. Sự quan tâm của mọi người chính là niềm vui và là nguồn năng
lượng để em vượt qua khi gặp khó khăn.
ii
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn đến tất cả những thân nhân và bệnh nhân đã đồng ý
tham gia vào nghiên cứu. Cảm ơn quý vị đã mở lòng và chia sẻ với tôi. Những chia
sẻ, những câu chuyện của q vị là những món q vơ giá mà tơi nhận được trong
quá trình làm nghiên cứu. Tuy thời gian tiếp xúc ngắn ngủi nhưng đối với tôi, quý vị
là những người “bạn”, những người “thầy” đã dạy cho tôi những bài học thật đặc
biệt, đầy ý nghĩa, những bài học này sẽ đồng hành và giúp ích rất nhiều cho cơng
việc sau này của tơi. Với tất cả tình cảm và lịng biết ơn của mình, tơi xin được gửi
lời chúc bình an dành cho quý vị.
iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
BN
Bệnh nhân
Dưới THPT
Dưới Trung học phổ thông
ĐH
Đại học
ĐTB
Điểm trung bình
K
Bệnh ung thư
Sau ĐH
Sau đại học
THPT
Trung học phổ thơng
TNBN
Thân nhân bệnh nhân
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
iv
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng
Stt
Tên
Trang
1
Bảng 1.2.4 Phân biệt lo âu bình thường và lo âu bệnh lý
18
2
Bảng 2.1.1 Bảng giải thích chỉ số lo âu
28
3
Bảng 2.1.2. Đặc điểm của TNBN ung thư giai đoạn cuối
29
4
Bảng 2.2.1. Mức độ lo âu của TNBN ung thư giai đoạn cuối
30
5
Bảng 2.2.2 Biểu hiện lo âu của TNBN ung thư giai đoạn cuối
33
6
Bảng 2.2.3.1 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố giới tính
35
7
Bảng 2.2.3.2 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố tuổi
37
8
Bảng 2.2.3.3 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố cơng việc
39
9
Bảng 2.2.3.4 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố tôn giáo
40
10
Bảng 2.2.3.5 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố thu nhập
42
11
Bảng 2.2.3.6 Điểm trung bình mức độ lo âu với yếu tố trình độ học
vấn
43
Biểu đồ
Stt
Tên
Trang
1
Biểu đồ 2.2.1. Tỉ lệ lo âu của TNBN ung thư giai đoạn cuối
31
2
Biểu đồ 2.2.2. Tỉ lệ các biểu hiện lo âu TNBN ung thư giai đoạn cuối
33
3
Biểu đồ 2.2.3.1. Tỉ lệ lo âu với yếu tố giới tính
36
4
Biểu đồ 2.2.3.2. Tỉ lệ lo âu với yếu tố tuổi
38
5
Biểu đồ 2.2.3.3. Tỉ lệ lo âu với yếu tố tôn giáo
40
6
Biểu đồ 2.2.3.4. Tỉ lệ lo âu với yếu tố công việc
39
7
Biểu đồ 2.2.3.5. Tỉ lệ lo âu với yếu tố thu nhập
42
8
Biều đồ 2.2.3.6. Tỉ lệ lo âu với yếu tố trình độ học vấn
44
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................. I
LỜI CẢM ƠN.................................................................................................. II
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT........................................... IV
DANH MỤC BẢNG BIỂU............................................................................. V
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA THÂN NHÂN
BỆNH NHÂN UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI................................................ 6
Lịch sử nghiên cứu:.......................................................................................... 6
Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối...................12
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1................................................................................. 24
CHƯƠNG 2 BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA THÂN NHÂN BỆNH NHÂN UNG
THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI Ở KHOA LÃO – CHĂM SÓC GIẢM NHẸ BỆNH
VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH1.......................... 25
Tổ chức nghiên cứu và đạo đức nghiên cứu................................................... 25
Kết quả nghiên cứu......................................................................................... 30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2................................................................................. 53
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................ 55
Kết luận.......................................................................................................... 55
Kiến nghị........................................................................................................ 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 60
PHỤ LỤC....................................................................................................... 69
1
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) (2018), ung thư là nguyên nhân gây tử
vong đứng thứ 2 trên thế giới với 9,6 triệu ca tử vong trong năm 2018. Tạp chí Y
học dự phịng (2013) báo cáo tình hình ung thư ở Việt Nam vào năm 2012 là khoảng
110.000 trường hợp ung thư mới và trên 73% số này tử vong, một trong những tỷ lệ
cao nhất thế giới. Ước tính tỷ lệ mắc bệnh ung thư tại TP.HCM sẽ tăng 5,4% mỗi
năm. Ít nhất 80% ung thư ở nam giới và 60% ở nữ giới hiện đang ở giai đoạn nặng
không chữa trị được. Tỷ lệ mắc/tử vong ở nam giới Việt Nam là 0,79 và
ở nữ giới là 0,68. Ung thư không chỉ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trực tiếp
lên cơ thể và tinh thần của bệnh nhân mà nó cũng chính là ngun nhân gây đau khổ
nặng nề cho gia đình, người thân của bệnh nhân. Nhưng trong thực tế có thể thấy
phần lớn sự quan tâm chỉ được dành cho các bệnh nhân, họ được đặt lên ưu tiên
hàng đầu, đó cũng là một điều dễ hiểu. Tuy nhiên, một bộ phận khác cũng rất cần
đến sự quan tâm, hỗ trợ, đó chính là thân nhân bệnh nhân mà cụ thể hơn là người
chăm sóc cho bệnh nhân. Theo Bevans, việc chăm sóc là trải nghiệm gây căng thẳng
mãn tính và những người chăm sóc thường gặp phải những ảnh hưởng tiêu cực về
tâm lý, hành vi và sinh lý đối với cuộc sống và sức khỏe hàng ngày của họ.
(Bevans, 2012)
Quan tâm, cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư cũng như gia
đình họ là một hoạt động đang được thực hiện trên thế giới thơng qua mơ hình
Chăm sóc giảm nhẹ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (2018) thì chăm sóc giảm nhẹ là
hoạt động nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia đình người
bệnh, những người đang đối mặt với những vấn đề liên quan tới sự ốm đau đe dọa
đến tính mạng, thơng qua sự ngăn ngừa và làm giảm gánh nặng họ chịu đựng bằng
cách nhận biết sớm, đánh giá toàn diện và điều trị đau và các vấn đề khác, thể lực,
tâm lý xã hội và tâm linh. Theo Bộ Y tế Việt Nam (2006): “Chăm sóc giảm nhẹ cho
bệnh nhân ung thư và AIDS là sự kết hợp nhiều biện pháp để làm giảm sự đau khổ
và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh thơng qua sự phịng ngừa, phát
2
hiện sớm và điều trị đau và những vấn đề tâm lý và thực thể khác, và cung cấp sự tư
vấn và hỗ trợ tập trung vào những vấn đề xã hội và tâm linh mà bệnh nhân và gia
đình đang phải gánh chịu.” Như vậy, chúng ta có thể thấy đối tượng của chăm sóc
giảm nhẹ khơng chỉ có bệnh nhân mà còn bao gồm cả những người chăm sóc. Họ
cũng cần sự giúp đỡ để đương đầu với tình trạng bệnh của người thân. Hiện tại ở
Việt Nam, việc chăm sóc giảm nhẹ vẫn cịn khá mới và tập trung chủ yếu cho đối
tượng người bệnh. Đến năm 2015, chỉ có hai bệnh viện chính thức có Khoa Lão Chăm sóc giảm nhẹ là bệnh viện Ung Bướu và bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Phòng khám tâm lý – Chăm sóc giảm nhẹ tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. HCM
chưa có chuyên viên tâm lý cơ hữu nào để hỗ trợ bệnh nhân điều trị nội trú. Như
vậy, có thể thấy rằng việc chăm sóc về mặt tâm lý là rất thiếu sót, kể cả cho bệnh
nhân ung thư. Thân nhân bệnh nhân ung thư hầu như chưa nhận được sự quan tâm,
hỗ trợ cần thiết. Trong tài liệu hướng dẫn thực hành chăm sóc giảm nhẹ cơ bản và
nâng cao cho bệnh nhân HIV/AIDs và ung thư ở Việt Nam của giáo sư Eric (2007),
đề cập đến những vấn đề tâm lý xã hội của người bệnh ung thư cũng như của những
người nhà của họ. Đó là những vấn đề gồm trầm cảm, lo âu, sợ hãi, mặc cảm, sang
chấn và mất mát. Các vấn đề tâm lý được đề cập đó khơng chỉ tồn tại ở bệnh nhân,
kết hợp cùng với những vấn đề bệnh tật thực thể gây đau đớn cho họ mà còn ảnh
hưởng đến người thân của họ. Ngay cả khi bệnh nhân đã qua đời thì những vấn đề
đó cũng cịn ảnh hưởng, để lại những mảng kí ức đau buồn qua những lần chứng
kiến những người thân u bị bệnh tật dày vị.
Chính vì vậy, tơi quyết định thực hiện đề tài khoa học “Biểu Hiện Lo Âu Của
Thân Nhân Bệnh Nhân Ung Thư Giai Đoạn Cuối Ở Khoa Chăm Sóc Giảm Nhẹ
Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh”, nhằm mục đích xác định
mức độ, sự biểu hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lo âu của thân nhân đang
chăm sóc bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ. Qua
đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hỗ trợ giảm thiệu sự lo âu cho họ, cũng như là
giúp đỡ họ nâng cao chất lượng cuộc sống.
2.
Mục đích nghiên cứu:
3
Tìm hiểu biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở
Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. Trên cơ sở
đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm hỗ trợ giảm thiểu sự lo âu cho họ.
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu các vấn đề lý luận về lo âu
Khảo sát biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở
Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. Đưa ra một số
đề xuất, kiến nghị nhằm hỗ trợ giảm thiểu sự lo âu cho thân nhân bệnh nhân ung thư
giai đoạn cuối ở Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM.
4.
Giả thuyết nghiên cứu:
Mức độ lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở Khoa Lão -
Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM tương đối cao.
Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở Khoa Lão Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh rõ nét nhất là về
mặt cơ thể.
Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở Khoa Lão Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM khác nhau giữa các nhóm:
độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập, tôn giáo
5.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai
đoạn cuối
Khách thể nghiên cứu: thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ở Khoa
Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
6.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Thu thập những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, sách, tạp chí chuyên
ngành…Đọc, phân tích, tổng hợp tài liệu, trên cơ sở đó, hệ thống hóa và khái quát
hóa các khái niệm công cụ căn bản làm cơ sở lý luận cho đề tài.
4
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra bảng hỏi:
Sử dụng thang đo lo âu Zung để khảo sát biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh
nhân ung thư giai đoạn cuối, từ đó có thể phát hiện các vấn đề cần giải quyết, xác
định nguyên nhân và tiến hành đề xuất kiến nghị.
+ Phương pháp phỏng vấn:
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhằm thu thập và làm rõ hơn những
thông tin thu được từ điều tra bằng bảng hỏi.
+ Phương pháp phân tích trường hợp:
Kết hợp với phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi và phân tích số liệu, đề tài
phân tích một trường hợp để làm rõ cho biểu hiện lo âu thu được.
+ Phương pháp thống kê số liệu:
Sử dụng các phép toán thống kê xử lý các số liệu thu thập được từ các cuộc
điều tra bằng bảng hỏi để rút ra được những kết luận khoa học, chuẩn xác, phù hợp
với mục đích nghiên cứu của đề tài.
7.
Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu: Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai
đoạn cuối ở Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Khách thể nghiên cứu: ít nhất 30 thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối
ở Khoa Lão - Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM.
Người nghiên cứu giới hạn người chăm sóc phải có quan hệ gia đình trong
phạm vi ba đời với bệnh nhân, Bao gồm: ông/bà ruột của bệnh nhân; cha/mẹ ruột
của bệnh nhân; anh/chị/em ruột của bệnh nhân; anh/chị/em ruột của cha mẹ bệnh
nhân; cháu nội/ngoại ruột của bệnh nhân, vợ/chồng; con ruột của bệnh nhân; con
dâu/con rể của bệnh nhân; quốc tịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, khách thể khơng có những vấn đề sức khỏe về tim mạch, suyễn,
HIV/AIDS, ung thư.
Địa điểm thực hiện nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Lão –
Chăm sóc giảm nhẹ Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM từ ngày 1/3/2019 đến
12/4/2019.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU HIỆN LO ÂU CỦA THÂN NHÂN BỆNH NHÂN
UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI
1.1. Lịch sử nghiên cứu:
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu thế giới:
Từ những năm 460 – 370 trước công nguyên, lo âu đã được biết tới và nghiên
cứu bởi Hypocrate. Ơng đã mơ tả lại sự sợ hãi như là một căn bệnh của những đứa
trẻ sơ sinh biểu hiện qua các triệu chứng bị đẹn miệng, ói mửa hay nỗi sợ bóng tối.
(Nguyễn Đại Hành, 2013)
Năm 1872, trong tác phẩm “Sự biểu lộ cảm xúc ở người và động vật: The
expression of emotion in man and animals” Charles Darwin đã nói về nguồn gốc,
bản chất của lo âu, mô tả rằng trong q trình tiến hóa, trong hồn cảnh phải đối mặt
với nhiều mối đe dọa từ bên ngoài cùng với sự sợ hãi thì con người tồn tại nhờ
những lo âu của họ. Trải qua nhiều thế hệ, lo âu ngày càng tăng lên. Từ đó, tâm thần
học và tâm lý học bắt đầu nghiên cứu về bản chất của lo âu và mơ tả nó. (Hess,
2009)
Năm 1895, học thuyết của Freud đã đưa ra quan điểm đầy sức thuyết phục về
chứng suy nhược thần kinh. Ông đã cung cấp rằng hành vi thần kinh bắt nguồn từ
việc xuất hiện những ý tưởng gợi lên lo âu không mong muốn trong sự phòng vệ
của ý thức. Theo Freud, rối loạn liên quan đến lo âu đại diện cho cách mà bản ngã
cố gắng tự bảo vệ mình chống lại sự lo âu đó. Các khái niệm của ơng được chấp
nhận rộng rãi vào những năm 1900, hình thành những cơ sở căn bản trong hệ thống
phân loại trong hai ấn bản đầu tiên của Sổ Tay Chẩn đoán và Thống Kê Rối Loạn
Tâm Thần (The Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, Fifth
Edition – DSM5).(Nguyễn Xuân Hiếu, 2002)
6
Có thể thấy, chủ đề lo âu đã được quan tâm và đề cập đến từ khá sớm. Lo âu
đã được nghiên cứu trên nhiều đối tượng khách thể, các độ tuổi khác nhau. Cho đến
nay, rối loạn lo âu vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, thu hút nhiều quan tâm và cơng trình
nghiên cứu từ các nhà khoa học, bác sĩ, các nhà tâm lý học. Qua các nghiên cứu,
điều tra cho thấy rằng rối loạn lo âu khơng chỉ là một rối loạn thường gặp mà cịn
ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống cũng như là hoạt động của ngươi
bệnh, làm tăng nguy cơ lạm dụng rượu, thuốc, ma túy và ý định tự sát (Tâm thần
học, 2005).
Như đã nói ở phần mở đầu, ung thư đang là một căn bệnh thời đại có xu hướng
tăng lên và chuyển biến phức tạp. Chính vì vậy, vấn đề này được giới khoa học quan
tâm, nghiên cứu trên nhiều khía cạnh như: về mặt Y khoa nhằm phát triển cách thức
điều trị bệnh, về mặt Tâm lý để hỗ trợ cho bệnh nhân,… Bên cạnh những nghiên
cứu hướng đến bệnh nhân ung thư cịn có những nghiên cứu dành cho đối tượng
thân nhân bệnh nhân. Những nghiên cứu này cho thấy những khó khăn mà thân
nhân bệnh nhân gặp phải khi phải chăm sóc người bệnh, đặc biệt là những khó khăn
về mặt tâm lý.
Năm 1999, nghiên cứu “Thang đo chất lượng cuộc sống của người chăm sóc
bệnh nhân ung thư (CQOLC): phát triển và xác nhận một công cụ để đo lường chất
lượng cuộc sống của người chăm sóc gia đình bệnh nhân ung thư” (The Caregiver
Quality of Life Index-Cancer (CQOLC) scale: development and validation of an
instrument to measure quality of life of the family caregiver of patients with
cancer). Nghiên cứu được thực hiện trên hai trăm sáu mươi ba người chăm sóc
thuộc gia đình của bệnh nhân bị ung thư phổi, vú hoặc tuyến tiền liệt. Kết quả đã
cho thấy có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống với sức khỏe tâm thần tổng
thể (r = 0,64), đau khổ cảm xúc (r = -0,50 đến -0,52), gánh nặng (r = -0,65) và tình
trạng hoạt động của bệnh nhân (r = -0,47). Tương quan giữa chất lượng cuộc sống
với sức khỏe thể chất tổng thể (r = 0,13), hỗ trợ xã hội (r = 0,22) và nhu cầu xã hội
(r = 0,08) thì thấp. Những kết quả này cho thấy sức khỏe tinh thần tổng thể tăng lên
có liên quan đến sự cải thiện chất lượng cuộc sống tốt, trong khi tình trạng suy giảm
7
cảm xúc và tình trạng hoạt động của bệnh nhân xấu đi thì có liên quan đến chất
lượng cuộc sống kém hơn. (Weitzner, 1999)
Năm 2005, nghiên cứu “Trầm cảm và lo âu giữa những người chăm sóc gia
đình bệnh nhân ung thư tại một phòng khám ung bướu” (Depression and Anxiety
Among Family Caregivers of Cancer Patients in an Oncology Clinic) của nhóm tác
giả Ambigga Devi K, Sherina M.S, Suthahar A đã chỉ ra rằng tỉ lệ lo âu ở thân nhân
chiếm 48,6% và tỉ lệ trầm cảm chiếm 29,4%. Trong đó, những yếu tố về trình độ
văn hóa và thời gian điều trị bệnh có liên quan đáng kể đến với tỉ lệ trầm cảm, cịn tỉ
lệ lo âu có sự liên quan đến yếu tố tuổi tác, người ta thấy rằng những thân nhân trẻ
tuổi thì có xu hướng lo âu nhiều hơn bởi vì họ phải đảm đương nhiều trách nhiệm
khác nhau. (Ambigga, 2005)
Năm 2005, nghiên cứu “Rối loạn tâm lý tâm thần và sử dụng dịch vụ sức khỏe
tâm thần trong số những người chăm sóc bệnh nhân ung thư tiến xa” (Psychiatric
Disorders and Mental Health Service Use Among Caregivers of Advanced Cancer
Patients) cho thấy có 13% người chăm sóc đáp ứng tiêu chuẩn của một rối loạn tâm
thần, 25% tiếp cận với biện pháp trị liệu cho các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm
thần kể từ khi nhận được kết quả chẩn đoán ung thư của bệnh nhân. Tỉ lệ rối loạn
tâm lý tâm thần như sau: rối loạn hoảng loạn (8%), trầm cảm (4,5%) rối loạn stress
sau sang chấn (4,0%), rối loạn lo âu lan tỏa (3,5%). Trong đó, chỉ 46% người chăm
sóc bị rối loạn tâm lý tâm thần tiếp cận với các dịch vụ về sức khỏe tâm thần.
(Vanderwerker, 2005)
Năm 2007, Michal Braun và cộng sự nghiên cứu đề tài “Tỷ lệ mắc bệnh tiềm
ẩn trong bệnh ung thư – Người chăm sóc phối ngẫu” (.Hidden Morbidity in Cancer:
Spouse Caregivers) Đây là nghiên cứu đánh giá sự đau khổ tâm lý giữa bệnh nhân
ung thư tiến xa và người bạn đời chăm sóc họ. Kết quả cho thấy có 38,9% người
chăm sóc có triệu chứng trầm cảm đáng kể (BDI-II >= 15) so với 23% bệnh nhân
ung thư. Kết quả phân tích về dự đốn các mức độ ảnh hưởng đến trầm cảm ở người
chăm sóc, (I) tuổi của họ và giai đoạn ung thư của bệnh nhân, (II) yếu tố khách
8
quan về gánh nặng chăm sóc, (III) yếu tố chủ quan về gánh nặng chăm sóc, (IV)
mức độ gắn bó của người chăm sóc và (V) mức độ hài lịng về hơn nhân của người
chăm sóc. (Braun, 2007)
Năm 2007, Selamat và cộng sự đã nghiên cứu về “Rối loạn lo âu ở thân nhân
bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại Malaysia” (Anxiety Disorders in Family
Caregivers of Breast Cancer Patients Receiving Oncologic Treatment in Malaysia)
Kết quả cho thấy một phần mười thân nhân bệnh nhân có rối loạn lo âu liên quan
đến yếu tố loại điều trị và việc khơng được chia sẻ vai trị chăm sóc người bệnh.
Những người đang có người thân điều trị bằng phương pháp hóa trị hoặc xạ trị làm
tăng tỉ lệ rối loạn lo âu so với những người đang có người thân điều trị ngoại trú.
Đăc biệt là đối với những người khơng được chia sẻ vai trị chăm sóc bệnh nhân thì
tỉ lệ này cũng tăng lên. (Selamat, 2007)
Năm 2008, nghiên cứu “Trầm cảm ở những người chăm sóc gia đình bệnh
nhân ung thư: Cảm giác nặng nề như một yếu tố dự báo trầm cảm” (Depression in
Family Caregivers of Cancer Patients: The Feeling of Burden As a Predictor of
Depression) cho thấy 67% những người chăm sóc có số điểm trầm cảm cao (BDI >
13) và 35% đạt số điểm rất cao (BDI > 21). Trầm cảm rất phổ biến ở những người
chăm sóc bệnh nhân ung thư, gánh nặng chăm sóc là yếu tố dự báo rõ nhất. Các
biện pháp can thiệp nhằm giảm những ảnh hưởng về mặt tâm thần không chỉ nên
tập trung vào bệnh nhân mà cũng nên tập trung vào người chăm sóc. (Rhee, 2008)
Năm 2012, kết quả nghiên cứu “Chăm sóc về tâm lý xã hội đối với người
chăm sóc thuộc gia đình của bệnh nhân ung thư” (Psychosocial Care for Family
Caregivers of Patients With Cancer) của Northouse Nghiên cứu về biện pháp can
thiệp tâm lý cung cấp cho người chăm sóc bệnh nhân ung thư hoặc các bệnh mãn
tính khác cách thức có thể làm giảm các tác động tiêu cực, nâng cao kĩ năng ứng
phó, kiến thức và chất lượng cuộc sống. Mặc dù những biện pháp can thiệp này
cũng làm giảm triệu chứng ở bệnh nhân, giảm tỉ lệ tử vong, cải thiện sức khỏe thể
chất và tinh thần nhưng trong thực tế vẫn ít được thực hiện. (Northouse, 2012)
9
Năm 2014, Trong nghiên cứu “Ung thư: Rủi ro của một gia đình” (Cancer: a
family at risk) Wozniak K. và Izycki D. đã nói rằng một gia đình tập trung vào
nhiệm vụ chăm sóc, có thái độ quan tâm người bệnh thì có thể thúc đẩy được hành
vi lành mạnh và ý chí chiến đấu của bệnh nhân. Giai đoạn cuối đời là giai đoạn căng
thẳng nhất đối với các thành viên trong gia đình Phản ứng căng thẳng mạnh mẽ có
thể được gây ra bởi nỗi sợ chia ly và ở một mình, cũng như nỗi đau dự đốn mà
bệnh nhân sẽ phải đối mặt, thiếu kiểm sốt tình hình và thời điểm tử vong. Cách các
thành viên trong gia đình có thể đối phó với cái chết của người thân tùy thuộc vào
tình trạng tâm lý và thể chất của chính họ và cả mạng lưới hỗ trợ của họ. (Wozniak,
2014)
Năm 2017, Ullrich A. và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu “Chất lượng cuộc
sống, gánh nặng tâm lý, nhu cầu và sự hài lòng của người chăm sóc thuộc gia đình
của bệnh nhân ung thư giai đoạn tiến xa trong q trình điều trị chăm sóc giảm nhẹ
nội trú” (Quality of life, psychological burden, needs, and satisfaction during
specialized inpatient palliative care in family caregivers of advanced cancer
patients) Nghiên cứu nhằm điều tra chất lượng cuộc sống, gánh nặng tâm lý, nhu
cầu chưa được đáp ứng và sự hài lịngcủa những người chăm sóc trong gia đình của
bệnh nhân ung thư giai đoạn tiến xa. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng, ngoại
trừ nỗi đau về cơ thể thì chất lượng cuộc sống của những người chăm sóc trong gia
đình suy giảm ở tất cả các mặt. Có tới 96% câu trả lời có sự đau khổ đáng kể về mặt
lâm sàng, trong đó nỗi buồn (sadness), sự phiền muộn (sorrow) và kiệt sức
(exhausted) là những vấn đề gây đau khổ nhất (80% - 83%). Mức độ lo lắng từ
trung bình đến nặng, tỉ lệ trầm cảm chiếm từ 41% - 47%. Tóm lại, người chăm sóc
trong gia đình của bệnh nhân ung thư giai đoạn tiến xa chịu những gánh nặng tâm lý
có liên quan, bao gồm đau khổ, lo lắng, trầm cảm. Chất lượng cuộc sống của họ
thấp hơn so với mặt bằng chung, đặc biệt là về mặt sức khỏe tâm thần. (Ullrich,
2017)
Tóm lại, qua các nghiên cứu trên, ta thấy rằng những người chăm sóc gia đình
của bệnh nhân ung thư khơng có nhiều sự chuẩn bị, thông tin hoặc sự hỗ trợ để thực
10
hiện vai trị chăm sóc của họ. Họ phải đối mặt với nhiều vấn đề, đặc biệt sự lo âu
của thân nhân bệnh nhân ung thư chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như:
trình độ văn hóa, thời gian điều trị bệnh, mức độ gắn bó, tuổi tác, giai đoạn ung thư
của bệnh nhân, phương pháp điều trị. Một điều nổi bật là họ chịu nhiều gánh nặng
từ việc chăm sóc người thân của mình. Điều này tác động tiêu cực đến chất lượng
cuộc sống của chính bản thân họ, cả về thể chất lẫn tinh thần, cũng như là chất
lượng chăm sóc bệnh nhân.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu trong nước:
Tại Việt Nam, các vấn đề về lo âu cũng được quan tâm và nghiên cứu rộng rãi.
Tuy nhiên, khách thể nghiên cứu phần lớn là học sinh – thanh niên, người đi làm.
Những năm gần đây, chăm sóc tâm lý cho thân nhân bệnh nhân cũng là một chủ đề
đã được quan tâm nhưng đa phần đều là những thông tin trên báo đề cập đến, nêu
lên vai trò, ảnh hưởng của người nhà trong việc điều trị bệnh ung thư nói chung.
Những bài báo đó đã nêu lên phần nào sự cần thiết của việc quan tâm đến việc chăm
sóc tâm lý cho thân nhân bệnh nhân. Dù vậy, theo hiểu biết của tác giả, cũng chỉ có
rất ít những nghiên cứu chính thức về nhóm khách thể này. Dưới đây là một số
nghiên cứu đã được thực hiện:
Năm 2011, luận án tiến sĩ “Nghiên cứu rối loạn trầm cảm, lo âu ở trẻ bị ung
thư và phương thức ứng phó của cha mẹ” của Nguyễn Thị Thanh Mai đã tập trung
nghiên cứu rối loạn trầm cảm, lo âu và phương thức ứng phó của cha mẹ trẻ bị ung
thư, từ đó thiết kế mơ hình chăm sóc, hỗ trợ tâm lý, can thiệp làm giảm thiểu rối
loạn trầm cảm, lo âu cho trẻ ung thư và cha mẹ trẻ, góp phần nâng cao hiệu quả điều
trị và chất lượng sống của trẻ bị ung thư ở Việt Nam. (Nguyễn Thị Thanh Mai,
2011)
Năm 2013, Lương Bích Thủy nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu nhu cầu hỗ trợ của
người chăm sóc bệnh nhân ung thư (nghiên cứu trường hợp tại bệnh viện K)” cũng
đã chỉ ra thực trạng nhu cầu hỗ trợ của người chăm sóc bệnh nhân ung thư và đề ra
11
một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động hỗ trợ người chăm sóc bệnh nhân ung
thư của nhân viên cơng tác xã hội. (Lương Bích Thủy, 2013)
Năm 2015, Nguyễn Văn Bằng, Nghiêm Thị Minh Châu, Nguyễn Hoàng
Thanh, Nguyễn Trọng Hà đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu nhu cầu tư vấn của thân
nhân bệnh nhân bị bệnh lý ung thư” tại bệnh viện Quân Y 103 nhằm đáp ứng những
nhu cầu tư vấn về những thắc mắc mặt y khoa. Những nghiên cứu trên chỉ đề cập
một phần về các vấn đề tâm lý nói chung của thân nhân bệnh. Có thể thấy, những
nghiên cứu về các vấn đề tâm lý ở thân nhân bệnh nhân ung thư đang rất thiếu, đặc
biệt là về tình trạng lo âu. Đối tượng này chưa nhận được sự chú ý, quan tâm của
cộng đồng cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế. (Nguyễn Văn Bằng, 2015)
1.2. Biểu hiện lo âu của thân nhân bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối
1.2.1.
Khái niệm ung thư, ung thư giai đoạn cuối, chăm sóc giảm nhẹ.
1.2.1.1.
Ung thư
Theo Tổ chức Y tế thế giới WHO (2018), ung thư là một thuật ngữ chung chỉ
một nhóm lớn các bệnh có thể ảnh hướng đến bất kỳ phần nào trên cơ thể. Thuật
ngữ khác được sử dụng là khối u ác tính. Một tính chất đặc trưng của ung thư là sự
hình thành và phát triển nhanh chóng của các tế bào bất thường vượt khỏi ranh giới
bình thường của chúng, sau đó có thể thâm nhập vào các bộ phận liền kề của cơ thể
và lây lan sang các cơ quan khác. Quá trình cuối cùng được gọi là di căn. Di căn là
nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư. (Cancer, 2018)
Theo Từ điển về Ung thư của Viện Ung Thư Quốc Gia (National Cancer
Institute) (2015), ung thư là thuật ngữ chỉ các bệnh mà trong đó các tế bào phân chia
bất thường khơng kiểm sốt và có thể xâm nhập các mơ lân cận. Các tế bào ung thư
cũng có thể lây lan sang các bộ phận khác của cơ thể thông qua máu và bạch huyết.
Có các dạng ung thư chủ yếu khác nhau. Ung thư biểu mô (carcinoma) bắt đầu ở da
hoặc trong các mơ có đường thẳng hoặc bao gồm cơ quan nội tạng. Ung thư mơ liên
kết (sarcoma) là nhóm ung thư xuất phát từ mô liên liên kết, xương hay cơ. Bệnh lý
huyết học ác tính (hematological malignancy), như bệnh bạch cầu (leukemia) và u
12
lympho bào (lymphoma), xuất phát từ máu và tủy xương. Ung thư hệ thần kinh
trung ương là ung thư bắt đầu từ các mô ở não và tủy sống. (What is cancer, 2015)
Theo PGS TS Nguyễn Bá Đức (2005) thì ung thư (được ký hiệu là K) là quá
trình bệnh lý trong đó một số tế bào thốt ra khỏi sự kiểm sốt, sự biệt hóa sinh lý
của tế bào và tiếp tục nhân lên. Những tế bào này có khả năng xâm lấn và phá hủy
các tổ chức chung quanh. (Nguyễn Bá Đức, 2005)
Như vậy, có nhiều định nghĩa riêng về ung thư nhưng nhìn chung ung thư là
quá trình bệnh lý mà các tế bào phát triền bất bình thường, vượt khỏi sự kiểm sốt.
Trong nghiên cứu này, người nghiên cứu giới hạn khái niệm: “Ung thư là một
nhóm bệnh lý mà các tế bào phát triển bất thường một các nhanh chóng, vượt q
tầm kiểm sốt, có khả năng xâm nhập và tấn công các mô khác”
1.2.1.2.
Ung thư giai đoạn cuối
Theo Viện Ung Thư Quốc Gia: National Cancer Institute (2015), ung thư di
căn là khi căn bệnh ung thư lan rộng từ nơi nó bắt đầu đến một bộ phận khác trong
cơ thể. Quá trình mà các tế bào ung thư lây lan được gọi là quá trình di căn. Trong
di căn, các tế bào ung thư sẽ tách ra khỏi nơi chúng hình thành đầu tiên (ung thư
chính), đi qua máu hoặc hệ bạch huyết và hình thành các khối u mới (khối u di căn)
ở các bộ phận khác trên cơ thể. Khối u di căn là loại ung thư giống như khối u
chính.
Theo hệ thống phân chia giai đoạn của ung thư TNM – hệ thống được sử dụng
rộng rãi trong các bệnh viện và trung tâm y tế - thì M (metastasis) là chỉ liệu ung thư
có di căn hay khơng. Tức nghĩa là ung thư đã lây lan từ khối u nguyên phát đến các
bộ phận khác trong cơ thể người bệnh hay chưa. Trong đó, M0: là ung thư chưa lây
lan đến các bộ phận khác của cơ thể và M1: là ung thư đã lây lan đến các bộ phận
khác của cơ thể. (National Cancer Institute, 2015)
Hệ thống TNM giúp mô tả chi tiết về ung thư. Tuy nhiên, một số loại ung thư
thì cách phân chia giai đoạn khác. Đó là hệ thống phân giai đoạn theo chữ số, gồm 4
13
giai đoạn: giai đoạn I ung thư tương đối nhỏ và chứa trong cơ quan mà nó bắt đầu.
Giai đoạn II khối u lớn hơn nhưng không lây lan sang các mơ xung quanh. Đơi khi,
giai đoạn hai cũng có nghĩa là tế bào ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết gần
khối u. Điều này phụ thuộc vào loại ung thư cụ thể. Giai đoạn III là các giai đoạn
khối u đã lớn hơn và bắt đầu lan rộng đến các mơ xung quanh, có tế bào ung thư
trong hạch bạch huyết ở khu vực đó. Giai đoạn IV là giai đoạn ung thư đã lan rộng
từ nơi nó bắt đầu đến các cơ quan khác khác trên cơ thể. Đây còn được gọi là ung
thư thứ phát hoặc di căn. (Cancer Research UK, 2017)
Có thể thấy, có các hệ thống phân chia giai đoạn ung thư khác nhau. Tuy nhiên
đều có thể thấy giai đoạn cuối cùng của các hệ thống đều là khi ung thư đã lan rộng
và phát triển trên các bộ phận khác của cơ thể người bệnh. Trong nghiên cứu này,
người nghiên cứu giới hạn định nghĩa: “Ung thư giai đoạn cuối là giai đoạn mà các
tế bào ung thư đã di căn, hình thành khối u mới ở các bộ phận khác trên thể người
bệnh.” Trong một số tài liệu chuyên ngành y khoa, ung thư giai đoạn cuối theo định
nghĩa trên còn được gọi là ung thư giai đoạn tiến xa. (Eric, 2007)
1.2.1.3.
Chăm sóc giảm nhẹ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO (2018), "Chăm sóc giảm nhẹ là một tiến
trình cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia đình người bệnh, những
người đang đối mặt với những vấn đề liên quan tới sự ốm đau đe doạ đến tính
mạng, thơng qua sự ngăn ngừa và làm giảm gánh nặng họ chịu đựng bằng cách
nhận biết sớm, đánh giá toàn diện và điều trị đau và các vấn đề khác, thể lực, tâm
lý xã hội và tâm linh.” Đó là nhu cầu nhân đạo khẩn cấp dành cho tất cả các bệnh
nhân ung thư trên thế giới và các bệnh mãn tính gây tử vong khác. Đặc biệt cấp thiết
trong ở những nơi có tỷ lệ bệnh nhân cao trong giai đoạn ung thư tiến triển nhưng
có rất ít cơ hội được chữa trị. (Palliative Care, 2018)
Theo Viện Ung Thư Quốc Gia: National Cancer Institute (2015), chăm sóc
giảm nhẹ là chăm sóc đặc biệt nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của những bệnh
nhân có bệnh nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng, chẳng hạn như ung thư. Chăm
14
sóc giảm nhẹ là một cách tiếp cận để chăm sóc tồn diện các mặt của người bệnh,
khơng chỉ là bệnh tật của họ. Mục tiêu là để ngăn chặn hoặc điều trị càng sớm càng
tốt các triệu chứng, tác dụng phụ của bệnh và của việc điều trị bệnh. Thêm vào đó là
các vấn đề đến tâm lý, xã hội và tâm linh có liên quan. Chăm sóc giảm nhẹ cịn
được gọi là chăm sóc an ủi (comfort care), chăm sóc hỗ trợ (supportive care) và
quản lý triệu chứng. Bệnh nhân có thể được chăm sóc giảm nhẹ tại bệnh viện,
phòng khám ngoại trú, cơ sở điều trị dài hạn hoặc tại nhà dưới sự hướng dẫn của
bác sĩ.
Theo Bộ Y tế Việt Nam (2006): “Chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư
và AIDS là sự kết hợp nhiều biện pháp để làm giảm sự đau khổ và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người bệnh thông qua sự phòng ngừa, phát hiện sớm và điều
trị đau và những vấn đề tâm lý và thực thể khác, và cung cấp sự tư vấn và hỗ trợ
tập trung vào những vấn đề xã hội và tâm linh mà bệnh nhân và gia đình đang phải
gánh chịu.” (Bộ Y tế, 2006)
Các định nghĩa về chăm sóc giảm nhẹ đều là việc giảm nhiều loại đau khổ, cải
thiện chất lượng cuộc sống, chăm sóc các khía cạnh: thực thể, tâm lý, xã hội, tâm
linh cho bệnh nhân và người nhà. Do đó, người nghiên cứu giới hạn định nghĩa:
“Chăm sóc giảm nhẹ là việc xoa dịu các loại đau khổ, nâng cao chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân và người thân của họ thông qua việc quan tâm đến các mặt về
thực thể, tâm lý, xã hội và tâm linh.”
1.2.2.
Lo âu
Theo Tổ chức Sức Khỏe Tâm Thần Đa Văn Hóa Úc: Multicultural Mental
Health Australia (2007), lo âu là một từ dùng để mơ tả một cảm giác bình thường
mà người ta cảm nhận khi bị đe dọa, khi gặp nguy hiểm, hay khi bị căng thẳng.
Người lo âu thường cảm thấy bực bội, bồn chồn, và căng thẳng trong lúc lo âu.
Theo từ điển Tâm lý học Cambridge (2009), lo âu là một trạng thái sợ hãi mơ
hồ khơng có sự xác định cụ thể. Theo lý thuyết học tập, phản xạ thứ cấp hoặc có
điều kiện dẫn đến phản ứng né tránh. Theo học thuyết của Freud thì có các loại lo
15
âu thực tế: sợ hãi với một sự kiện có thể xảy ra, lo âu nhiễu tâm: sự mất cân bằng
của cái tôi (ego), lo âu đạo đức. Theo lý thuyết hiện sinh, lo âu là là khía cạnh cảm
xúc của trạng thái không chắc chắn liên tục của những người phải tự đưa ra quyết
định phản ứng như thế nào mà khơng có bất kì sự hướng dẫn.
Theo từ điển Tâm lý học và các ngành khoa học liên quan của Bhatia M.S.
(2009), lo âu là trạng thái cảm xúc khơng thể đo lường được có liên quan đến những
thay đổi tâm sinh lý để đáp ứng với một cuộc xung đột nội tâm, trái ngược với nỗi
sợ hãi, sự nguy hiểm hoặc mối đe dọa trong lo lắng là không thực tế. Thay đổi tâm
lý bao gồm cảm giác khó chịu về nguy hiểm sắp xảy ra, nhận thức q mức về sự
bất lực, khơng có khả năng nhận thức được sự không thực tế của mối đe dọa, cảm
giác căng thẳng kéo dài và sẵn sàng cho mối nguy hiểm dự kiến.
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng (2008), lo âu là trải nghiệm cảm xúc
tiêu cực được quy định bởi sự chờ đợi điều gì đó nguy hiểm, có tính chất khuếch
tán, khơng liên quan đến các sự kiện cụ thể. Trạng thái cảm xúc xuất hiện trong các
tình huống nguy hiểm khơng xác định được thể hiện trong việc chờ đợi những tiến
triển không thuận lợi của sự kiện.
Trong cuốn Tâm thần học (2005), thì lo âu là một tín hiệu báo động, báo trước
một nguy hiểm sắp xảy ra và cho phép con người sử dụng mọi biện pháp để đương
đầu với sự đe dọa.
Như vậy, người nghiên cứu giới hạn định nghĩa: “Lo âu là một trạng thái có
liên quan đến những thay đổi tâm lý và sinh ly khi đối mặt một sự chờ đợi điều gì
đó nguy hiểm.”
1.2.2.1.
Phân biệt lo âu
Theo Viện sức khỏe tâm thần quốc gia (National Institute of Mental Health)
(2018), rối loạn lo âu bao gồm nhiều sự lo lắng, sợ hãi hơn bình thường. Đối với
người bị rối loạn lo âu, sự lo lắng không hề mất đi mà có thể cịn trở nên tồi tệ hơn
16
theo thời gian. Các triệu chứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như công việc,
học tập, mối quan hệ.
Theo Tổ chức sức khỏe tâm thần đa văn hóa Úc (Multicultural mental health
Australia) (2007), rối loạn lo âu không chỉ là một căn bệnh mà là một nhóm chứng
bệnh, biểu hiện bằng cảm giác lo âu quá mức kéo dài, tâm trạng vơ cùng bứt rứt và
tinh thần cực kì căng thẳng. Có thể chẩn đốn được ai đó mắc rối loạn lo âu, một
khi nỗi lo âu của người ấy lên cao, đến độ nó có ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống
hàng ngày của người ấy, khiến cho đương sự khơng làm được những gì họ muốn
làm.
Theo Từ điển Tâm lý học Cambridge (2009), rối loạn lo âu là một trong số các
rối loạn tâm thần mà trong đó đặc trưng chính là sự lo lắng. Bao gồm rối loạn hoảng
sợ, ám sợ xã hội, ám sợ đặc hiệu, rối loạn lo âu toàn thể,…
Theo sách Tâm thần học (2005) định nghĩa đây là một rối loạn cảm xúc đặc
trưng bởi cảm giác lo sợ lan tỏa, khó chịu, mơ hồ kèm theo các triệu chứng thần
kinh tự chủ như đau đầu, vã mồ hôi, hồi hộp, siết chặt ở ngực, khơ miệng, khó chịu
thượng vị và bứt rứt, không thể ngồi yên hoặc đứng yên một chỗ.
Theo Vũ Dũng (2008), rối loạn lo âu là một rối loạn mà người bệnh khơng thể
kiểm sốt được sự sợ hãi quá mức do nguyên nhân cụ thể hoặc do chủ quan của họ
và điều đó khơng được giải thích bởi do bệnh thực thể hay tâm thần nào khác, biểu
hiện bền vững, có tính chất lan tỏa, thậm chí có thể xảy ra ở tình trạng kịch phát.
Theo Nguyễn Đại Hành (2013), “Rối loạn lo âu là một trạng thái bệnh lý, đặc
trưng bởi rối loạn cảm xúc và suy nghĩ về một mối nguy hiểm nào đó khơng có thực,
lặp đi lặp lại nhiều lần kèm theo các triệu chứng kích thích thần kinh thực vật.”
Theo Thái Quỳnh Chi (2016), rối loạn lo âu là cảm giác lo lắng quá mức, do
tình trạng lo lắng kéo dài trong nhiều tuần, nhiều tháng làm cho cá nhân khơng thích
ứng được, không thực hiện được những hoạt động họ vẫn thường hay làm, ảnh
hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ.
17
Như vậy, người nghiên cứu giới hạn: “Rối loạn lo âu là tình trạng lo âu bệnh
lý, trong đó tâm trạng lo lắng kéo dài, lặp đi lặp lại, phản ứng lo lắng quá mức so
với thực tế, không thể kiểm soát được kèm theo các biểu hiện cơ thể, gây đau khổ và
ảnh hưởng đến chức năng nghề nghiệp – xã hội của người bệnh”
Bảng 1.2.4: Phân biệt lo âu bình thường và lo âu bệnh
lý (Tâm thần học, 2005; DSM-5, 2013)
Tiêu chí
Lo âu bình thường
- Lo âu với những yếu tố có
thật
Đối tượng/Nội
dung lo âu
Lo âu bệnh lý
- Lo âu với những yếu tố có
thật hoặc khơng có thật
- Phù hợp với tình huống và
mất đi khi tình huống đã được
giải quyết.
Khả năng
kiểm soát
- Ở mức phù hợp và có thể
kiểm sốt được hoặc có thể
- Thường q mức so với thực
tế, khơng kiểm sốt được cơn
ngăn chặn khi lo âu tăng cao.
lo âu. Thường có tính chất lan
tỏa, dễ nhận biết và gây đau
khổ cho bệnh nhân
Thời gian
- Không kéo dài, gắn với đối
tượng gây sợ hãi và mất đi khi
- Xảy ra trong một thời gian
dài và khơng có xu hướng
tình huống lo âu được giải
giảm đi.
quyết
Triệu chứng
và hành vi
- Ít khi liên quan đến những
triệu chứng cơ thể
- Triệu chứng cơ thể nhiều
- Thường có ích: có sự chuẩn
bị cho cơng việc, tránh được
- Ảnh hưởng đến hoạt động
hằng ngày, gây cản trở các
kèm theo
Hệ quả
18