KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG THẺ Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về thẻ Ngân hàng
1.1.1. Lịch sử hình thành của thẻ Ngân hàng
Thẻ ngân hàng ra đời vào đầu thế kỷ 20 tại Mỹ xuất phát từ thói quen cho khách
hàng mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ dựa trên uy tín của khách đối với chủ tiệm.
Tuy nhiên, việc chấp nhận bán chịu của các chủ tiệm chỉ có giới hạn, chính yếu tố
này đã làm nảy sinh ý tưởng về sản phẩm thẻ.
Năm 1914, tổ chức Western Union của Mỹ lần đầu tiên cung cấp cho khách hàng
đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán trả chậm. Một số năm sau đó, nhiều đơn vị
như nhà ga, khách sạn cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung
cấp dịch vụ trả chậm cho khách hàng của mình theo phương thức của tổ chức
Western Union. Tiếp theo là các tổ chức cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các ngân hàng
chính thức bước vào thị trường thẻ.
Năm 1950, chiếc thẻ tín dụng làm bằng chất liệu plastic đầu tiên ra đời từ ý tưởng
của Frank Mc Namara sau một lần đi ăn ở nhà hàng và quên không mang theo tiền.
Năm 1966, các ngân hàng của Mỹ đã chính thức tiến hành ký hợp đồng cung cấp
dịch vụ thẻ cho khách hàng, bắt đầu quá trình tăng tốc trong việc phát hành dịch vụ
thẻ. Những năm sau đó dịch vụ thẻ được tiếp tục phát triển và mở rộng sang các
nước châu á và châu âu và lan rộng trên toàn thế giới.
Như vậy, thẻ ngân hàng đã ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa trên nền
tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu thông. Thực tế cho
thấy, thẻ ngân hàng là sự phát triển tất yếu trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Nó phản ánh những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và văn minh
xã hội.
ở Việt Nam, do yêu cầu đẩy nhanh công tác thanh toán, mở rộng phạm vi thanh
toán cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện
nay. Mặt khác do sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam với việc từng bước trang bị hệ thống thông tin hiện đại tiên tiến… đã cho
phép áp dụng những công cụ thanh toán mới hiện đại để thay thế bổ sung cho
những công cụ thanh toán trong nền kinh tế. Trong sự đòi hỏi đó, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã ký quyết định số 74/QĐ - NH1 ngày 10/4/1993 ban
hành thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán và giao cho Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam tổ chức thực hiện thí điểm, sau đó rút kinh nghiệm và cho
áp dụng phổ biến trong toàn quốc.
1.1.2 Đặc điểm và phân loại thẻ Ngân hàng
1.1.2.1. Đặc điểm:
Thẻ Ngân hàng được hiểu theo cách đơn giản nhất là một loại giấy tờ có giá đặc
biệt được làm bằng chất dẻo tổng hợp, được nhà phát hành ấn định giá trị, dùng để
trả tiền hàng hoá dịch vụ hay để rút tiền mặt thông qua các máy đọc thẻ.
Thẻ Ngân hàng có hình chữ nhật được làm bằng plastic. Mặt trước có các nội
dung sau: tên của thẻ, số thẻ, ngày hết hạn và tên người sở hữu. Mặt sau gồm có
băng từ tính, tên ngân hàng phát hành thẻ và chữ ký của người sử hữu ( một số thẻ
chữ ký nằm ở mặt trước).
Thẻ có kích thước 96mm x 54mm x 0.76mm
Băng từ trên thẻ được ghi lại các thông tin sau:
Số thẻ
Họ và tên người sở hữu
Thời hạn giá trị
Bảng lý lịch ngân hàng
Mã số bí mật
Ngày giao dịch cuối cùng
Mức rút tiền tối đa và số dư.
1.1.2.2. Phân loại thẻ Ngân hàng
*) Phân loại theo công nghệ sản xuất
Thẻ khắc chữ nổi (Embossed Card): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ có khắc nổi các
thông tin cần thiết. Ngày nay người ta không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ
thuật của nó quá thô sơ, dễ bị lợi dụng, làm giả.
Thẻ từ ( Magnetic Card ): Phần lớn các loại thẻ hiện nay đang lưu hành trên thế
giới đều là thẻ từ. Thẻ từ là loại thẻ có dải băng từ ở mặt sau. Mọi thông tin liên
quan đến chủ thẻ và thẻ đều được mã hoá trong băng từ. Đây là loại thẻ phổ thông
nhất trên thế giới.
Thẻ thông minh ( Smart Card ): Thẻ thông minh là giai đoạn phát triển hiện đại của
thẻ ngân hàng, thể hiện những ứng dụng hiện đại nhất của công nghệ thông tin vào
lĩnh vực thẻ, đó là việc sử dụng Chíp điện tử. Nhờ có bộ Chíp điện tử này thẻ có
thể vừa lưu giữ thông tin về chủ thẻ, đông thời cũng lưu giữ số liệu những lần giao
dịch của khách hàng tại các điểm chấp nhận thẻ.
*) Phân loại theo hạn mức của thẻ
Thẻ tín dụng ( Credit Card ): Thẻ tín dụng là một phương thức thanh toán không
dùng tiền mặt, cho phép người sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau. Khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng ngay sau khi ký hồng đồng sử dụng thẻ sẽ được cấp một
''hạn mức tín dụng" ghi vào bộ nhớ của thẻ. Khách hàng sẽ được sử dụng hạn mức
này trong một thời gian nhất định mà ngân hàng quy định. Đến hạn khách hàng
phải thanh toán số tiền nợ gốc cho ngân hàng. Nếu quá thời hạn này khách hàng
không trả được số dư nợ gốc thì phải chịu những khoản phí và lãi trả chậm.
Thẻ thanh toán ( Payment Card ): Thẻ thanh toán được áp dụng rộng rãi cho khách
hàng trong và ngoài nước với điều kiện là khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài
khoản riêng tại ngân hàng – tức là phải ký quỹ trước tại ngân hàng một số tiền
( nhưng được hưởng lãi ) và được sử dụng thẻ có giá trị bằng số tiền ký quỹ đó để
thanh toán. Thẻ thanh toán đầu tiên là thẻ ''Diners Club'', được người Mỹ sử dụng
vào năm 1949 để trả tiền ăn tại 27 nhà hàng trong hoặc ven thành phố NewYork.
*) Phân loại theo phương thức thanh toán
- Thẻ ATM: Thẻ ATM cho phép chủ thẻ tiếp cận trực tiếp với tài khoản tại ngân
hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện các giao dịch khác nhau tại
máy rút tiền tự động: Xem số dư tài khoản, chuyển khoản, rút tiền, in sao kê, xem
các thông tin quảng cáo…Hệ thống ATM hiện đại còn cho phép khách hàng gửi
tiền trực tiếp vào tài khoản của mình thông qua máy ATM, đổi sec qua máy rút tiền
tự động….
- Thẻ ghi nợ ( Debit Card ): Đây là bước phát triển sau của thẻ ATM. Thẻ ghi nợ
vừa cho phép khách hàng tiếp cận trực tiếp với tài khoản cá nhân của mình thông
qua hệ thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các điểm chấp
nhận thẻ hoặc thực hiện các giao dịch trên tài khoản tại máy rút tiền ATM. Thẻ ghi
nợ được phát triển lên từ thẻ ATM đồng thời đây cũng là một loại thẻ thanh toán.
- Thẻ liên kết ( Co-Branded Card ): Thẻ liên kết là sản phẩm của một ngân hàng
hay một tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ ba có thể là một ngân hàng hay
một tổ chức nào đó. Đây là loại thẻ được sử dụng khá phổ biến hiện nay vì những
tính năng vượt trội của nó như thẻ được hưởng những lợi ích phụ trội do bên thứ ba
đem lại. Khách hàng sử dụng thẻ liên kết có thể thực hiện thanh toán tại ngân hàng
phát hành hoặc tại bên liên kết phát hành.
ở Việt Nam hiện nay có hai loại thẻ chính là thẻ tín dụng và thẻ thanh toán. Trên thị
trường thẻ, hai loại thẻ này đều được gọi chung là thẻ thanh
toán vì chức năng chính của chúng là thanh toán. Các loại thẻ thanh toán đang lưu
hành trên thị trường Việt Nam hiện nay:
- Thẻ rút tiền tự động ( A.T.M ): Có hai loại thẻ ATM
+ Thẻ được dùng để rút tiền tại các máy rút tiền tự động tại ngân hàng phát hành
thẻ.
+ Thẻ được sử dụng để rút tiền không chỉ tại ngân hàng phát hành thẻ, mà còn
được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham gia tổ hợp thanh toán với ngân
hàng phát hành thẻ.
- Thẻ thanh toán ngay: Ngoài việc sử dụng để rút tiền, thẻ này còn dùng để chi trả
cho người bán hàng hoá, dịch vụ thông qua hệ thống máy thanh toán thẻ đặt tại các
cửa hàng. Loại thẻ này còn được gọi là thẻ ghi nợ.
- Thẻ thanh toán hạn mức: Đây là một hình thức thẻ tín dụng. Ngân hàng phát hành
thẻ sẽ cấp cho khách hàng một hạn mức chi tiêu trong một khoảng thời gian nhất
định.
- Thẻ quốc tế: Loại thẻ này có công dụng như các loại thẻ trên nhưng phạm vi sử
dụng của nó rộng hơn, không chỉ trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Các loại thẻ
quốc tế như: Visa, Master Card, Amex, JCB.
Hai loại thẻ thanh toán theo hạn mức và thẻ quốc tế được gọi là thẻ tín dụng vì hai
loại thẻ này người sử dụng thẻ được cấp tín dụng dưới dạng chi trả chậm hoặc
được ngân hàng cho sử dụng một hạn mức tín dụng khi thanh toán vượt quá số dư
tiền gửi.
1.1.3. Sự tiện ích của dịch vụ thẻ
1.1.3.1. Đối với Nhà nước và xã hội
- Thanh toán bằng thẻ giúp loại bỏ một khối lượng tiền mặt rất lớn lẽ ra phải lưu
chuyển trực tiếp trong lưu thông để thanh toán các khoản mua hàng, trả tiền dịch
vụ trong cơ chế thị trường đang ngày càng sôi động, phát triển ở tất cả các nước.
- Tăng nhanh khối lượng chu chuyển, thanh toán trong nền kinh tế. Hầu hết mọi
giao dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh
toán trực tuyến vì vậy tốc độ chu chuyển thanh toán nhanh hơn nhiều so với những