THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN TẠI
PGD NGUYỄN PHONG SẮC CHI NHÁNH LÁNG THƯỢNG.
2.1. Khái quát về PGD Nguyễn Phong Sắc- chi nhánh Láng Thượng.
2.1.1 Lịch sử hình thành.
PGD Nguyễn Phong Sắc thành lập ngày 20/6/2005. Là đơn vị trực thuộc
NHNo&PTNT chi nhánh Láng Thượng .
2.1.3. Kết quả hoạt động PGD Nguyễn Phong Sắc
Trong những năm qua, được sự ủng hộ nhiệt tình của các ban, ngành hữu
quan với sự nỗ lực vươn lên của đội ngũ cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh,
PGD Nguyễn Phong Sắc đã thực hiện tốt sự chỉ đạo sát sao của NHNo&PTNT Việt
Nam và đã đạt được những thành công nhất định góp phần quan trọng trong việc
phát triển kinh tế xã hội của quận Cầu Giấy và thủ đô Hà Nội.
2.1.3.1 Về hoạt động huy động vốn.
Xuất phát từ nguyên tắc của Ngân hàng là “ đi vay để cho vay” nên Ban
giám đốc chi nhánh luôn coi trọng hoạt động huy động vốn dưới mọi hình thức
nhằm đảm bảo nguồn vốn tăng liên tục và ổn định, đáp ứng vốn cho hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng. Bằng việc không ngừng mở rộng mạng lưới giao dịch
qua các quỹ tiết kiệm, thực hiện quy trình giao dịch tiết kiệm trên máy tính đảm
bảo quyền lợi người gửi tiền, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nên thời gian
qua hoạt động huy động vốn của chi nhánh đã đạt được những thành công nhất
định. Tổng nguồn vốn huy động tăng liên tục qua các năm với tỷ lệ tăng tương ứng
năm 2005 đạt 916 tỷ đồng, năm 2006 đạt 1117 tỷ đồng và năm 2007 đạt 1284 tỷ
đồng tăng 15% so với 2006. Kết quả huy động vốn ở PGD Nguyễn Phong Sắc
cũng tăng qua các năm: năm 2005 là 53630 triệu đồng, năm 2006 là 63929 triệu
đồng và năm 2007 là 80445 triệu đồng tăng 25, 83% so với năm 2006.
Với những kết quả trên, ta có thể thấy Phòng Giao dịch cũng như Chi nhánh
đã rất nỗ lực trong công tác huy động vốn mặc dù phòng giao dịch, chi nhánh đã
gặp rất nhiều khó khăn trong công tác này như: Trong các năm qua, nhiều ngân
hàng đặc biệt làm các NHTMCP liên tục tăng lãi suất huy động, kết hợp với các
chương trình khuyến mãi quà tặng hấp dẫn, quỹ tiết kiệm của các NHTM khác
cùng hoạt động trên địa bàn quận Cầu Giấy gây áp lực cạnh tranh gay gắt; đặc biệt
là công tác huy động vốn gặp nhiều biến động về lãi suất...Nhưng do chi nhánh đã
chủ động triển khai nhiều biện pháp phù hợp với tình hình từng thời kỳ, tận thu
khai thác từ nhiều luồng, thực hiện tốt chính sách khách hàng, đổi mới phong cách,
lề lối làm việc, mở rộng mạng lưới tiết kiệm.nên tổng nguồn vốn huy động của chi
nhánh cũng như phòng giao dịch tăng liên tục qua các năm. Cụ thể như sau:
- Bảng 1: Kết quả huy động vốn phân theo kỳ hạn
( Đơn vị: triệu VNĐ)
Loại nguồn 2005 2006 2007
Giá trị Tỷ trọng(%) Giá trị Tỷ trọng(%) Giá trị Tỷ trọng(%)
Tổng vốn huy động 53.630 100 63929 100 80445 100
Tiền gửi có kỳ hạn 11.262 21 15.342 24 20.111 25
Tiền gửi có kỳ hạn dưới
12 tháng
16.625 31 13.425 21 19.306 24
Tiền gửi có kỳ hạn trên
12 tháng
25.743 48 35.162 55 41.028 51
- Bảng 2: Kết quả huy động vốn phân theo khách hàng
( Đơn vị: Triệu đồng)
Loại nguồn 2005 2006 2007
Giá trị Tỷ trọng(%) Giá trị Tỷ trọng(%) Giá trị Tỷ trọng(%)
Tổng vốn huy động 53.630 100 63.929 100 80.445 100
Tiền gửi dân cư 19.306 36 24.293 38 35.395 44
Tiền gửi tổ chức kinh tế 34.324 64 39.636 62 45050 56
Tình hình huy động vốn giai đoạn 2005-2007 PGD Nguyễn Phong Sắc.
Qua bảng số liệu về huy động vốn của phòng GD Nguyễn Phong Sắc chi
nhánh Láng Thượng ta có nhận xét:
- Nguồn vốn huy động tại Phòng tăng liên tục qua các năm.
- Về cơ cấu tiền gửi: Nguồn vốn tăng trưởng cao trong đó tăng trưởng tiền
gửi của dân cư, tiền gửi của tổ chức kinh tế và giảm tiền gửi từ TCTD theo đúng
định hướng của NHNo&PTNT Việt Nam. Tiền gửi của dân cư chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nguồn vốn huy động và liên tục tăng qua các năm. Cụ thể: năm 2006
tăng 4987 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 25,8% so với năm 2005, năm 2007
tăng 11.102 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 45,7%. Điều này cho thấy phòng
giao dịch nói riêng và chi nhánh Láng Thượng đã chiếm được lòng tin của khách
hàng, đặc biệt là công tác quản lý tiền gửi của dân cư được chi nhánh thực hiện
thường xuyên nghiêm túc thông qua công tác kiểm tra với nhiều hình thức qua đó
tránh được sai sót, đảm bảo an toàn chính xác nguồn tiền gửi này của phòng GD
liên tục tăng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng đã có sự dịch
chuyển sang tiền gửi của các TCKT có lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng. Điều này là phù hợp với xu thế hiện nay vì việc mở rộng tiền gửi doanh
nghiệp và các TCKT chính là tiền đề để phát triển các dịch vụ thanh toán, mua bán
ngoại tệ, bảo lãnh, cho vay.Với tiêu chí không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ
kết hợp với sự phục vụ nhanh chóng, chính xác và thuận tiện cho khách hàng chi
nhánh và đã thu hút được ngày càng nhiều các khách hàng là doanh nghiệp vì vậy,
lượng tiền gửi này luôn tăng trưởng ổn định.
2.1.3.2 Hoạt động cho vay và đầu tư kinh doanh khác.
Cũng như mọi ngân hàng khác,PGD cũng thực hiện chức năng chính của
mình là đi vay vốn từ nền kinh tế để cho vay. Điều này có ý nghĩa to lớn về mặt xã
hội đó là tái sản xuất xã hội, còn đối với Ngân hàng, hoạt động cho vay có ý nghĩa
sống còn, nó phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Xác định được
tầm quan trọng đó, PGD tiếp tục đầu tư cho khách hàng truyền thống, đồng thời
tích cực thực hiện công tác mở rộng thị phần, chủ động tìm kiếm khách hàng mới,
tiếp cận nhiều dự án khả thi do vậy đã đưa dư nợ cho vay tăng trưởng nhanh đi đôi
với nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro.
Trong bối cảnh môi trường đầu tư hết sức khó khăn như hiện nay, PGD với
định hướng của chi nhánh Láng Thượng,đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp,
chủ động bám sát tình hình của các doanh nghiệp, phân tích kỹ những khó khăn,
thuận lợi, tình hình sản xuất kinh doanh và dự đoán vấn đề có thể nảy sinh để hạn
chế rủi ro đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn giúp họ đầu tư
đúng hướng, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Kết quả là chi nhánh đã
đạt được mức tăng trưởng dư nợ một cách lành mạnh, vững chắc trong những năm
gần đây. Thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4: Tình hình sử dụng vốn giai đoạn 2005-2007
Chỉ tiêu Năm
2005 2006 2007
Số tiền Số tiền Tăng giảm so với năm
trước
Số tiền Tăng giảm so với năm
trước
± ± % ± ±%
I.Doanh số cho
vay
63.579 72.194 +8.615 +13,5 86.311 +14.117 +19,5
1.DSCV ngắn
hạn
52.134 63.530 +11.396 +21,8 79.406 +15.876 +25
2.DSCV dài hạn 11.445 8.664 -2.781 -24,3 6.905 -1.759 -20,3
II.Doanh số thu
nợ.
52.368 66.313 +13.945 +26,6 78.997 +12.684 +19
1.DSTN ngắn
hạn
39.799 54.635 +14.685 +36,8 67.937 13.304 +24.4
2.DSTN dài
hạn.
12.569 11.678 -891 -7,08 11.606 -72 -0.62
III.Tổng dư nợ. 22.314 28.195 +5.881 +26,4 35.509 +7.314 +25,9
( Nguồn : Báo cáo hoạt động tín dụng năm 2005-2007)
Tình hình sử dụng vốn giai đoạn 2005-2007
Nhìn vào bảng số liệu và biể đồ trên ta thấy:
- Về doanh số cho vay: Doanh số cho vay tăng liên tục qua các năm trong đó
cho vay ngắn hạn chiếm phần lớn. Năm 2006, doanh số cho vay đạt 72.194 triệu
đồng, tăng 13.5% so với năm 2005, năm 2007 đạt 86.311 triệu đồng tăng 19,5% so
với năm 2006. Trong đó doanh số vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ lệ lớn, cụ thể năm
2005 chiếm 82% trong tổng doanh số, năm 2006 chiếm 88% tổng doanh số, năm
2007 là 92%. Sở dĩ, Phòng GD đạt doanh số cho vay ngắn hạn cao như vậy là do
Phòng GD nằm khu vực đông dân cư. Hơn nữa tín dụng ngắn hạn có đặc điểm là
vòng quay vốn tín dụng nhanh do đó ngân hàng có thể sử dụng tiền thu về để cho
vay gối tiếp. Doanh số cho vay trung dài hạn chưa ổn định, có năm tăng, có năm
giảm, tuy nhiên ở qui mô phòng giao dịch thì cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ
trọng không lớn.
- Về doanh số thu nợ : Doanh số thu nợ cũng liên tục tăng qua các năm, điều
này cho thấy công tác quản lý vốn của doanh nghiệp tương đối tốt. Năm 2006
doanh số thu nợ tăng 11.396 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 26,6% so với
năm 2005. Năm 2007 tăng 12.684 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 19% so
với năm 2006.
- Về dư nợ cho vay: Với việc thực hiện chuyển đổi căn bản hoạt động cho
vay, mở rộng cho vay trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng, đưa ra các hình thức
cho vay đa dạng, linh hoạt, chủ động tìm đến khách hàng, cùng phân tích phương
án và tìm kiếm các giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh đó dư nợ tín dụng
của ngân hàng đã tăng lên.
Qua phân tích ở trên ta có nhận xét sau:
- Phòng giao dịch cũng như chi nhánh đã khá thành công trong việc mở rộng
doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ hầu như tăng trưởng ổn định qua các
năm.
- Chất lượng của các khoản tín dụng luôn được phòng giao dịch cũng như
chi nhánh quan tâm, chọn lọc khách hàng, tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ tín
dụng đặc biệt là khâu thẩm định cho vay do đó hạn chế nợ quá hạn phát sinh.
2.1.3.3 Công tác kế toán tài chính ở NH.
Trong công tác tài chính, chi nhánh luôn tổ chức việc tính toán, ghi chép,
phản ánh chính xác, đầy đủ và kịp thời mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nhằm đáp
ứng các yêu cầu kinh doanh của ngân hàng và phục vụ khách hàng một cách tốt
nhất.Đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh và chế độ qui định, luôn kết hợp chặt
chẽ với các nghiệp vụ thu nợ, thu lãi, kịp thời chính xác, đảm bảo có lãi cho Ngân
hàng.
Bảng 5: Thu nhập và chi phí của Ngân hàng giai đoạn 2005-2007
( Đơn vị: Triệu đồng)
Chỉ tiêu Năm
2005 2006 2007
Tổng thu nhập 4.086 5689 6845
Tổng chi phí 3.832 4533 5319
Lợi nhuận 803 1156 1526
Nhìn vào kết quả ta thấy: Thu nhập của Ngân hàng tăng qua các năm và đạt
được cũng khá cao. Lợi nhuận của các năm cũng tăng lên cụ thể: Năm 2006, lợi
nhuận của PGD tăng 353 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 44%. Năm 2007,
lợi nhuận PGD tăng 370 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 32%.
Năm 2007, tốc độ tăng của thu nhập đạt 20,32%, tốc độ tăng của chi phí là
17,3%. Ta thấy tốc độ tăng của thu nhập lớn hơn tốc độ tăng của chi phí 3,02% và
lợi nhuận của PGD đã tăng lên 32%. Đây là một dấu hiệu tốt về hoạt động kinh
doanh của PGD.
2.1.4 Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.
Hà Nội, với vị trí là thủ đô, trung tâm kinh tế hàng đầu của Miền Bắc là nơi
tập trung số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đứng thứ hai trong cả nước sau thành
phố Hồ Chí Minh. Theo số liệu của chi cục thống kê Hà Nội, về mặt số lượng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số tổng số doanh nghiệp của thủ đô: Số doanh
nghiệp dưới 300 lao động chiếm 96% còn số doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng
chiếm 85%. Phần lớn các DNVVN nằm trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại ( 50%), công nghiệp nhẹ ( 22%) tiếp
theo là các ngành xây dựng, kinh doanh khách sạn, nhà hàng.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu làm nhiệm vụ hỗ trợ và vệ tinh cho các
doanh nghiệp lớn trong việc sản xuất các chi tiết phụ kiện các công đoạn, hoặc tổ
chức thu mua, gom nguyên phụ liệu và là đại lý phân phối bán hàng. Hiệu quả
bước đầu của các DNVVN là tạo nhiều việc làm, tăng tính năng động và đa dạng
của nền kinh tế, thu hút vốn từ nhiều kênh thúc đẩy tài chính trực tiếp phát triển,
đồng thời sử dụng có hiệu quả các tiềm năng của thành phố. Tuy vậy, tỷ lệ đóng
góp của doanh nghiệp này và GDP của thành phố còn nhỏ, đặc biệt trong lĩnh vực
xuất khẩu. Cũng giống như doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới, tài chính là vấn
đề yếu nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội.
Lợi nhuận để lại ít ỏi, không đủ điều kiện phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên
thị trường chứng khoán. Nguồn vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn đI vay,
nhưng việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Về phía các ngân hàng thương mại, họ cũng rất muốn tài trợ cho những
doanh nghiệp này, tuy nhiên có rất nhiều khiến việc cho vay không thể thực hiện
được vì quá rủi ro. Các ngân hàng thương mại kêu gọi chính phủ có những biện
phát hỗ trợ tích cực cho nhóm DNVVN. Đến nay Hà Nội có khu cụm công nghiệp
vừa và nhỏ được thiết lập và thành phố có chủ trương lựa chọn các doanh nghiệp
tiêu biểu đầu tư vào khu công nghiệp, hỗ trợ những doanh nghiệp này về môi
trường đầu tư, đất đai, từ đó phát triển thành cac doanh nghiệp đầu tầu thúc đẩy sự
phát triển của các doanh nghiệp khác.Tuy nhiên mấu chốt vẫn là vấn đề cung ứng
vốn cho các DNVVN.
2.2 Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với DNVVN tại phòng GD Nguyễn
phong sắc chi nhánh láng thượng.
2.2.1 Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với DNVVN.
Hiện nước ta có khoảng 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ và khoảng 3,7
triệu hộ kinh doanh cá thể. Những đơn vị kinh doanh này đã góp phần giải quyết
hơn 60% lao động phi nông nghiệp trong cả nước. Mỗi năm lại có khoảng 30.000 -
40.000 doanh nghiệp đăng ký và 100.000 - 200.000 hộ kinh doanh cá thể ra đời.
Khu vực doanh nghiệp này đang đóng góp khoảng 40% trong GDP hàng năm và là
nhân tố quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp - nông
thôn.
Tuy nhiên để phát triển tiềm năng của mình, ngoài sự chủ động, linh hoạt,
các DNVVN rất cần sự hỗ trợ nhiều mặt về cơ chế, chính sách, trong đó sự hỗ trợ
về vốn tín dụng ngân hàng là một trong những giải pháp có tầm quan trọng hàng
đầu.
Trong xu hướng phát triển chung của xã hội, hoạt động cho vay DNVVN
theo ngành kinh tế của hệ thống NHNo&PTNT đã thay đổi theo hướng đa dạng các
ngành nghề. Các chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng
của khách hàng DNVVN đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh
của NHNo&PTNT nói riêng, đã tập trung tiếp cận, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ
cho các DNVVN ngày một nhiều hơn.
Theo báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của PGD Nguyễn Phong Sắc, thì số
DNVVN có quan hệ tín dụng với PGD tăng lên qua từng năm. Hiện tại PGD đang
có quan hệ tín dụng với 20 DN có qui mô vừa và nhỏ tăng 37.5% so với năm 2006
là 14 DNVVN.
Hiện nay, mọi sản phẩm dịch vụ của PGD Nguyễn Phong Sắc cũng như Chi
nhánh Láng Thượng đều được cung cấp tới các DNVVN bình đẳng như mọi đối
tượng khách hàng khác. Trên thực tế, chính sách cho vay đã có những thay đổi căn
bản: đối tượng đầu tư, nguyên tắc, điều kiện vay vốn thể hiện sự bình đẳng giữa
các đối tượng khách hàng. Bám sát định hướng của Đảng, Chính Phủ về phát triển
DNVVN trong thời gian qua, hoạt động cho vay DNVVN theo ngành kinh tế của
PGD Nguyễn Phong Sắc đã có những thay đổi theo hướng đầu tư đa dạng hóa
ngành nghề.