Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.73 KB, 12 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>PGS.TS Vũ Công Giao - ThS. Nguyễn Minh Tâm </b></i>
<i><b>(Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) </b></i>
<b>1. Khái lược về chủ nghĩa hiến pháp1</b>
<i><b>1.1. Khái niệm </b></i>
<i>Chủ nghĩa hiến pháp (constitutionalism, còn được gọi là “chủ nghĩa hợp hiến”, “chủ </i>
nghĩa lập hiến”), là một thuật ngữ rất phổ biến trong luật học và chính trị học trên thế giới,
đặc biệt là ở các nước phương Tây. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một định nghĩa chung thống
nhất, vì thế khái niệm này thường được hiểu và diễn đạt theo những góc độ và mức độ rộng
hẹp khác nhau.
<i>Theo Từ điển Merriam-Webster, danh từ constitutionalism được sử dụng lần đầu tiên </i>
vào năm 1832.2<sub> Còn trong học thuật, nghiên cứu có tính ảnh hưởng đầu tiên về chủ nghĩa </sub>
<i>hiến pháp có lẽ là của Charles H. McIlwain, với tác phẩm Constitutionalism: Ancient and </i>
<i>Modern (1947 [1940]), trong đó, tác giả cho rằng: “Chủ nghĩa hiến pháp có một thuộc tính </i>
bản chất: nó là những giới hạn pháp lý đối với chính quyền; là phản đề của sự cai trị tùy tiện;
nó đối ngược với chính quyền chuyên chế, chính quyền của ý muốn thay vì [chính quyền]
theo luật pháp”. Ơng cũng cho rằng, theo thời gian cùng những sự thay đổi về chính trị, “yếu
tố cổ xưa, ổn định, và bền vững nhất của chủ nghĩa hiến pháp vẫn giữ được như nó hình
thành từ lúc đầu, đó là sự giới hạn chính quyền bằng luật pháp”.3<sub> Chính quyền hợp hiến, theo </sub>
ông, dù ở bất cứ dạng thức nào thì quyền lực tối cao phải được định rõ bằng luật pháp. Ở
<i>Ngày nay, chủ nghĩa hiến pháp có thể được hiểu theo hai phương diện chính: Thứ </i>
<i>nhất, theo nghĩa tư tưởng, để chỉ các quan niệm về một chính quyền bị giới hạn quyền lực </i>
(quan điểm của David Fellman, 5<sub> Wil Waluchow, </sub>6<sub> hay Don Fehrenbacher);</sub>7<i><sub> Thứ hai, theo </sub></i>
<i>nghĩa thực tế, để chỉ các sắp đặt thể chế nhằm đảm bảo sự giới hạn quyền lực của chính </i>
quyền (quan điểm của Andrew Heywood, 8<sub> Takashi Shogimen</sub>9<sub>). Ngoài ra, chủ nghĩa hiến </sub>
1<sub> Một số nội dung của phần này cũng được thể hiện trong bài viết “Một số vấn đề lý luận về chủ nghĩa hiến pháp” </sub>
của hai tác giả gửi tới Tạp chí Luật học (Khoa Luật ĐHQG Hà Nội) năm 2018.
2<sub> Xem: [truy cập: 08/10/2017]. </sub>
3<sub> Xem: Charles Howard McIlwain (1947 [1940]), Constitutionalism: Ancient and Modern, Cornell University Press, </sub>
New York, tr.21-22.
4<sub> Xem: Charles Howard McIlwain (1939), Constitutionalism and the Changing World, Cambridge University Press, </sub>
Cambridge, tr.244.
5<sub> David Fellman (1974), “Constitutionalism”, trong: Philip P. Wiener (edited), Dictionary of the History of Ideas, </sub>
Volume I, tr.485, 491-492, bản điện tử có tại:
lbp31715, [truy cập: 10/10/2017].
6<sub> Wil Waluchow, trong đề mục Constitutionalism (2012) trên Standford Encyclopedia of Philoshophy. Xem: </sub>
[truy cập: 11/10/2017].
7<sub> Dẫn theo George Athan Billias (2009), American Constitutionalism Heard Round the World, 1776-1989, New </sub>
York University Press, New York and London, tr.7.
8<sub> Xem: Andrew Heywood (2000), Key Concepts in Politics, Macmillan Press Ltd., London, tr.124. </sub>
9<sub> Xem: Takashi Shogimen (2005), “Constitutionalism”, trong: Maryanne Cline Horowitz (edited), New Dictionary of </sub>
<i>pháp còn có thể được hiểu mang ý nghĩa mơ tả và quy định (quan điểm của Gerhard Casper), </i>
10<i><sub> hay đơn thuần chỉ là sự hàm ý tới một thực tiễn của đời sống chính trị (quan điểm của </sub></i>
Howard Jay Graham).11
Nhìn chung, có thể thấy thuật ngữ chủ nghĩa hiến pháp thường được dùng như một
“biểu tượng” mà khó diễn đạt được chi tiết nội dung. Dù vậy, từ bất cứ phương diện nào,
<i>hàm ý căn bản của chủ nghĩa hiến pháp là: quyền lực của chính quyền phải bị giới hạn và </i>
<i>kiểm sốt bởi luật pháp, mà đầu tiên là Hiến pháp hoặc luật cơ bản, trong đó xác lập nên </i>
<i>các giới hạn và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo nghĩa này, chủ nghĩa hiến pháp </i>
<i>rất gần với pháp quyền (rule of law) và các lý thuyết về kiểm sốt quyền lực nhà nước khác. </i>
Có quan điểm thậm chí cho rằng chủ nghĩa hiến pháp là một cấu phần của pháp quyền. Trên
thực tế, các xã hội hướng tới pháp quyền cũng đồng thời thường hướng tới thực hành chủ
nghĩa hiến pháp, như việc thiết lập một chính quyền hợp hiến và các cơ chế kiểm sốt quyền
lực một cách lí tính. Ngồi ra, các thành tố của chủ nghĩa hiến pháp và pháp quyền gần như
là giống nhau, song chúng vẫn có những điểm khác biệt nhất định.
<i><b>1.2. Lịch sử hình thành, phát triển </b></i>
Bản tính của con người là đam mê quyền lực, và xu hướng của quyền lực là sự tha
hóa – điều đã được nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng phân tích và khẳng định. Thomas Hobbes,
<i>triết gia người Anh, trong tác phẩm Leviathan (Thủy quái, 1651), nhận định: “… trong xu </i>
hướng chung của lồi người [có] một sự thèm khát bất diệt và không nguôi hết quyền lực này
đến quyền lực khác, mà nó chỉ chấm dứt cùng cái chết”.12<sub> Còn Lord Acton, sử gia người </sub>
Anh, trong lá thư gửi tới Mandell Creighton (1887), cảnh báo nhân loại rằng: “Quyền lực có
xu hướng đồi bại và quyền lực tuyệt đối [dẫn đến] đồi bại tuyệt đối”.13
Chính xuất phát từ cái nhìn “bi quan” về bản tính con người và xu hướng tha hố của
quyền lực đã dẫn đến hình thành tư tưởng về việc giới hạn quyền lực. Montesquieu, triết gia
<i>người Pháp, trong tác phẩm The Spirit of Laws (Tinh thần pháp luật, 1748) giải thích: “Kinh </i>
nghiệm thường xuyên cho chúng ta thấy rằng, ai được trao quyền cũng có xu hướng lạm
quyền… Để ngăn ngừa sự lạm quyền, quyền lực cần phải bị ngăn chặn bằng quyền lực”.14
Theo hướng này, hơn 800 năm trước có một văn kiện lần đầu tiên xác lập sự giới hạn
thành văn đối với quyền lực của nhà vua, được thông qua ở nước Anh, có tên là Magna Carta
(Đại Hiến chương Anh). Magna Carta là kết quả của cuộc tranh giành quyền lực giữa Hoàng
gia và giới quý tộc Anh (từ năm 1154 đến 1215), 15<sub> trong đó liệt kê một danh mục có giới hạn </sub>
các đặc ân và quyền của giới quý tộc, đồng thời tuyên bố bảo vệ quyền tự chủ của nhà thờ và
Nghị viện được thành lập ở Anh vào năm 1265, với thành viên ban đầu là các quý tộc
phong kiến được bầu (sau đó dần được mở rộng). Tranh giành quyền lực giữa vua và Nghị
viện đã dẫn đến nhiều cuộc cách mạng đẫm máu, và chỉ kết thúc vào năm 1689 với việc
<i>Hoàng gia chấp nhận Bộ luật về quyền (Bill of Rights) do Nghị viện soạn thảo, trong đó </i>
khẳng định quyền tối cao của Nghị viện và xác lập một số nguyên tắc lập hiến chính. Từ thời
10<sub> Xem: Gerhard Casper (1986), “Constitutionalism”, trong: Leonard W. Levy and Kenneth L. Karst (edited), </sub>
Encyclopedia of the American Constitution, 2nd<sub> edition, Macmillan Reference USA, New York, tr.633-634. </sub>
11<sub> Dẫn theo David Fellman (1974), tài liệu đã dẫn, tr.485. </sub>
12<sub> Xem: Thomas Hobbes (1651), Leviathan, (A.D. Lindsay giới thiệu, 1953), J.M. Dent & Son Ltd, London, tr.49. </sub>
13<sub> Xem: John Emerich Edward Dalberg-Acton (1887), “Letter to Mandell Creighton”, trong: Essays on Freedom and </sub>
Power, (Gertrude Himmelfarb tuyển chọn và giới thiệu, 1949), the Bacon Press, Boston, tr.364.
14<sub> Xem: Charles S. Montesquieu (1748), The Spirit of Laws, Vol.I, (Thomas Nugent dịch từ tiếng Pháp, 1823), T.C. </sub>
Hansard Printer, London, tr.151.
15<sub> Xem: Fareed Zakaria (2007), The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and Abroad, W.W.Norton & </sub>
điểm đó, nền quân chủ chuyên chế ở Anh trong thực tế đã chấm dứt, quyền lực được chuyển
giao sang Nghị viện. Nghị viện đã tiếp tục q trình tập trung hóa chính trị, mở rộng quy mô
cùng khả năng và năng lực của bộ máy nhà nước. Cùng đó, tính đa nguyên của hệ thống
chính trị là nhân tố quyết định ngăn chặn các nỗ lực giành độc quyền và lạm dụng quyền lực
trong Quốc hội.16<sub> Chính thực tiễn đời sống chính trị sơi động đã hình thành nên truyền thống </sub>
common law và biến nước Anh trở thành cái nôi của chủ nghĩa hiến pháp hiện đại.
Về mặt lý luận, chủ nghĩa hiến pháp có nền tảng là chủ nghĩa tự do cổ điển, được gắn
<i>liền với tư tưởng chính trị của John Locke trong tác phẩm Two Treatises of Government (Hai </i>
khảo luận về chính quyền, 1689). Theo Locke, trong trạng thái tự nhiên có một “luật tự
nhiên” (luật đạo đức) cai trị, và tất cả mọi người đều “bình đẳng và độc lập, không ai được
làm tổn hại tới sinh mạng, sức khỏe, tự do hoặc tài sản của người khác”. Ông cho rằng, chính
quyền được thiết lập dựa trên “khế ước” (sự đồng thuận) của con người để khắc phục những
bất hợp lý của luật tự nhiên. Mục đích chính (giới hạn) của nó là bảo vệ tài sản của người
dân, tức cuộc sống, tự do và sở hữu của họ; và nó phải bị hủy bỏ hoặc thay thế khi không
thực hiện được sự ủy nhiệm này (bỏ mặc hoặc chống lại). Cùng với đó, trong tổ chức quyền
lực nhà nước, theo Locke, cần phải có sự phân lập và kiểm soát giữa quyền lập pháp và
quyền hành pháp.17
Như vậy, Locke đã làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cá nhân và chính quyền mà được
chấp nhận như là nguyên tắc ở các nền dân chủ hiện đại – thừa nhận các quyền tự nhiên
thuộc về cá nhân, và trách nhiệm đạo đức của chính quyền là bảo vệ các quyền đó. Tư tưởng
của Locke đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Hoa Kỳ, được viện dẫn để biện minh cho cách mạng,
và các nhà lập quốc đã vận dụng, kết hợp với lý thuyết phân quyền của Montesquieu để thiết
lập nên chính quyền hợp hiến Hoa Kỳ với một số đặc trưng như: cơ chế kiềm chế và đối
trọng, tư pháp độc lập, các quyền con người, trình tự pháp luật cơng bằng... Mơ hình chính
quyền hợp hiến Hoa Kỳ đã là nguồn cảm hứng cho việc xây dựng Hiến pháp và thực hành
chủ nghĩa hiến pháp ở nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Cùng với lý thuyết của Locke, lý thuyết phân quyền của Montesquieu là một trong
những lý thuyết chính trị, pháp luật quan trọng khác mà đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong tư
<i>duy và tổ chức xã hội ở châu Âu thế kỷ XV-XVIII. Trong tác phẩm The Spirit of Laws (Tinh </i>
thần pháp luật, 1748), Montesquieu nhận thấy người được trao quyền thường có xu hướng
lạm dụng để thu lợi ích riêng, do đó, để hạn chế điều này, quyền lực phải bị ngăn chặn bằng
quyền lực. Cụ thể, quyền lực nhà nước cần được phân chia để chúng kiểm soát lẫn nhau và
quyền đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm và cách thức tổ chức bộ máy nhà nước hiện
đại, trở thành một nguyên tắc cơ bản về tổ thức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp ở hầu
hết các quốc gia.
Tiếp theo là lý thuyết khế ước xã hội của Rousseau – phần còn lại trong bộ đôi lý
thuyết nền tảng dẫn tới sự thay đổi tổ chức xã hội ở Pháp và các nước Tây Âu láng giềng
<i>trong thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm The Social Contract (Khế ước xã hội, 1762), Rousseau </i>
lập luận, “con người sinh ra tự do, nhưng ở đâu họ cũng bị xiềng xích” bởi sự tha hóa của xã
hội (xã hội càng hiện đại càng tha hóa). Từ đó, ơng đưa ra lời giải, đó chính là sự tham gia
của con người vào một “khế ước xã hội” bình đẳng. Rồi từ khế ước hình thành nên một “chủ
16<sub> Xem: Daron Acemoglu, James A. Robison (2012), Why Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity, and </sub>
Poverty, Crown Publishers, New York. (bản điện tử ebook).
17<sub> Xem: John Locke (1821), Two Treatises of Government. Book II. Of Civil Government, London. (trong các đoạn </sub>
§ 6, 7, 16, 89, 90, 97-99, 106, 149, 220; và các đoạn § 143, 144, 148, 151, 152, 153, 156).
quyền tối cao”, luôn thuộc về những người liên kết, không thể chuyển nhượng, không thể
phân chia. Chính quyền là cơ cấu trung gian giữa người dân và chủ quyền tối cao, được tạo
<i>ra để thi hành ý chí chung (quyền lập pháp); quyền lực của chính quyền do chủ quyền tối cao </i>
ủy nhiệm; và có thể bị giới hạn, thay đổi hoặc thu hồi tùy theo ý muốn của chủ quyền tối
cao.19 Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận chủ quyền nhân dân là một trong những
nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp mà dựa vào đó thiết lập nên chính quyền.
Sang thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến sự tôn xưng mạnh mẽ các giá trị về quyền con
Dù được ghi nhận thành các nguyên tắc hiến định, chủ nghĩa hiến pháp cũng sẽ không
thể thành hiện thực nếu thiếu đi vai trò của các “tục lệ” (tức “tinh thần” của chủ nghĩa hiến
<i>pháp). Rousseau, trong cuốn Khế ước xã hội từng viết, Hiến pháp thật sự [và quan trọng] của </i>
quốc gia lại chính là “các nguyên tắc đạo đức, tục lệ và nhất là cơng luận”.20<sub> Cịn trong thực </sub>
tế, tinh thần của chủ nghĩa hiến pháp được thể hiện rất rõ trong truyền thống common law,
mà ở đó các ngun tắc hoạt động của chính quyền được gìn giữ và bảo vệ bởi thẩm quyền
và tính độc lập của tịa án. Quốc hội Anh về lý thuyết có quyền lực tối cao tuyệt đối, nhưng
trên thực tế luôn hoạt động trong giới hạn của một tập hợp tiêu chuẩn đạo đức mà Quốc hội
không bao giờ tìm cách vi phạm.21
Như vậy, khởi đầu với những tư tưởng về giới hạn quyền lực của nhà nước, lý thuyết
chủ nghĩa hiến pháp dần hình thành và phát triển theo thời gian, xoay quanh nội dung căn
bản là: quyền lực hợp pháp của chính quyền có nguồn gốc từ nhân dân (những người bị cai
trị), được nhân dân trao cho, có giới hạn và phải bị kiểm soát. Lý thuyết về chủ nghĩa hiến
pháp được thể hiện rải rác trong tư tưởng về nhà nước và pháp luật của nhiều học giả khác
nhau. Tuy nhiên, dù được biểu hiện dưới bất cứ hình thức nào (luật pháp, chính trị, lịch sử,
văn hóa, …), thì nội dung căn bản đã nêu vẫn khơng thay đổi. Ngày nay, giống như dân chủ
hay pháp quyền, chủ nghĩa hiến pháp là mục tiêu hướng tới của các xã hội, là những tiêu chí
đánh giá tính chính đáng của chính quyền và khả năng ổn định, phát triển của các xã hội.
<i><b>1.3. Các yếu tố cấu thành </b></i>
Để làm rõ hơn nội hàm của chủ nghĩa hiến pháp, cần đi sâu tìm hiểu các hình thức
thể hiện và mối quan hệ của nó với các phạm trù chính trị – pháp lý khác. Graham Walker
cho rằng, chủ nghĩa hiến pháp đòi hỏi phải có một loại hiến pháp có tính chất “tự giới hạn”
(đến từ các tục lệ, thực tiễn, nguyên tắc và quan niệm chính trị của cộng đồng), mà lược đồ
tự giới hạn phải được nói rõ ràng một cách có chủ ý, [trở nên] khách quan đối với chính
quyền. Chủ nghĩa hiến pháp giới hạn quyền lực chính quyền theo hai cách quan trọng đó
<i>là: giới hạn về cấu trúc - được hiểu như là những sắp đặt thể chế (lưỡng viện, phân quyền, </i>
<i>tư pháp độc lập, …), và giới hạn về quy phạm ước vọng - được hiểu là các giá trị có tính </i>
19<sub> Xem: Jean J. Rousseau (1940), The Social Contract and Discources by Jean Jacques Rousseau, translated with </sub>
Introduction by G. D. H. Cole, J. M. Dent & Sons Ltd, London. (Chương I, VI, VIII Quyển I; Chương XII
Quyển II; Chương I Quyển III), tr.5, 15, 19, 48-50.
20<sub> Xem: Jean J. Rousseau (1940), tài liệu đã dẫn, (Chương XII Quyển II), tr.48. </sub>
quy chuẩn mà chính quyền phải tơn trọng và hướng tới (tự do, bình đẳng, cơng lý, …).22
Giới hạn quy phạm (mục đích) là tiền đề của giới hạn cấu trúc (phương tiện). Chẳng hạn,
tôn trọng nhân quyền dẫn đến việc thiết lập các giới hạn cấu trúc để kiểm soát nguy cơ lạm
quyền, xâm phạm đến các quyền tự do. Nói cách khác, các giới hạn cấu trúc được xây dựng
để bảo đảm các giới hạn quy phạm. Ở đây, hiến pháp đóng vai trị như là một phương tiện
biểu đạt nội hàm của chủ nghĩa hiến pháp, trong đó thể hiện tư tưởng về một chính quyền
bị giới hạn quyền lực (các giới hạn ước vọng mà cộng đồng hướng tới), và những sắp đặt
thể chế để đảm bảo điều đó (các thực tiễn chính trị và pháp lý). Tuy nhiên, chủ nghĩa hiến
pháp cũng đòi hỏi hiến pháp phải khách quan, đến từ bên ngồi chính quyền, bằng cách
gắn hiến pháp với truyền thống văn hóa chính trị chung của cộng đồng, hoặc xây dựng một
bản hiến pháp dựa trên thẩm quyền lập hiến của nhân dân. Một số yếu tố cấu thành (hay
<i><b>Chủ quyền nhân dân </b></i>
Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa hiến pháp là về mối quan hệ giữa quyền lực nhân dân
và quyền lực nhà nước, trong đó, quyền lực nhà nước là phái sinh từ quyền lực nhân dân,
phải chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân. Nói cách khác, [quyền lực] nhân dân là
nguồn gốc của mọi quyền lực, có trước quyền lực nhà nước, có tính khách quan, độc lập với
chính quyền. Do đó, chủ nghĩa hiến pháp đòi hỏi Hiến pháp – bản khế ước thiết lập nên
chính quyền, cũng phải đến từ bên ngồi bộ máy nhà nước và khách quan với chính quyền.
Để đạt được điều trên, quyền lập hiến của nhân dân phải được thực hiện thông qua một
Hội đồng lập hiến (hay một Quốc hội lập hiến); hoặc được Quốc hội lập pháp thông qua theo
một thủ tục đặc biệt, khác với lập pháp thông thường, và thường phải có trưng cầu ý dân. Quy
<i>trình sửa đổi (tu chỉnh) Hiến pháp cũng phải theo các thủ tục đặc biệt, đảm bảo được “sự uyển </i>
chuyển” của Hiến pháp; và không quyền lực nào có thể đình chỉ, sửa đổi hoặc hủy bỏ một
phần hay toàn bộ Hiến pháp theo ý muốn riêng. Trong trường hợp khơng có hiến pháp thành
văn, những ngun tắc vận hành của chính quyền sẽ được hình thành và gắn liền với truyền
thống (các tục lệ chính trị), trong đó tinh thần thượng tơn pháp luật được tơn trọng, giữ gìn và
bảo vệ bởi tịa án tư pháp độc lập với một hệ thống án lệ chặt chẽ và vững chắc.
<i><b>Phân quyền </b></i>
Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng phân quyền đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ thời cổ
đại. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Khai sáng nó mới được phát triển thành một lý thuyết hoàn
chỉnh bởi John Locke và Montesqiueu. Mục đích chính của lý thuyết phân quyền là ngăn ngừa
sự tập trung quyền lực mà theo quy luật sẽ dẫn đến chuyên chế hay lạm quyền, gây tổn hại tới
lợi ích chung. Phương cách mà lý thuyết đưa ra là trao quyền lực cho các thiết chế nhà nước
khác nhau theo chức năng, và các thiết chế này sẽ kiểm soát và tự kiểm soát lẫn nhau. Ngày
nay, hiến pháp của hầu hết các quốc gia đều thừa nhận ở mức độ nào đó nguyên tắc phân
Trên thế giới, mơ hình chính quyền Hoa Kỳ được xây dựng sát với lý thuyết phân
<i>quyền của Montesquieu nhất, và còn được phát triển thêm thành lý thuyết về kiềm chế và đối </i>
<i>trọng (checks and balances) để kiểm soát quyền lực. Bản chất của nó là tạo ra một cơ chế </i>
22<sub> Xem: Graham Walker (1997), “The Idea of Nonliberal Constitutionalism”, trong: Ian Shapiro, Will Kymlicka </sub>
kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong, ngăn ngừa khả năng lạm quyền trước khi nó có
thể xảy ra. Cơ chế kiểm sốt bên trong được coi là có hiệu quả hơn so với kiểm soát quyền
lực nhà nước từ bên ngoài (bầu cử, nhân quyền), giống như phịng bệnh thì tốt hơn chữa
bệnh. Tuy vậy, cơ chế này cũng tồn tại những mặt trái của nó, ví dụ như có thể dẫn tới việc
chính quyền bị tê liệt và phải đóng cửa một phần như đã từng diễn ra ở Hoa Kỳ.
<i><b>Các quyền cơ bản của con người </b></i>
Tư tưởng về quyền con người đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng với ý nghĩa là một
phương tiện để giới hạn quyền lực chính quyền thì mới chỉ thực sự được thể hiện trong
Magna Carta (1215). Đến thời kỳ Khai sáng và cách mạng tư sản ở châu Âu, với sự ra đời
của các học thuyết, tư tưởng chính trị, pháp lý tiến bộ, quyền con người thực sự trở thành
một giới hạn mà chính quyền không được xâm phạm hoặc vượt qua, nếu không nó sẽ mất đi
tính chính đáng và sẽ bị thay thế. Ở đây, quyền lực hợp pháp của chính quyền có nguồn gốc
từ sự ủy thác của người dân, nhằm để bảo vệ phúc lợi của người dân, bởi vậy, khi chính
quyền xâm phạm tới các quyền con người tức là đã bỏ mặc hoặc chống lại mục đích đã được
xác định cho nó, do đó nó [chính quyền] sẽ phải bị hủy bỏ hoặc thay thế.
Chủ nghĩa hiến pháp với mục tiêu giới hạn quyền lực chính quyền, suy cho cùng là để
bảo vệ các quyền con người. Chủ nghĩa hiến pháp đòi hỏi Hiến pháp – phương tiện biểu đạt
chủ yếu của nó, khơng những cần phải quy định các quyền con người, mà còn phải thiết lập
những cơ chế để bảo đảm thực hiện các quyền đó một cách hiệu quả trên thực tế (cơ quan
bảo hiến, tư pháp độc lập…).
<i><b>Cơ chế bảo vệ hiến pháp hay giám sát tư pháp </b></i>
<i>Bảo hiến (hay giám sát tư pháp – constitutional review/ judicial review), theo cách </i>
hiểu phổ biến là thẩm quyền của tòa án xem xét hành vi của các nhánh quyền lực nhà nước
khác hoặc các cấp chính quyền, đặc biệt là thẩm quyền tuyên bố hành vi của lập pháp và
hành pháp là khơng có hiệu lực bởi vi hiến. Cơ chế bảo hiến được thiết lập vững chắc ở Hoa
<i>Kỳ kể từ năm 1803 (vụ án Marbury kiện Madison), và ở châu Âu đầu thế kỷ XX với Tòa án </i>
hiến pháp chuyên trách đầu tiên của nước Áo năm 1920.
Thực tiễn cho thấy cơ chế bảo hiến có tính tài phán là cơng cụ kiểm sốt quyền lực
nhà nước hữu hiệu, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và các
nguyên tắc của hiến pháp. Nói cách khác, cơ chế bảo hiến chính là cơ chế để hiện thực hóa
các nội dung (thành tố) của chủ nghĩa hiến pháp. Theo nghĩa đó, cơ chế bảo hiến cũng là một
yêu cầu hoặc một yếu tố cấu thành của chủ nghĩa hiến pháp.
Tóm lại, chủ nghĩa hiến pháp là tư tưởng, lý thuyết về mối quan hệ giữa quyền lực
nhân dân và quyền lực nhà nước, theo đó, quyền lực nhân dân là nguyên thuỷ, vĩnh viễn,
khơng giới hạn, cịn quyền lực nhà nước là phái sinh, được nhân dân trao cho, có giới hạn và
phải chịu sự kiểm sốt. Hình thức biểu đạt chính yếu của chủ nghĩa hiến pháp là bản văn hiến
pháp hoặc các tập quán hiến pháp đã ăn sâu vào truyền thống chính trị (Hiến pháp bất thành
văn). Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa hiến pháp là kiểm soát quyền lực nhà nước và bảo
vệ các quyền con người. Các thành tố (hay yêu cầu) chính của chủ nghĩa hiến pháp là chính
quyền hợp hiến, phân quyền, tư pháp độc lập và bảo hiến.
<b>2. Sự thể hiện của chủ nghĩa hiến pháp trong Hiến pháp 2013 </b>
<i>Thomas Hobbes trong tác phẩm “Thủy quái” (Leviathan) nổi tiếng của ông, đã nhận </i>
định rằng, nếu khơng có nhà nước thì cuộc đời con người [trong trạng thái tự nhiên] sẽ “cơ
độc, nghèo đói, bẩn thỉu, tàn bạo, và ngắn ngủi”23<sub>; tuy nhiên, là sản phẩm của con người nên </sub>
các nhà nước, dù thuộc kiểu nhà nước nào hay theo thể chế chính trị nào, ln có xu hướng
lạm quyền, xâm phạm đến quyền lợi của cá nhân. Như vậy, để tồn tại và phát triển, con
người rất cần có nhà nước, nhưng đồng thời, con người cũng cần phải nghĩ cách để giới hạn,
kiềm chế, khắc phục những cố tật của nhà nước. Nhà nước, với độc quyền sử dụng quyền lực
cưỡng chế, có thể sẽ chỉ vì lợi ích và dục vọng của những người điều hành nó mà đi ngược
lại hoặc bỏ mặc mục đích chính của nó là bảo vệ phúc lợi của người dân. Các triết gia ngay
từ thời cổ đại đã ln đi kiếm tìm câu trả lời về một “nhà nước lý tưởng” – nơi mà quyền lực
nhà nước được sử dụng một cách hợp lý, với mục đích bảo đảm phúc lợi cho các thành viên
của cộng đồng. Theo tiến trình phát triển lịch sử, dường như nhân loại đã tìm được lời giải
cho vấn đề trên, đó chính là chủ nghĩa hiến pháp.
Thực tiễn trên thế giới cho thấy tư tưởng về chủ nghĩa hiến pháp đã đóng vai trị quan
trọng trong việc xây dựng và vận hành các nền dân chủ, mang lại sự thịnh vượng cho các quốc
gia phát triển và hùng mạnh trên thế giới. Tuy nhiên, cần thấy rằng, giống như pháp quyền, để
một chính quyền được thiết lập và vận hành dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa hiến
pháp đòi hỏi nhiều thời gian và những yếu tố bảo đảm. Hơn nữa, chính quyền hợp hiến ở giai
đoạn đầu cũng như trong q trình vận hành của nó khơng phải lúc nào cũng hoàn hảo.
Ở phương diện lịch sử, chủ nghĩa hiến pháp xuất phát và gắn liền với truyền thống
chính trị, pháp lý phương Tây, mà cụ thể hơn đó là truyền thống La Mã. Câu hỏi đặt ra là
liệu các nền văn hóa khác, đặc biệt là văn hóa Á Đơng, có thích hợp với các giá trị của chủ
nghĩa hiến pháp hay không? Câu trả lời là có. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… đều là
những quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Khổng giáo, nhưng đã cho thấy họ “tiếp thu”
Trong thực tế ở Việt Nam, mặc dù ít được nhắc đến, song các yếu tố cấu thành của
chủ nghĩa hiến pháp đã thể hiện trong tư tưởng của các nhà lập hiến từ thế kỷ XIX, và trong
tất cả các bản hiến pháp của Việt Nam từ trước tới nay, mặc dù với cách thể hiện và mức độ
ít nhiều khác nhau.
So với các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992, Hiến pháp năm 2013 phản ánh
các yếu tố cấu thành của chủ nghĩa hiến pháp một cách rõ rệt và tiệm cận hơn cả với tư tưởng
phổ biến của nhân loại về phạm trù này. Cụ thể:
<i><b>2.1. Về chủ quyền nhân dân </b></i>
chế nhằm kiểm sốt hoạt động của chính quyền do mình lập ra.24<sub> Đặc biệt, lần đầu tiên trong </sub>
lịch sử lập hiến, tất cả các từ “Nhân dân” trong hiến pháp đều được viết hoa. Điều này là để
khẳng định và đề cao vai trị có tính quyết định của Nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ
nước (Lời nói đầu), và cũng để thể hiện sự tơn trọng và đề cao vai trị của Nhân dân với tư
cách là chủ thể duy nhất của toàn bộ quyền lực nhà nước.25
Ở phương diện tổ chức quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ chủ quyền
nhân dân thông qua quyền ứng cử, bầu cử của công dân để thiết lập nên thiết chế đại diện cao
nhất của quyền lực nhà nước là Quốc hội, 26<sub> thực hiện quyền lập pháp và giám sát hoạt động của </sub>
bộ máy nhà nước. Sau đó, Quốc hội sẽ thành lập nên các thiết chế thực hiện quyền hành pháp và
<i><b>2.2. Các quyền cơ bản của con người </b></i>
Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều sửa đổi quan trọng về định chế quyền con người,
quyền công dân theo hướng phù hợp hơn với pháp luật nhân quyền quốc tế và nhận thức
<i>chung của cộng đồng quốc tế. Thứ nhất, việc đổi tên chương và chuyển lên vị trí thứ 2, và </i>
việc sử dụng hợp lý hơn hai thuật ngữ quyền con người, quyền công dân cho thấy các nhà
lập hiến đã nhận thức rõ về tầm quan trọng của định chế quyền con người, cũng như mối
<i>quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân. Thứ hai, lần đầu tiên hiến pháp xác định </i>
rõ và đầy đủ các nghĩa vụ của nhà nước là “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm” quyền
con người (Điều 3, Điều 14); lần đầu tiên hiến định nguyên tắc giới hạn quyền chỉ theo luật
và trong trường hợp cần thiết (Điều 14). Những điểm này phản ánh sự thay đổi tư duy coi
nhân quyền là những thứ nhà nước “ban phát” cho người dân sang nhận thức về nhân quyền
là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người mà nhà nước có nghĩa vụ ghi nhận, bảo đảm,
<i>và không được xâm phạm [giải thích, hạn chế] một cách tùy tiện. Thứ ba, hiến pháp củng cố, </i>
sửa đổi [nội hàm] của hầu hết các quyền đã được ghi nhận trong bản hiến pháp trước đó, và
ghi nhận thêm một số quyền mới. Những sửa đổi và quy định mới đã tăng cường đáng kể
mức độ tương thích với nội dung của các điều ước nhân quyền quốc tế mà Việt Nam là thành
viên và với định chế quyền con người trong hiến pháp của các nước dân chủ.27<i><sub> Thứ tư, hiến </sub></i>
pháp xác định rõ trách nhiệm bảo vệ nhân quyền của các cơ quan nhà nước (như: Quốc hội,
Chính phủ, …) và bổ sung các cơ chế, thiết chế bảo vệ nhân quyền (định chế bầu cử, [để
ngỏ] cơ chế bảo vệ hiến pháp, tố tụng tranh tụng, …).
Nhìn chung, những sửa đổi về định chế quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
tạo ra cơ sở hiến định cho việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người [hứa hẹn] sẽ
hiệu quả và hiệu lực hơn trong thực tế. Quyền con người trở thành một giới hạn pháp lí đối
với quyền lực nhà nước theo đúng yêu cầu của nhà nước pháp quyền và tinh thần của chủ
24<sub> Xem: Nguyễn Sĩ Dũng (2013), “Hiến pháp mới, hy vọng mới”, tham luận tại tọa đàm Hiến pháp và vấn đề cải </sub>
cách thể chế, do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 23/01/2013.
25<sub> Xem: Phan Trung Lý (2013), “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam – Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và phát </sub>
triển”, bài phát biểu tại Hội nghị giới thiệu nội dung Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28/12/2013.
26<sub> Có quan điểm cho rằng, quyền lực nhà nước gồm ba bộ phận cơ bản là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. </sub>
Quốc hội Việt Nam chỉ thực hiện quyền lập pháp, tức chỉ là một bộ phận của quyền lực nhà nước. Do đó, Quốc
hội chỉ là một cơ quan của quyền lực nhà nước, không thể quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Chẳng hạn, Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc cũng chỉ quy định: “Đại hội Đại biểu nhân dân toàn
quốc nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước” (Điều 57).
27<sub> Xem: Vũ Công Giao (2014), “Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013”, trong: </sub>
<i><b>2.3. Phân quyền </b></i>
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên xác định rõ chức năng thực thi các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp lần lượt do Quốc hội, Chính phủ, Tịa án đảm nhiệm. Trong tổ chức
quyền lực nhà nước, Hiến pháp năm 2013 bổ sung một cụm từ rất quan trọng là “kiểm soát”
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, mặc dù chưa trực tiếp khẳng định, Hiến
pháp năm 2013 đã tiếp tục tiếp thu những yếu tố hợp lí của học thuyết phân quyền như một
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là quan niệm quyền lực nhà nước gồm
Đi vào chi tiết hơn, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 được thiết kế gần với
mơ hình đại nghị. Theo đó, nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan đại diện là Quốc hội, sau đó
Quốc hội sẽ tiến hành [bầu, phê chuẩn] thành lập các cơ quan khác của bộ máy nhà nước
(Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tòa án, …). Là thiết chế do Quốc
hội thành lập, do đó, các cơ quan này phải chịu sự giám sát của Quốc hội (chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội). Hiến pháp năm 2013 cho thấy, mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước trung ương mặc dù vẫn có tính “trên, dưới” (như: Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội), nhưng đã có sự chuyển dịch theo hướng quan hệ chức năng (Quốc hội
thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, và Tòa án thực hiện quyền
tư pháp). Hiến pháp năm 2013 cũng cho thấy sự “phân công, phối hợp và kiểm soát” quyền
lực một cách hợp lý hơn so với bản hiến pháp trước đó, như: chuyển giao một số thẩm quyền
của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ về lại Quốc hội; tăng cường tính độc lập, chủ
động, sáng tạo của Chính phủ; tăng cường tính tự quản của chính quyền địa phương;…
<i><b>2.4. Cơ chế bảo vệ hiến pháp hay giám sát tư pháp </b></i>
Hiến pháp năm 2013 đã [tiếp tục] thiết lập một cơ chế bảo vệ hiến pháp với việc đặt
trách nhiệm bảo vệ hiến pháp lên tồn bộ hệ thống chính trị. Ngay ở Lời nói đầu và trong
nhiều điều khoản, Hiến pháp năm 2013 xác định rõ Nhân dân và tất cả các thiết chế của bộ
máy nhà nước có trách nhiệm bảo vệ hiến pháp, bảo vệ pháp luật, công lý, và quyền con
người (các Điều 70, 74, 88, 98, 102, 107, 119, …). Nếu theo cách phân loại các mơ hình bảo
vệ hiến pháp trên thế giới, thì mơ hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013 được xếp vào mơ
hình bảo hiến nghị viện, với việc trao quyền bảo hiến cho cơ quan lập pháp thông qua chức
năng giám sát tối cao. Cơ sở của mơ hình bảo hiến này xuất phát từ cách thức tổ chức quyền
lực nhà nước dựa theo nguyên tắc tập trung dân chủ, theo đó, nhân dân trực tiếp bầu ra Quốc
hội [tối cao], và sau đó Quốc hội sẽ thành lập các thiết chế khác của bộ máy nhà nước [trung
ương] (giống chế độ đại nghị).
Đi vào chi tiết, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao việc tuân theo hiến pháp và có quyền bãi bỏ văn bản của thiết chế do Quốc hội trực tiếp
bầu mà trái với hiến pháp. Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền giải thích hiến pháp; giám
sát việc thi hành hiến pháp và có quyền đình chỉ việc thi hành văn bản của các thiết chế do
Quốc hội trực tiếp bầu mà trái với hiến pháp; có quyền bãi bỏ văn bản của cơ quan đại diện
cấp tỉnh mà trái với hiến pháp. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng trao cho Chủ tịch
nước quyền phủ quyết treo đối với pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội; trao cho Thủ
tướng quyền đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của cấp trực thuộc trực tiếp mà trái với
hiến pháp. Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 cũng để ngỏ việc xây dựng một cơ chế bảo vệ hiến
pháp theo một đạo luật của Quốc hội (Điều 119).
khơng bảo đảm chính thể đó sẽ thực hành những giá trị của chủ nghĩa hiến pháp. Như một
học giả đã từng nêu lên câu hỏi: Chúng ta cần hiến pháp hay tinh thần của chủ nghĩa hiến
pháp? Chúng ta cần một hệ thống pháp luật đầy đủ hay tinh thần của nền pháp quyền? Câu
trả lời là chúng ta cần cả hai. Nếu thiếu các quy tắc (hiến pháp, pháp luật, đạo đức), chúng ta
sẽ không biết dựa vào tiêu chuẩn nào để hành xử. Còn nếu thiếu tinh thần thực hành (tinh
thần của chủ nghĩa hiến pháp, pháp quyền), chúng ta sẽ khó mà tìm ra được đâu mới là
những lẽ phải, điều đúng nên làm.
<b>3. Những vấn đề đặt ra với việc thi hành Hiến pháp năm 2013 </b>
Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện rất nhiều tư tưởng về chủ nghĩa hiến pháp.
Cùng với bản Hiến pháp năm 1946, đây là hai trong số năm bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ
nhất trong lịch sử lập hiến hơn 70 năm của Việt Nam. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1946 chưa
từng được công bố và thực thi (mặc dù tinh thần của các quy định của hiến pháp ở mức độ
nào đó đã được thực hiện trên thực tế28<sub>), mà nguyên nhân một phần là do hoàn cảnh chiến </sub>
tranh của đất nước, phần khác là Hiến pháp năm 1946 khơng có cơ chế để hiện thực hóa các
nội dung của hiến pháp (chế độ tài phán hiến pháp).29<sub> Do đó, đối với vấn đề thi hành Hiến </sub>
pháp năm 2013 hiện nay, theo quan điểm của các tác giả, cần nghiên cứu xây dựng một cơ
chế bảo hiến (theo Điều 119) để đảm bảo các quy định của hiến pháp được tuân thủ và thực
thi trên thực tế, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp.
Nghiên cứu các mơ hình bảo hiến trên thế giới, chế độ tài phán hiến pháp (Tòa án
hiến pháp, Hội đồng hiến pháp) thực hiện việc bảo hiến hiệu quả hơn cả. Kinh nghiệm của
những chính quyền hợp hiến điển hình Đơng Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) là đáng
tham khảo. Trong khi mơ hình cơ chế bảo hiến ở những nước này được thiết lập theo mơ
hình Tịa án hiến pháp của phương Tây, nhưng thực tế vận hành lại có khuynh hướng phản
ánh các điều kiện và giá trị bản địa. Theo đó, các thiết chế bảo hiến ở Đông Á hành động khá
thận trọng với tinh thần tự kiềm chế, ln có thái độ tơn trọng ngành lập pháp và hành pháp
trong khi thực thi quyền bảo hiến, và đặc biệt là có khuynh hướng [thăm dò] nương theo sự
đồng thuận của đa số khi đưa ra phán quyết.30
Ở phạm vi rộng lớn hơn, mặc dù ở nước ta Hiến pháp được coi là “luật cơ bản”, có
hiệu lực pháp lí cao nhất (Điều 119), nhưng hiến pháp lại chưa có giá trị áp dụng trực tiếp.
Thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định [nói chung],
phản ánh được tinh thần của [chủ nghĩa] Hiến pháp và để thực thi các quy định của hiến
pháp. Điều này đòi hỏi sự cẩn trọng nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng của các nhà lập pháp cũng
như các học giả trong việc xây dựng ban hành các đạo luật, hoàn thiện cơ chế thực hiện và áp
dụng pháp luật hiệu quả. Đây cũng là một yêu cầu của pháp quyền, bởi biểu hiện của pháp
quyền trên thực tiễn chính là việc hồn thiện hệ thống pháp luật quốc gia, tạo lập một khuôn
khổ pháp lí đầy đủ làm nền tảng cho sự vận hành của xã hội.
Cuối cùng, và quan trọng nhất, đó là sự quan tâm và nhận thức của xã hội, Nhà nước,
và của Đảng cầm quyền về các vấn đề hiến pháp, quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa
quyền lực nhân dân với quyền lực nhà nước, … Nếu khơng có nhận thức đúng về những vấn
đề này, khơng tạo lập được một nền văn hóa thực hành các giá trị của chủ nghĩa hiến pháp,
thì Hiến pháp cũng chỉ mang tính “tượng trưng”, khơng được thực thi đầy đủ trên thực tế.
2013”, trong: Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, tài liệu đã dẫn.
29<sub> Xem: Bùi Ngọc Sơn (2009), “Chủ nghĩa hợp hiến ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11/2009. </sub>
30<sub> Xem: Bùi Ngọc Sơn (2011), “Đặc điểm phát triển của hiến pháp ở Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số </sub>
hay bất cứ tư tưởng chính trị nào (như: dân chủ, pháp quyền, quyền con người, nhà nước
kiến tạo phát triển, …) cũng sẽ khơng xuất hiện hoặc sẽ khơng duy trì được lâu ở một xã hội
khơng đánh giá cao nó. Giá trị của chủ nghĩa hiến pháp không phải ở chỗ nó phổ quát (được
nhiều quốc gia vận dụng), mà ở chỗ [bản thân] xã hội đó có lí do để coi chủ nghĩa hiến pháp
là có giá trị./
<b>Tài liệu tham khảo: </b>
1. <i>A. R. M. Murray (2010), An Introduction to Political Philosophy, Routledge </i>
Revivals, London;
2. <i>A. V. Dicey (1979), Introduction to the Study of Law of the Constitution (A. V. Dicey </i>
With an Introduction by E. C. S. Wade), The MacMillan Press, London;
3. <i>Andrew Heywood (2000), Key Concepts in Politics, Macmillan Press Ltd., London; </i>
4. <i>Brian Tamanaha (2007), A Concise Guide to the Rule of Law, tại: </i>
5. <i>Charles Howard McIlwain (1947), Constitutionalism: Ancient and Modern, Cornell </i>
University Press, New York;
6. <i>Charles Howard McIlwain (1939), Constitutionalism and the Changing World, </i>
Cambridge University Press, Cambridge;
7. <i>Charles S. Montesquieu (1748), The Spirit of Laws, Vol.I, (Thomas Nugent dịch từ </i>
tiếng Pháp, 1823), T.C. Hansard Printer, London;
8. Danilo Zolo (2007), “The Rule of Law: A Critical Reappraisal”, trong: Pietro Costa,
<i>Danilo Zolo (edited), The Rule of Law: History, Theory and Criticism, Springer; </i>
9. <i>Daron Acemoglu, James A. Robison (2012), Why Nations Fail: The Origins of </i>
<i>Power, Prosperity, and Poverty; </i>
10. <i>David Fellman (1974), “Constitutionalism”, trong: Philip P. Wiener (edited), Dictionary </i>
<i>of the History of Ideas, Volume I; </i>
11. Nguyễn Đăng Dung (2014), “Sự phát triển của chủ nghĩa hiến pháp ở Việt Nam cho đến
<i>Hiến pháp năm 2013”, trong: Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam </i>
<i>năm 2013; </i>
12. <i>Nguyễn Sĩ Dũng (2013), “Hiến pháp mới, hy vọng mới”, tham luận tại tọa đàm Hiến </i>
<i>pháp và vấn đề cải cách thể chế, do Mạng lưới học giả Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, </i>
ngày 23/01/2013.
13. <i>Fareed Zakaria (2007), The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and </i>
<i>Abroad, W.W.Norton & Company, London and New York; </i>
14. Gerhard Casper (1986), “Constitutionalism”, trong: Leonard W. Levy and Kenneth L.
<i>Karst (edited), Encyclopedia of the American Constitution, 2</i>nd edition, Macmillan
Reference USA, New York;
15. <i>George Athan Billias (2009), American Constitutionalism Heard Round the World, </i>
<i>1776-1989, New York University Press, New York and London; </i>
16. Vũ Công Giao (2014), “Chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
<i>năm 2013”, trong: Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013; </i>
17. Graham Walker (1997), “The Idea of Nonliberal Constitutionalism”, trong: Ian
18. <i>Jean J. Rousseau (1940), The Social Contract and Discources by Jean Jacques </i>
<i>Rousseau, translated with Introduction by G. D. H. Cole, J. M. Dent & Sons Ltd, </i>
London; E. P. Dutton & Co. Inc., New York;
19. John Emerich Edward Dalberg-Acton (1887), “Letter to Mandell Creighton”, trong:
<i>Essays on Freedom and Power, (Gertrude Himmelfarb tuyển chọn và giới thiệu, </i>
1949), the Bacon Press, Boston;
20. <i>John Locke (1821), Two Treatises of Government. Book II. Of Civil Government, </i>
London;
21. Phan Trung Lý (2013), “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam – Hiến pháp dân chủ,
<i>nước CHXHCN Việt Nam tại trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, ngày </i>
28/12/2013.
22. Bùi Ngọc Sơn (2009), “Chủ nghĩa hợp hiến ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 11/2009;
23. Bùi Ngọc Sơn (2011), “Đặc điểm phát triển của hiến pháp ở Đông Á”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, số 202, tháng 9/2011;
24. Takashi Shogimen (2005), “Constitutionalism”, trong: Maryanne Cline Horowitz
<i>(edited), New Dictionary of the History of Ideas, Volume 2, Thomson Gale, the United </i>
States of America;
25. <i>Thomas Hobbes (1651), Leviathan, (A.D. Lindsay giới thiệu, 1953), J.M. Dent & Son </i>
Ltd, London;
26. Walter F. Murphy (1993), “Constitutions, Constitutionalism, and Democracy”, trong:
<i>Douglas Greenberg et al. (edited), Consitutionalism and Democracy: Transitions in </i>