Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.86 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Quan niệm của Thanh Thảo về thơ</b>
Mỗi bài viết của anh đều in đậm cá tính riêng của anh. Trong bài viết như
một lời bạt ở cuối cuốn tiểu luận - phê bình "Ngón thứ sáu của bàn tay", nhà
thơ Nguyễn Đỗ cho rằng: "Điều mà Thanh Thảo có được trong tập sách này
-cái thành cơng nhất - chính là anh đã được sáng tác, anh viết tiểu luận như là
một hối thúc bên trong, giống khi làm thơ" [tr.63].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tơi chỉ đề cập đến những quan điểm
chính của anh được thể hiện trong các bài viết phê bình - tiểu luận, xin tạm gác
lại phần quan điểm của anh được thể hiện rất phong phú và đa dạng trong
Trường ca và thơ anh, đặc biệt là ba Trường ca: "Đêm trên cát" viết về nhà thơ
Cao Bá Quát, "Trò chuyện với nhân vật của mình" viết về nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu và "Khối vng ru bích" với quan niệm "ru bích là cấu trúc của thơ".
Quan niệm thơ được Thanh Thảo phát biểu khá đa dạng độc đáo theo
cách cảm, cách nghĩ, cách nói riêng của mình: "Thơ là cái lặng lẽ của con hổ.
Ngay con hổ cũng có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ đi giữa can trường
và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nỗi sợ... Thơ là con dao găm "Tôi ném vào
khoảng trống" (Văn Cao), nhưng người bị thương lại chính là tơi" [Ngón thứ sáu
của bàn tay, tr. 5]. Chỗ khác Thanh Thảo phát biểu: "Thơ là chữ nghĩa cũng
không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải ý thức, là vô thức mà không hẳn
vô thức. Thơ đúng nghĩa là sự bộc lộ tận cùng của nhà thơ" [Sự đồng cảm trong
phê bình thơ, tr.66].
Về bản chất của thơ, Thanh Thảo quan niệm: “Bản chất của thơ là thơ
ngây, là bất thường, là xuất kỳ bất ý" [Văn Cao và năm 2000-tr.76], "là tiếng
nói của tâm linh, tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của
nhiều đời người". Những tập thơ có giá trị thực sự, chúng có thể là "Kinh thánh
của tâm hồn", là thứ "không thể mua và không thể bán. nhưng lại không thể
thiếu cho con người" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.63]. Nhưng "Thơ khác kinh
Về chức năng giáo dục của thơ, Thanh Thảo có một quan niệm khá mới lạ:
"thơ có ích khơng chỉ vì thơ giáo huấn ai, giáo dục ai, cải tạo ai, mà vì thơ thức
tỉnh con người trước cái "trăm năm", thơ đặt con người đối diện với nghìn năm,
thơ cho con người một thống nhìn lại chính mình một cách bình thản" [Tản
mạn về thơ, tr.80]. Chỗ khác, anh thổ lộ: "Thơ đích thực khơng nhằm giáo dục
ai, cải tạo ai, nhưng nó lại giúp thanh lọc tâm hồn con người". Thơ cịn là "đơi
nạn" giúp người tàn tật "đứng dậy, bước đến với mọi người, là đôi bàn tay chìa
ra với mọi người", vâng, chính là thơ, và đôi bàn tay thơ "như đôi lá xanh dung
dị, gần gũi" [Lửa xanh thầm cháy mãi không nguôi, tr.12].
Chúa giáo, có trước Phật giáo, có trước Hồi giáo. Nhưng cho đến thời đại hiện
này, thơ vẫn sống mà khơng có tín đồ" [Tản mạn về thơ, tr.79].
Về mối quan hệ giữa người đọc, dân tộc và thơ, Thanh Thảo có một cái
nhìn khá nhất qn: Thơ "phải được đồng bào mình chấp nhận, dù khơng phải
là tồn bộ, trước khi có thể được thế giới cơng nhận... Bởi khơng gì hạnh phúc
cho bằng được đồng bào mình đồng cảm mến yêu" [Hướng tới Nobel hay
Nobel? Tr.90]. "Người làm thơ ngày thường cũng nói nhỏ, họ chỉ nói to hơn
trong thơ". Họ "nói về những dự cảm", "hướng đến một cộng đồng, một dân
tộc, một đất nước, nó hướng đến Con Người, đến tồn nhân loại" nhưng "thơ
vốn âm thầm, tìm được một người tri âm đã mừng hết lớn, đâu dám ước ao mê
hoặc được hàng vạn hàng triệu người" [Có một dịng sơng 80 tuổi, tr.139].
Về quan hệ giữa thơ và cuộc sống, đặc biệt là hiện thực chiến tranh, là
Thanh Thảo cũng quan niệm: nói đến thơ là nói đến sự sáng tạo, nhưng
cách nói của anh cũng độc đáo như thơ anh: "Hơn ai hết, người làm thơ phải là
người bình tĩnh khi buông dây câu về vô định mong giật được con cá bặt
-tăm...Nghĩa là khi làm thơ, nhà thơ biết mình sống trong lịng sự sáng tạo. Đó là
niềm tự hào và điều an ủi lớn nhất đối với một nhà thơ" (Hướng tới Nobel hay
Nobell? tr.90). Thách thức của thơ mà cũng là sự quyến rũ của thơ là: "Thơ
chẳng ai giống ai, chẳng ai mong muốn giống ai, và khơng có lối đi nào chung
cho hai nhà thơ cả" ( Mười năm cõng thơ leo núi, tr.66).
Bàn về thi pháp, Thanh Thảo bắt đầu bằng sự liên tưởng từ bóng đá (mà
tên tuổi anh xuất hiện thường xuyên với cách bình luận rất riêng): dấu ấn thi
pháp của từng nhà thơ chính là những "cú sút" từ ngữ trong thơ, "sút lọt" vào
"khung thành ẩn hiện của thơ". Thi pháp của một nhà thơ "được coi như một
thứ kĩ thuật đi bống, dắt bóng", chỉ khác là "khung thành trong bóng đá ln
hiện rõ trước mắt cầu thủ, còn "khung thành" trong thơ lại lúc ẩn lúc hiện, và
người là thơ chẳng biết khi nào thì đưa được ngơn từ vào đúng dịng thơ, vào
"lọt" bài thơ. Những "cú sút" từ ngữ trong thơ mang nặng dấu ấn thi pháp của
từng nhà thơ" ("Thời máu xanh" và số phận người lính, tr.124-125).
Về ngơn ngữ, hình tượng, biểu tượng thơ, Thanh Thảo quan niệm: chớ nên
tưởng rằng "ngôn ngữ thơ là làm phong phú ngôn ngữ con người", mà "nó chỉ
chắt lọc tinh túy của ngơn ngữ con người". cũng đừng nghĩ rằng: những hình
rỗng" trong thơ: "Chính ở khoảng giữa của những câu thơ độc lập tương đối, đã
ẩn hiện cái không gian rỗng của bài thơ, là cái thoạt nhìn, mới đọc cứ ngỡ như
khơng thấy gì, khơng nói lên điều gì. Cái kỳ lạ của thơ là ở đó: chữ nương tựa
vào khơng - chữ, chỗ dày rậm cậy nhờ chỗ trắng trong, không - gian - đặc được
cấu trúc lên nhờ không - gian - rỗng". Anh cho rằng: khác với thơ cổ điển, thơ
hiện đại "không nhằm vào từng câu thơ" mà nhằm vào "từng mảng thơ",
"những mảng tối, mảng sáng trong bài thơ đan xen nhau, những mảng có
nghĩa và vơ nghĩa đan xen nhau… buộc tiềm thức, vô thức của ta phải làm việc,
buộc ta phải ngụp lặn xuống lòng nước tối, ngụp lặn vào chính những giấc mơ
của ta" [Tản mạn về thơ, tr. 80-81]. Chính cái "lịng nước tối", "những giấc mơ"
ấy đã tạo nên độ mờ nhòe nghĩa lý câu thơ của Thanh Thảo. Anh rất tâm đắc
với "Lý thuyết phân tích tinh thần" của Erich Fromm: "Tuyệt đại đa số các giấc
mơ có một đặc trưng chung: chúng khơng tn theo quy luật logích đã chi phối
lộ trình tư duy khi chúng ta thức tỉnh; ở đây phạm trù thời gian, không gian bị
coi thường" [Ngôn ngữ bị lãng quên, tr.11].
Đánh giá sự vận động của thơ Việt Nam những năm cuối thế kỷ XX, Thanh
Thảo nhận xét: "Mười năm thơ Việt cuối thế kỷ là mười năm có những chuyển
động ngầm, như những khối sóng dưới lịng sơng sâu, những chuyển động có
một bề nổi hịa hỗn, nhưng một bề chìm quyết liệt, nhiều lúc không khoan
nhượng" [Mười năm cõng thơ leo núi, tr.64)]. Trong bài phát biểu có tựa đề "Thơ
mãi mãi là bí mật" (mà sắp tới nó sẽ trở thành đầu đề một tập phê bình - tiểu
luận dày hơn 400 trang đang chuẩn bị xuất bản) tại Liên hoan thơ quốc tế ở
Chính quan niệm "Thơ mãi mãi là bí mật" nên cả cuộc đời thơ của mình,
Thanh Thảo, từ trước đến sau, vẫn cứ khư khư giữ mãi cái khoảng lặng bí mật
ấy. Vì thế, người ta bảo thơ Thanh Thảo q khó hiểu cũng có cái lý của nó.
Gần đây nhất, trong bài trả lời phỏng có tựa đề "Thơ chẳng là gì nhưng cũng có
thể là tất cả", Thanh Thảo tóm lại quan niệm thơ của mình: "Quan niệm của tơi
về thơ vẫn thế, chẳng có gì mới hoặc cũ hơn". Có thể có người "thay đổi hẳn
quan niệm của mình" hoặc "ngộ" được thơ sau khi đọc một bài thơ. Nhưng cũng
có người chỉ để "khẳng định thêm những điều mình đã nghĩ". Cịn theo anh,
"thơ phải hiện đại, bởi chúng ta đang sống thời hiện đại nhưng muôn đời, thơ
vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà thôi" [tr.82-83].
Khi được hỏi về sự ảnh hưởng của phương Tây trong q trình hiện đại
hóa thơ ca Việt Nam, Thanh Thảo trả lời rất đơn giản: "tính hiện đại" không phải
do "những kĩ thuật thơ phương Tây" mang đến, "mà còn đến từ sự phối hợp tự
nhiên và bất ngờ của thơ phương Tây với khả năng dồn nén, tích chứa, u mặc,
phẳng lặng mà sâu thẳm của thơ phương Đơng, của tâm hồn thơ Việt. Và cái
chính là phải qua ngôn ngữ riêng biệt của từng nhà thơ" [Thơ chẳng là gì nhưng
cũng có thể là tất cả, tr.83].
Là một nhà thơ có một giọng điệu thơ "lạ" ngay từ những ngày đầu cầm
bút, sau những thành công ban đầu, Thanh Thảo không "chững lại” mà ln tự
vượt lên mình. Là một người say mê nghiên cứu các lý thuyết, các trào lưu văn
học hiện đại phương Tây kết hợp với thực tiễn sáng tác của mình, Thanh Thảo
đã có những quan niện thơ đáng để ta ghi nhận.