VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LƯU BÌNH DƯƠNG
T R A N H T Ụ N G TẠI PIIIÊN T O À s ơ T H A M
h ìn h
N H Ữ N G VẤN ĐỂ LÝ LU Ậ N VẢ T H Ụ C TIỀN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HỈNH s ự
MA SỐ: 5.05.14
LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT n ọ c
Người hướng dần khoa học
P(ĨS. TS. Phạm Hồng Hải
ị~
THƯ VIỆN
Ị
Ị TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÙÂT HÀ Nỏ! I
i PHÒNG ĐO C Ằ ĩ ỉ ĩ
Hà N ội - 2004
sự
M Ụ C LỤC
Trang
PHẨN MỞ ĐẨƯ
1
Chương I : NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN
TOÀ Sơ THẨM HÌNH Sự
6
1.1. Khái quát về lịch sử Yấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự
6
1.2. Khái niệm tranh tụng trong tơ tụng hình sự
14
1.3. Phân biệt tranh tụng với tranh luận (rong tố tụng hình sự
29
Chương I I : QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT Tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM LIÊN
QUAN ĐẾN TRANH TỤNG TẠ! PHIÊN TOÀ sơ THẤM HÌNH sự
32
2.1. Quy định vể tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm trước khi ban
liành Bộ luật Tố tụng hình sụ' Việt Nam năm
1988
32
2.2. Quy định về tranh lụng tại phiên ton sơ thẩni theo IỊộ luật Tố
lụng hình sự năm 1988
36
2.3. Quy định về tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm theo quy định
của Bộ luật tơ tụng hình sự năm 2003
59
Chương I I I : THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ sơ THẨM
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TRANH TỤNG
THEO LUẬT TỐ TỤNG HỈNH Sự VIỆT NAM
67
3.1. Thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm theo Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 1988
67
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nain năm 1988
88
PHẦN K Ế T LUẬN
95
DANII MỰC TẢI LIỆU THAM KHẢO
96
P H Â N M Ở ĐẦU
1. Tính cAp lliiếl của việc nghiên cứu đề lỉii
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việl Nam hiện hành lại Điều
2 ghi nhạn trang trọng nhà nước ta là: Nhà nước pháp quyền x ã hội chủ nghĩa
của nhân dâìì do nhân (ÌỚỈ1 và vì nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền,
quyền con người và quyền công dAn phải được tôn trọng và bảo đảm.
Lĩnh vực tố tụng hình sự là lĩnh vực rất quan trọng có liên quan trực tiếp
đến việc thực hiện các quyền và lợi ích cơ bản của công dân như: Quyền được
sống, tự do... Tuy nhiên, trong lĩnh vực tố tụng, bên cạnh những mặt đã đạt
được còn bộc lộ nhiều hạn chế Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị Ban chấp bành TW Đảng Cộng san Việt Nam về một sổ nhiệm vụ trọng
tâm của công tác Tư pháp trong thời gian tới đã chí rõ: "Chất lượng cỏng tác
tìt pháp nói chung chưa ngang lầm với nhu cầu và đỏi hỏi của nhân dân; còn
nhiên trường hụp bỏ lọt tội phạm, làm oan ngỉỉời vô tội; vi phạm các'quyền tự
do, dân chủ cùa cơng dân, ìom giâm sút lỏng tin của nhân dân với Đảnẹ, Nhà
nước vờ các cơ quan T ư pháp".
Để góp phổn hạn chế đi đến loại bỏ việc làm oan sai của các cơ quan Tư
pháp, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Nghị quyết dã nhấn mạnh
phải: "Nâng cao chất lượng công lô của Kiểm sát viên tại phiên toà, bào đàm
tranh lựng dân chủ với Luật sit\ ngiíởi bào chữa vờ những người tham ỳ a tố
tụng khác...khi xét xứ, các Toờ án phải bảo dâm cho mọi cơng dân hình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; thẩm phán vờ hội thẩm dộc lập
và chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết của Toà án phơi căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh lụng lại phiên í ồ, trên cơ sở xem xét đầy cỉủ toàn diện các
chứng cứ, ỷ kiến của Kiêm sát viên, của
iĩỉịhửì
bào chữa, bị cáo, nhân
nguyên (Um, bị đơn vờ những người có quyền, lợi ích liợp pháp đ ể ra nlnĩỉiạ
Phi lip L. Reiehcl viết cuốn: " Tu pliáp hình sự so sá n h " chrực Viện nghiên
cứu khoa học pháp lý nọ tư pháp cỉịcli giới thiệu năm 1999, tác gia Xlrogo
Vích. MC dã dề cập khái niệm tranh tụng hình sự trong: Giáo trình tố tụng
hình sự Xô Viết. NXB Matxcơva 1968. Trong nước cách đây khoảng 10 năm
những tác giá đề cệp sớm có thể nêu là: Nguyễn Đức Mai với hài: Tranh tụng
trong tơ'tụng hình sự. Tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 1995. Tác gia Bùi
Đức Long với bài: Bàn vể tranh íụntỊ hình sự. Tạp chí Kiểm sát số 4/1996,
Phạm Ngọc Đan với bài: Bàn thêm vê tranh tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số
7/1996.
Sau khi Bộ Chính trị Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam ra
Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 vc một số nhiộm vụ (rọng 1Am của cơng
lác lư pháp Irong thời giítn lới thì nghiên cứu về (ranh tụng lại Irơ nôn sõi nổi.
Nổi hại lên có các hài viết về vấn (lổ này nhir: Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Kháng
với bài: Cái cách tư pháp và vấn (lê tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 10/2003. Tiến sỹ Nguyễn Thái Phúc với bài: Dự thản bộ luật lố lụng
hình sự sửa đổi và nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
9/2003. Tiến sỹ Đỗ Văn Đương với bài: Tranh tụng trong T ế tụng hình sự
Việt Nơm: Quan niệm và giải p h á p , Tạp chí nghiên cứu lập phấp số đặc san 4
tháng 4/2003. Tiến sỹ Từ Văn Nhũ với bài: Đổi mới thủ tục xét xử Iihằni
cao chất lượng tranh tụng tợi pliicn tồ hình sự, Tạp chí To à án số 10 + II
năm 2002. PGS TS Phạm Hồng Hải với bài: Ttêh tới xây dựnạ lổ lụn Ị>hình sự
ở Việt Nơm theo kiểu tranh tụng hình sựtroM Ị cuốn sácli: Mỏ hình lý luận Bộ
luật tố lụng hình sự Việt N am - NXB Cồng an Nhan dan 2003.
Ngồi ra cịn nhiều bài viếl khác của các tác giá dăng licn tạp chí Kiểm
sát, tạp chí To à án, tạp chí Luậl học đề cập đến tranh tụng hình sự. Nhung cho
đến nay khái niệm tranh tụng hình sự vãn cịn nhiều tranh luận khác nhau,
phạm vi nghiên cứu ở giác độ lý luận và thực tiễn tranh luận lại phiên toà sơ
thẩm hình sự chưa có tác gia nao dề cộp một cách tồn diện. Vì vẠy, việc tiếp
tục nghiên cứu vấn đề tranh lụng (1 giai đoạn xét xử sơ thẩm là vấn đổ cố ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đícli, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
Mục đích
Làm rõ khái niệm, chủ thể phạm vi, nội dung, kết quả của tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm hình sự. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp
phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên loà sơ thẩm.
Nhiệm vụ
- Làm rõ được nội dung phạm vi của khái niệm tranh lụng Irong tố lụng
hình sự.
- Phân biệt được khái niộin tranh tụng và tranh luận trong tố tụng hình sự
- Nghiên cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành Việt Nam
và thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm trong những năm gần
đây, tìm ra nguyên nhân của những mặt làm được và tồn tại hạn chế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu vào vấn đề tranh tụng tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự thực định Việt Nam những năm
gần đây
4. Cơ sở lý luận và phương phá|3 nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn là: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê - nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà
nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm và cải cách tư pháp trong tình
hình mới. Những thành lựu của khoa học pháp lý thế giới và Việt Nam, học
thuyết của Chủ nghĩa Mác Lê - nin về tổ chức bộ máy Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa vào chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
thực liễn để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu Luận văn
Trên cơ sở kết quả làm rõ những
tụng hình sự tại phiên tồ sơ thẩm, tác
vấn đề lýluận
và thực tiễn của tranh
giả xây dựng nên các khái niệm
mới:
Khái niệm tranh tụng hình sự, khái niệm tranh luận hình sự, phân biệt tranh
tụng với tranh luận hình sự, làm rõ chủ thể, nội dung, phạm vi của tranh tụng
tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Đề xuất những giải pháp về hoàn thiện pliáp
luật và tổ chức thực hiện để nâng cao chất lượng của tranh tụng tại phiên tồ
sơ thẩm hình sự trong tình hình mới.
6. Kết cấu của Luận văn gồm
Phẩn mở đáu 3 chương với các mục, kết luận và đanh mục tài liệu tham
khảo. Tổng cộng 101 trang.
CHƯƠNG 1
NHŨNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN CHUNG VỂ TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TỒ SO THẨM HÌNH s ụ
1.1.
KHẢI QT VỂ LỊCH s ử VẤN ĐỂ TRANII TỤNtí TRONG T ổ TỤNCĨ
HÌNH S ự
Lịch sử lố tụng hình sự trơn thế giới không phải ngay từ
(1ÀII
(lã tic'p cẠn
với khái niệm Iranh lụng và (lã có (lược mơ hình lố tụng mà ngày nay gọi là:
Tố tụng tranh lụng. Đổ có được "khái niệm tranli lụng" và "mơ hình lr
tụng hình sự" mà kết quả như ngày nay quan niệm, lịch sử tố lụng hình sự
(sau đây gọi tắt là TTHS) thế giới phai trải qua một quá trình phát triển lAu
dài, quá trình đó gắn liền với mỗi chế độ Nhà nước và chế độ lổ chức quyền
lực nhà nước; với yêu cầu đấu tranh và kiểm soát tội phạm. Với sự hình thành
và phát triển của các tư tưởng dân chủ tiến bộ trong lịch sử và phát triển của
xã hội loài người, cũng như các thành tựu của khoa học pháp lý. Song bán
thân "khái niệm tranh lụng" và khái niệm "mơ hình lố tung trơìĩỉì tụng hình
sự" được hiện điện trên thực tế thì khoa học pháp lý của các quốc gia khác
nhau (có cách nhìn nhận và phân chia khác nhau) khơng phải có sự nhận
thức thống nhất. Cho đến nay khoa học pháp lý thế giới chưa có tiêu chí
thống nhất tiếp cận các kiểu TTHS cùa các quốc gia Irên thế giới để xác định
tố lụng hình sự của quốc gia nào đó thuộc kiểu này hay kiểu kia. Đúng như
PGS. TS. Phạm Hồng Hải viết: "Việc iìỊịhiên cứu lơ' HuĩỊị hìnli sự â mồi quốc
gia nào t1ó ihirờiiỊ’ xuất phát lử những quan (ỉiểm, học íìmyêì khác lìliaii vé
nhờ nước, pháp luật. Các học í>id x ã liội chủ nạhĩơ thì dựa vào quan điểm của
các nhà kinh điên của Cliủ lìịịìũa xã hội vớ Nhờ nước và pháp luật (1ế phân
cliia tố tun % hình sự thành: T ấ tụin> lììiỉh sự trong Nhà nước nơ lệ, tố tụng
hình sự trong Nỉìâ nước phonq kiến, tố tụ n ẹ hình sự trong Nlư) nước tư sản và
tấ tụ n ạ hình sự tì ong Nhà nước x ã hội chủ Iiẹlũa; kliác với các học ỳ á xã hội
chủ nghĩa, các học giả tư sản khi !!{>hicn cứu tơ tiim> hình sự ở mỗi (/nốc 1>Í(I
thường dựa vào tnin thống pììáp luật của quốc gia đó vờ đặc điểm của tơ
tụng hình sự hiện diện (lang lốn tại" I 16,'i'r . 26 |.
Cũng theo tác giá thì theo hai cách tiếp cận ở trên thì cách tiếp cận thứ
hai hợp lý hơn, nó cho phcp người nghiên cứu xem xét một cácli trực tiếp và
chi tiêì các (tặc điểm củíi TTIIS. Nhưng (Vcách lliứ hai, mặc (lù có nhiều yếu
tố hợp lý hơn nhưng dù sao nó vnn thiếu Ciíi nhìn lổng lliổ với dối lượng
nghiên cứu. PGS. TS. Phạm Hồng Iliíi (lồ X11AI cách liếp cẠn mới: NỉịIiìờii cứu
tơ' tụng hình sự trong moi (/11(111 hộ vói cách thức tổ chức (Ịiiycn lực IIÌKÌ ìììtớc
ị 16, Tr . 2 7 1. Chúng tơi thống nli với (ỊIIỈIII (liổm này, hởi lẽ nếu chỉ liếp CỘII
theo cách thứ hai vừa ncu thì chí dựa vào truyền Ihống ciia pháp luệl và dặc
điểm của TTHS quốc gia là dối tượng nghiên cứu sẽ khơng lý giải (tược tại
sao có quốc gia TTHS có truyền thống này ịíhuộc mị hình tốíụììỊị này), lại có
xu thế chuyển sang lựa chọn mộ! kiểu mơ hình tố tụng kia, hoặc khi lựí\ chọn
m ơ hình tố tụng nào đó lại quay lại lựa chọn một mơ hình đan xen I I I,
Tr.118].
ơ cách tiếp cân thứ ba (ỉn cho phcp làm sáng tỏ (lược những luận điểm
mà cácli tiếp cận thứ liai chưa làm dược. Cách thức tổ chức quyền lực nhà
nước là cách tổ chức ra các cơ quan của Bộ máy Nhà nước và xác lập mối
quan hệ của các cơ quan đó với nhau để thực hiện những nhiệm vụ dặt ra
trước Nhà nước. Bất kỳ một Nhà nước nào dấu tranh phòng chống tội phạm
cũng đều coi là nhiệm vụ quan trọng, nó được xem như biện pháp tự vệ để
bảo vệ Nhà nước. Muốn làm dược điểu này Nhà nước phải tổ chức ra các cơ
quan tiến hành tố lụng (sau dây gọi lắt là C Q TH TĨ) và xác lập mối quan hộ
giữa các cơ quan này (gọi là: thủ lục, nội (lííỊ của các lioạt (ỈỘJ1Ị> tị tụm> vờ
lĩàỉih vi tổ lụng hình sự). Bộ máy các CỌTHTT bản chất cũng chỉ là một hộ
phận của hộ máy Nhà Iiước nói chung nên cíích thức tổ chức và hoại dộng của
nó về cơ han pliỉíi UiAn theo những nguyên lý của cách thức lổ chức quyền lực
nhà nước của chính ban Ihíìn quốc gia (ló. Cách thức tổ chức ra các CQTH7T
hình sự, thủ tục và nội (lung của các hoạt dộng và hành vi tố tụng được gọi là
cách í hức tổ chức tơ'tụng hình ,v//'mà ban chất của cách thức lổ chức lố lụng
hình sự chính là: "Mơ hình tấtụnq hình sự".
Cách liếp cân thứ hai có một dóng góp lo lớn và được sự ủng lìộ lộng rĩíi
của những người làm cơng l;ìc nghiên cứu khoa học pháp lý, llieo Cííeli tiếp
cân nì\y thì lịch sử T ỉ I IvS lliố giới biơì (lốn bốn mơ hình lố lụng hình sự l;i:
a. Mơ hình tố lụng buộc tội (tố cáo)
b. Mổ hình lố tụng xél hỏi
c. Mơ hình lố tụng XĨI hỏi tranh lụng
cl. Mơ hình tố tụng 1!anh tụng ị6 5 1 (35, Tr.4|
Lịch sử của mỗi mơ hình này chính xác lừ bao giờ có lẽ khoa học pháp
lý thế giới cịn phải tiếp tục nghiên cứu. Song theo chúng tơi có thể điểm qua
được những nét ban chất của lịch sử và dặc điểm của mõi mơ hình nhir sau
Trong kiểu Nhà nước chủ nô, tổ chức quyền lực Nhà nước được xAy
dựng dựa trên mối quan hệ giai cấp đối kháng cơ bản là chù nổ với nô lệ,
trong dó quyền lực Nhà nước lập trung trong tay các chủ nơ, một xã hội pliiìn
đơng thành viên khơng dược coi là người [46, Tr.84]. Quyền lực của chủ nô là
tuyệt dối. Do (1ó có thể thấy rằng TI ỈIS chí phục vụ cho quyền lợi của giai
cấp chủ nơ, hôn cạnli việc bảo vệ quyền lợi cua một Ihiổu số bọn cliỉi MƠ pháp
luật chủ nơ cũng cịn tính đến địa vị xã hội của mội số thành viên khác trong
xã hội như tầng lớp tăng nữ, thị dân... nên TTHS được dựa trên sự tố cáo của
người nào dó phẩn (thành viên xã hội) (lược coi là người với chính quyền. Cơ
quan tiến hành tố tụng được nhất thổ hố trong tay chủ nơ nám quyền hành
chính. Lời khai (lởi lố cáo) của người lố cáo làm xuất hiện quá trình giai
quyết vụ án hình sự. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự do lãnh chúa đề ra có
thể đirợc quy dinh hoặc kliơng dược quy (tịnh. Một xã hội trong đó các giá trị
pháp lý cơ bán như ngày nay quan niệm: "Dân chủ, hình (ỉẳnq, minh bạch"
chưa hề được biết đến. TTHS như vậy dược giới khoa học luật ngày nay gọi
tên là "m ơ hình tố tụng tố cáo" . Đặc điểm của mơ hình này là nghĩa vụ
chứng minh tội phạm thuộc về người tố cáo và người bị tố cáo, vai trò của các
cơ quan tố lụng rất mờ nhạt. Sự mờ nhạt dược giai thích bằng chính quyền
lực tuyệt đối của hệ thống tổ chức quyền lực. Bởi lẽ các quan tồ chính là các
quan chức hành chính có thể tự quyết định mọi vấn đề (cà vấn (ìề buộc lội)
mà khơng bị hạn chế bơi hất kỳ chuẩn mực pháp luệt nào.
Nhà nước phong kiến ra dời thay thế Nhà nước chủ nô. Một số đông dan
chúng trước dây chưa được coi là người - nay được coi là "thần dân" của chế
độ. Bộ máy Nhà nước phong kiến có sự chuyển mình hơn về cơ bán các
"quan tồ" vãn là quan chức hành chính. Song thủ tục, hình thức tố tụng
phiên tồ đã được dề câp và luật hố phần nào (ví (1ụ: trong Nhâ nước chủ nộ
một chủ nơ có th ể treo cổ tứ lìììili một nơ lệ sau lời kết án của ânq ta, thì
trong Nhà nước phong kiến cần thiết phải dược đưa rơ "thâiiẹ đườiIiị xét xử").
Trong cliế độ phong kiến do sự phát triển của nền sản xuất vật chất hơn hẳn
so với chế độ chủ nô, kéo theo trong kết cấu xã hội cũng da dạng các lợi ích.
Bộ máy Nhà nước được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp CƯ sở
đến Trung ương ngày càng quan liêu hố, lợi ích của Nhà nước phong kiến
dường như được ban phát theo thứ bậc chặt chẽ từ Trung ương đến tận làng xã
(gồm cở lợi ích kinh tế và lọi ích chính trị). Chính vì vậy các cơ quan của Bộ
máy Nhà mrớc can thiệp ngày càng sâu vào các q trình xã hội, trong đó có
hoạt động TTHS. Bằng chức năng bảo vệ của Luật hình sự, Luật tố lụng hình
sự. Pháp luật phong kiến đã đặt lên hàng đầu việc bảo vệ sự an toàn , vững
mạnh của chế độ phong kiến bằng việc tội phạm hoá vỏ số những hành vi à
tnức độ tìr cao đến thấp lliẠm chí c;\ một hệ thống các hành vi cùa lĩnh vực
thuần phong - mỹ tục vào pháp ll hình sự, do quy tnơ và mục (lích rộng rãi
như vậy nên Nhà nước phong kiến dã tự xác định nhiệm vụ cho bộ máy của
nó khơng thể thờ ơ ngồi chờ sự tố cáo như trước, chờ sự tự chứng minh của
người tố cáo (iiliiícĩã nêu ở mị hình lị tụnạ, tơ cáo) (lược nữa inh pliáp luẠI
can thiệp vào c;k' khíìu cím T ĨH S lìr t1ic.il 11Í1, buộc lội (lốn XĨI xử, 1hi liìinli án
để dảm báo được mục đích của nó. TTHS tố cáo đẩn dần được thay thế bằng:
T ô tụ n g hình sự xét hỏi (cồn gọi lờ mị hình tố tụng thẩm vấn). Mơ hình này
có sự khác biệt vứi tố tụng tố cáo ở chỗ: "Theo cách này hệ lố tụng thẩm vấn
cho rằng sự thật có th ể vờ phải được tìm rơ trong q trình thẩm vấn diều tra.
Vì vằiĩg các bên có th ể cố ý định che dấu sự thật nên Nhà nước phải tham gia
sớm vờ liên tục vào việc thẩm vấn âiéìt tra". [56, Tr . 122].
Đặc điểm của TTHS xét hỏi là: mặc dù lời tố cáo vẫn được coi là chứng
cứ quan trọng để đưa vào một quá trình tố tụng, song khơng phải là duy nhất;
bởi bên cạnh sự tố cáo thì CQTHTT vân cịn các nguồn khác. Vị trí của người
tố cáo và bị tố cáo đã thay đổi, họ hoàn toàn bị động và chỉ dược trả lời những
cAu hỏi do quan toà đặt ra. Cịn quan (ồ (cơ (/Hơn tiến hành tố tụng) giữ vai
trò trung tâm trong tố tụng và trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra truy
tố xét xử. Hình thức và thủ tục phiên toà từng bước đã được luật hoá, những
giá trị cơ ban của pháp luật pliÀn nào được hình thành như: nguycn tắc cơng
khai, minh bạch.
Hình thái kinh tế tư ban chủ nghĩa thay thế cho hình thái kinh tế phong
kiến, dẫn đến thay thế kiểu Nhà nước phong kiến bằng kiểu Nhà nước lư sản.
tương quan lực lượng trong Nhà nước tư sản khác xa với Nhà nước phong
kiến do đó tác động và tổ chức Nhà nước tư sản theo hướng phân quyền
thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Việc phân quyền
được ghi nhận trang trọng trong các bản Hiến pháp của Nhà nước tư sản.
Trong cơ quan tư pháp có hộ máy cơ quan cơng tố, Toa án chí thực hiện
những chức năng xél xử. Mơ hình TTHS xél hỏi (lặl vị trí của người lố cáo và
người bị tố cáo Inrởc (lây trơ ncn Irệl hcp bởi lẽ luệl hình sự giíìnli nhiều liiuih vi
tội phạm cho "(Ịtiìi tư tố" l?un cho người lố cáo khơng phải chí thụ đơng (ra lịi
các câu hỏi do các quan toà dặt ra, mà cịn phải góp phẩn cùng với Nhà nước
chứng minh cho lời tố cáo của mình hằng việc thu thập, dưa ra, (tánh giá
chứng cứ nữa. Bên cạnh dó quyền lư pliáp (xét xử) của Tồ án khơng phải chỉ
giải quyết về hình sự mà cịn giải quyết các vấn dề về dân sự, hành chính,
kinh tế. Trong giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, các bên có quyền tranh cãi
thoải mái để bảo vệ quan điểm của mình trước tồ. ít nhiều cách thức giải
quyết bằng hình thức nlur vậy có ảnh hưởng tới TTHS. Vào giai đoạn dầu của
chủ nghĩa tư bản các tư tưởng dân chủ tiến bộ về Nhà nước và pháp luật của J.
Look, S.L Montesquieu... được giai cấp tư sản giương cao lỏi kéo quần chúng
lao động lật đổ chế độ quân chủ phong kiến giành chính quyền về tay mình
với việc tun bố một loạt quyền tự do dân chủ và bình đẳng của công dân
trước pháp luật... đã xác lập lên những giá trị pháp lý: tự đo bình đẳng. Những
tác động vừa nêu dã đặt ra cho việc tổ chức tố tụng phải thay đổi cho phù hợp
ở mức độ nhất định. Mơ hình TTHS xét hỏi dần chuyển sang mơ hình tố
tụng hình sự xét hỏi - tranh tụng . Đặc điểm của mơ liình này là trong q
trình giải quyết vụ án hình sự yếu tố xét hỏi - tranh tụng pha trộn nhau. Thể
hiện cụ thể ở chỗ là những đặc điểm của tố tụng xét hỏi được bổ sung thêm
"yếu tố tranh tụng
Yếu tố tranh tụng ở đây là việc quy 'định rõ bên cạnh vị
trí chủ đạo của các CQTHTT trong việc chứng minh tội phạtn ở khau điều tra,
xét hỏi cịn có quy định về quyền năng tố tụng của những người tham gia tố
tụng khác như: Luật sư, người bị bắi, giữ, nguyên dơn dan sự, bị đơn dan sự...
pháp luật TTHS của mơ hình này cịn quy định bên cạnh việc trả lời các câu
hỏi của CQTHTT còn được quyền đề đạt yêu cầu, đánh giá chứng cứ...
Chủ nghĩa tư bản phát triển với quy mơ ngày càng mạnh , những thuộc
tính bản chất của nó như bóc lột, lợi nhuận... đã gặp phải sự phản kháng gay
gắt của quÀn chúng nhan dân lao dộng, hên cạnh đó, các lư tirởng về Chủ
nghĩa xã hội khoa học, rồi Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra dời đã góp phẩn
mạnh mẽ tạo ra dược các giá trị pháp lý cơ bản, các giá trị pháp lý này (lược
ghi nhận trong pháp luật TTHS thế giới nlur: nguyên tắc mọi cơng dân đều
bình đảng trước pháp luật, ngun tắc xét xử công khai, quyền bào chữa của
bị can - bị cáo, ngun tắc suy đốn vơ tội, liắch nhiệm chứng minh và đặc
biệt là nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc tranh tụng đã được thừa nhận trên
phạm vi tồn cầu, được ghi trong diều 10 tun ngơn tồn Ihế giới về nhân
quyền của Liên hiệp quốc ngày 10/12/1948 như sau: "Mọi người đều có
quyển hồn tồn ngang nhau, được phát biểu bình đẳng vờ cỏn ạ khai trước
tồ ớn độc lập vờ không thiền vi nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của
mình hoặc về việc bnơc tội mìnli có cơ sâ nước tồ".
Cách thức tổ chức của quyền lực của Nhà nước tư sản theo hướng phân
quyền, cùng với sự phát triển của mức độ dân chủ ngày càng cao của đời sống
pháp luật, đã ảnh hưởng đến cách thức tổ chức TTHS, mơ hình TTHS xét hỏi
tranh tụng được chuyển sang m ơ hình tố tụng tranh tụng. Đặc điểm của mơ
hình tố tụng tranh tụng là: lấy nguyên tắc tranh tụng làm nguyên tắc xuyên
suốt cơ bản. Nguyên tắc tranh tụng hiện diện trọng mọi giai đoạn của TTHS,
yếu tố xét hỏi chỉ để phục vụ cho tranh tụng. Mơ hình tố tụng trang tụng có
các đặc điểm như sau: Q Irình giải quyết vụ án hình thành lên các bên buộc
tội và gỡ tội (bền buộc tội gồm: câng tố viên, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, người đại diện bảo vệ quyền lợi ích ìiợp pháp... bên gỡ tội gồm: người bị
buộc tội (bị bắt giữ, bị con, bị cáo) người bào chữa, bị đơn dân sự vờ người
âọi diện hoặc lỉgiíời bảo vệ quyền lợi ích lìựp pháp của họ). Vị trí của Tồ án
thay đổi cơ bản: Tồ án là trọng tài điều khiển sự tranh tụng giữa hai bên và
ra phán quyết trên cơ sớ tranh tụng tại toà. v ề quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể có sự thay đổi cơ bản do mơ hình này phân rõ chức năng tố tụng của mỗi
chủ thể thành chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xct xử
"buộc tội là nhiệm vụ của iiíỊỉtủi hi hại tiếp đó là cịtií> lổ viên, hào chữa là
nhiệm vụ của bị can, bi cáo rà liếp (ló là Iiíịirời bào chữa cho họ. Phán quyếl
là trách nhiệm củ a T o ờ án. Nlui' vậy Iiạhĩa VII cliứniị minh ở (lây (ln'Ợ( chìa S('
cho lất cả cóc chủ thể Ịranh tụng. Ngỉíởi buộc tội ró nghĩa vụ chửng minh bị
cáo có tộ i, người bào chữa chứng minh sự vô tội của bị cán, Thẩm phán vờ
Bồi thơm đoàn chứng minh cho quyết định của mình" [26, tr.32].
Khi nghiên cứu về lịch sử mơ hình tố tụng tranh tụng hình sự cịn thấy
rằng những tư tưởng phổi thai của mơ hình này đã xuất hiện khá lâu trong lịch
sử TTHS thế giới vào khoảng thế kỷ thứ X đến XIII khi mà nhiều quốc gia Âu
Mỹ đang phổ biến là mơ hình tố tụng xét hỏi hoặc tố cáo. Song theo quan
điểm chúng (ơi với ý nghĩa là
111ơ
hình tố tụng tranh lụng nlur ngày nay quan
niệm thì chỉ đến chủ nghĩa tư bản phát triển ở giai đoạn sau khi các nguyên
tắc: tự do, bình dẳng, trách nhiệm chứng minh tội phạm, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa... ra đời thì mới thực sự tồn tại với ý nghĩa đẩy đủ như hiện
nay.
Khi nghiên círu về lịch sử của mơ hình TTHS trên thế giới chúng tôi cho
rằng cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử là
một trong những yếu tố quy định kiểu TTHS ở mỗi quốc gia. Song ngồi yếu
tố này chúng tơi cho rằng kiểu TTHS còn bị chi phối bởi mức độ dân trí và ý
thức pháp luật của quần chúng nhân dân trong xã hội cũng như truyền thống
pháp luật của quốc gia đó. Chỉ có phương pháp tiếp cận tổng hợp như vậy mới
lý giải được tại sao trên thế giới ngày nay có thể vẫn dang tồn tại mơ hình lố
tụng tố cáo hoặc xét hỏi.
Như đã nêu mơ hình TTHS tranh lụng có đặc điểm nổi bật so với mơ
hình tố tụng xét hỏi và mơ hình TTHS sự xét hỏi tranh tụng hì nó lấy ngun
tắc tranh tụng làm nguyên tắc cơ bản xuyên suốt, nguyên tắc tranh tụng hiện
diện trong mọi giai đoạn, quá 1rinh của TTHS, nếu như "yếu tố xét hói" trong
mồ hình tố tụng xét hỏi và mơ hình lố lụng xét hỏi tranh tụng giữ vai trò quan
trọng làm cơ sở cho các quyết đinh của chủ thể buộc tội và cả phán quyết của
Toà án (chủ th ể ẹiữ chức nâng xét MÍ), thì đến mơ hình này chỉ để phục vụ
cho yếu tố tranh tụng mà thôi. Ngược lại, yếu tố tranh tụng lại giữ vai trò
quan trọng hiện diện trong mọi giai đoạn, quá trình của tố tụng hình sự, nó
làm cơ sở cho các quyết định của chủ thể buộc tội và cả quyết định của chủ
thể xét xử (Tồ áiỉ).
Như vậy, có thể thấy mơ hình TTHS tranh tụng khơng phải được ra đời
ngay cùng với sự ra đời ngay của lịch sử TTHS, mà nó có q trình phát triển
nhất định, gắn liền với cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước và những thành
tựu, những giá trị pháp luật mà nhân loại đạt dược. Vấn đề tranh tụng hình sự
khơng phải chí tồn tại trong mơ hình TTHS tranh tụng mà cịn tồn tại ở cá
trong tnơ hình TTHS xét hỏi tranh lụng.
1.2. KHẢI NIỆM TRANH TỤN(Ỉ TRONC, T ổ TỤNCĨ HÌNH s ự
Khái niệm tranh tụng hình sự trong khoa học pháp lý nói chung có sự
thống nhất cao tiếp cận với hai nghĩa là: nguyên tắc tranh tụng và quá trình
tranh tụng.
1.2.1. N guyên tắc tranh tụng
Tố tụng hình sự là một hoạt dộng tư pháp đặc thù, tính đặc thù của nó
thể hiện ờ chỗ: những người liến hành tố tụng từ Điều tra vicn, Kiểm sát viên,
Thẩm phán đều là nhũng người không chứng kiến sự kiện phạm tội xảy ra,
khơng có lợi ích cá nhân liên quan đến vụ án, nhưng lại phải dựng lại bức
tranh loàn hộ của tội phạm một cách khách quan, toàn diện và trung thực. Để
đảm bảo dược yêu cầu dó, hoạt động tố tụng phải tuân theo các yêu cầu có
tính ngun tắc chặt chẽ, các u Ccìu dó dược gọi là nguyên tắc cơ bản của tố
tụng, nguyên tắc cơ bản của TTHS là những tư tưởng chỉ dạo và định hướng
dường lối cho toàn bộ hoạt dộng TTHS. Trong các nguyên lắc cơ ban của tố
tụng xét dưới giác độ khoa học có nguyên tắc tranh lụng, theo học thuyết
Mác Lê - nin về lý luận nhận thức thì mỗi ngun tắc tố tụng hình sự vừa có
tính khách quan, vừa có tính chủ quan, ngun tắc tranh tụng cííng khơng
nằm ngồi quy lt này.
Nhện xét về bản chất của tố tụng hình sự, Tiến sỹ Nguyễn Thái Phúc
viết: "Hoại động tơ lụng Itình sự từ cị' chí kim ln là hoạt động khơng tách
rời, gắn bó hỉĩìi cơ của bơ chức nâng: buộc lội, bào chữa, xét xử. Sự tồn tại
của chức nâng này tất yểu đỏi hỏi sự tồn tại của chức nâng kia. Mỗi chức
lỉâìig tốn lại vờ vận dộng trong chừng mực tồn tại và vận dỘỊìí> của chức năng
cịn lại. Sự khác biệt giữa mơ hình tơ' tụng chính là ở chồ các chức nânẹ này
có tách bạch với nhau vờ có (lo chủ th ể độc lập thực hiện hay bi thâu tóm
tồn bộ vào tay một chủ thể? Có buộc tội mờ khơngcỏ bào chữa thì hoạt động
tơ tụng s ẽ mang tính chất một chiêu và kết buộc chứ khơng phái là tranh tụm*.
Tỏ tụng hình sự không thề dược thừa nhân là dân chủ khi chức nâiìíị buộc tội
khơng có đối trọng là chức năng hào chữa..." [35, Tr .5].
Như vậy, sự tồn tại của tranh lụng trong TTHS là một thực tế khách
quan, thực tế ẩy ngày càng hiện điện dậm nét và trở nên là đòi hỏi bức thiết
khi mà nền dân chủ cũng như trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dan lăng
lên. Sự tồn tại của ba chức năng buộc tội - bào chữa - xét xử gắn bó hữu cơ
với nhau trong suốt cả tiến trình tố tụng chứ không phải chỉ ở riêng một giai
đoạn nào. Bản chất hữu cơ bên trong của mối quan hệ giữa ba chức năng đã
kéo theo những đòi hỏi của việc bảo đảm cho nó, cĩó ỉà việc xác định chủ thể
của từng chức năng, địa vị tố tụng của mỗi chủ thể, mối quan hệ pháp lý của
các chủ Ihể. Tranh tụng trong TTHS là một quá trình tranh luân cộ sát nhau
giữa các quan điểm khác nhau của các chủ thể khác nhau tham gia tố tụng
nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đó có thể khẳng định tranh
tụng không phải chỉ là một phương pháp, phương tiện để xác định chân lý vụ
án mà còn là nguyên tắc cơ bán của TTHS.
Tính khách quan của ngun tắc tranh tụng mang tính quy luật tổn tại
khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mồi chung ta, song vấn đề cơ bản !à
chúng ta nhận thức và phản ánli quy luật đó như thế nào. Chính vì vậy, Các
Mác đã nổi: "Nlià lờỉỉì luật... cơn nhìn vào mình như là người thực nghiệm tự
nhiên, nhà làm luật không làm ra luật, không sáng c h ế ra chúng, mà chỉ hình
thức ỈÌOỚ, tììê hiện vào trong các đạo luật ỷ thức những quy hiật nội tại của
các quan hệ tiìilĩ thần" ị7, T r . 133].
Nói một cách khác trong TTHS nguyên tắc tranh tụng phải được ghi
nhận vào quy phạm VỘI chất chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng các quan
điểm học thuyết.
Nguyên tắc tranh lụng trong TTHS nlur đã nêu là một sự tồn lại khách
quan xuất phát từ han chất của lố lụng. Khi đánh giá về nội dung của nguycn
tắc này có thể nổi trong khoa học luại TTHS gổn như có sự nhai trí cao về
những nội dung sau đây:
N ội dư ng th ứ nhất: Trong ngun tắc tranh tụng hình sự có sự tách
bạch giữa ba chức năng: buộc tội - bào chữa và xét xử. Buộc tội được hiểu là
tổng thể các hoạt động tố tụng của chủ thể buộc tội theo quy định của pháp
luật nhằm nêu ra các giá thiết một người (chủ thể) nào đó có hành vi mà Luật
hình sự coi là tội phạm, để đưa vào vòng TĨTIS nhằm kết tội chủ thể này phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm dang bị giả thiết. Buộc tội còn được
hiểu là hoạt động tố tụng của các chủ thể buộc tội buộc những chủ thể khác
có liên quan đến hành vi phạm lội cũng phái chịu trách nhiệm về hành vi
phạm tội đang bị cáo buộc. Bào chữa là lổng thể các hoạt dộng tố lụng nhằm
bác bỏ sự buộc tội, khẳng định sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, hoặc chứng minh tính khơng liên quan của mình với hành vi phạm tội
dang bị xem xét của chủ thể khác bị buộc tội. Xét xử là hoạt dộng của Hội
đồng xét xử trên cơ
RỞ
thủ tục nhất định căn cứ vào kết quả tranh tụng của
chủ thể buộc lội và bào chữa tranh tụng với nhau, liến hành đánh giá chứng
cứ theo những nguyên tắc của pháp luật ra phán quyết giải quyết vụ án. Trong
đó chức năng xét xử không thể bao gồm cả việc buộc tội hoặc hào chữa.
Nội dung này cổ ý nghĩa quan trọng, nó phân định rõ chức năng của
từng chủ thể tố tụng. Tranh tụng đòi hỏi các chức năng khác nhau phải do các
chủ thể khác nhau thực hiện, trong dó Tồ án chỉ thực hiện chức năng xét xử.
Nhận xét về vai trị của Tồ án trong mơ hình tố tụng tranh lụng hình sự, tác
giả Nguyễn Đức Mai viết: "Sẽ là sai Ìầiiì nếu cho rằng các chức nõnạ của Toờ
án không chỉ là xét xứ mà bao gồm cá buộc tội và bào chữa nữa... Toà án
phải làm sáng tỏ tất cở nhũlig tình tiết của vụ án (cở tình tiết buộc tội vờ gỡ
tội) nhưng không phải đ ể buộc tội hoặc gỡ tội đối với bị cáo mờ lĩliằm xác
định sự thật khách quan của vụ án, đ ể có quyết đinh đúng đắn về vụ án, tức lờ
dê thực hiện chức nâng xét xử. Việc xác định khơn ạ chín h xác chức nânẹ của
Tồ án trong tỏ lụng hình sự s ẽ làm cho Ttìù án mất di vai trò của người
Trọng tời dứng giữa hai bên đê phân xử, dồng thời s ẽ biến Toà án thành một
câng t ế viên hoặc một Luật sư hào cììữa thứ hơi tronẹ tranh tụnq. Diều dó sẽ
dẫn đêh sự bất hình đẳng giữa bên buộc tội vờ bên bào chữa, làm cho q
trình tranh tụng khơng dạt được mục đích của mình lờ xác định sụ' thật khách
quan vụ á n ” [30].
Với tư cách là trọng tài trong tố tụng tranh tụng Tồ án phải có thái (tộ
khách quan cống minh không dược phép định kiến với bất kỳ bên nào. Trong
quá trình xét xử với vụ án, Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) phải
được độc lập và không dược biểu ỉộ chính kiến của mình về những vấn đề
thuộc nội đung của vụ án mà mình dang giải quyết, cũng như với các chứng
cứ đang xem xét, nếu như việc biểu lộ chính kiến đó ngồi phạm vi của q
trình nghị án. Những vấn đề đã nêu từng thành viên của HĐXX cũng như
tồn bộ HĐXX chí được xem xét và quyết định trong phịng nghị án bằng
trình tự biểu quyết theo da số, chính kiến dược kết luận bằng biểu quyết phải
được thể hiện trong bản án tuyên công khai trong phiên tồ (trừ những vấn tỉề
khóc được giải quyết tại phỏng nghị án).
Nội dung thứ hai của nguyên lắc tranh tụng là các bên buộc lội và bào
chữa phải tích cực thu thập, trình bày chứng cứ một cáclì có hiệu quả nhất,
thuyếl phuc nhất trước ton vì ,Tồ án giữ vai trị là trong tnì ncn vai trị củíi
Ị
THƯ VIÊ N
: 1RƯỜNG ĐẠI HỌC LỦẦT HÀ NỘ!
; PHỊNGĐOC x m
=;j
Tồ án khơng phải là tìm kiếm chứng cứ mà chủ yếu giữ vai trò lãnh đạo. Cơ
sở của nội dung này là tranh tụng trong TTHS thường được coi là cái thay thế
cho sự trả thù cá nhân, theo như suy luân của xã hội thì quyền khởi kiện trước
hết thuộc về người bị hại sau dó chuyển dần sang Nhà nước. Q trình thực
hiện việc buộc tội đó diễn ra trước một công chứng vô tư, khách quan như
Trọng tài (Thẩm phán). Các bên tranh chấp: Nhà nước và các bên bị buộc tội
xét xử theo kiổu tranh cãi nên
quá
1lình xét xử được coi là kiểu đối lụng f2 6 Ị.
Do đó, các bên có nghĩa vụ chứng minh cho ý kiến của mình bằng mọi cách
mà pháp luật cho phép. Toà án là trọng tài nên Toà án chỉ phán quyết theo "sự
thật" và "lẽphái" của bên có cơ sở thuyết phục.
Nội d u n g th ứ ba của nguyên tắc tranh tụng là các bên buộc tội và bào
chữa bình dẳng trong tiến trình tranh tụng. Đó là sự thừa nhận khả năng như
nhau của các bên trọng hoạt dộng chứng minh, trong việc đưa ra những yêu
cầu và giải quyết những yêu cẩu đó trước tồ. Sự bình đẳng của các bên
trong TTHS là cơ sở cho các bên thực hiện chức năng tố tụng của mình, tức
là cơ sở để xác định tư cách tố tụng của các chủ thể tố tụng, nó tạo ra một
khả năng không thiên vị trước một trọng tài vơ tư. Sự bình đẳng giữa các bên
trong tranh tụng khơng phải là sự bình đẳng thực tế về địa vị pháp lý giữa
các bên tham gia tố tụng, cũng khơng có nghĩa là các bên có quyền hạn và
nghĩa vụ như nhau. Bởi lẽ bên buộc tội và hên bào chữa thực hiện các chức
năng khác nhau trong tố tụng, một bên có thể sử dụng quyền năng của mình
hoặc khơng sử dụng quyền ấy (bên bào chữa). Nhưng bên kia để thực hiện
chức năng của mình vẫn phải thực hiện quyền năng pháp luật giao cho (bên
buộc tội).
Muốn có được khả năng thực tế chứng minh cho các u cầu, ý kiến của
mình thì phải có phương tiện. Bình đấng trong TTHS cịn bao hàm việc bình
dẳng trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật giành cho mỗi chù thể
à mỗi giai đoạn của TTHS, các phương liện của các bên khổng phải là giống
nhau mà đòi hỏi phải lương xứng với nhau. Phải phù hợp với chức năng của
mỗi bên. Sẽ trở nên bất bình đẳng ngay trong pháp luật (điểm xuất phát) khi
pháp luật giành cho một bên quá nhiều phương tiện cịn bên kia q ít phương
tiện để thực hiện chức năng của mình. Các phương tiện đó chính là các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể buộc tội và hào chữa (Vmỗi giai đoạn tố tụng cụ
(hể. Xác định đúng các phương tiện chính là xác định chính xác, (1Ày (lủ và cụ
thể giới hạn , nội dung của các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, dồng thời
pháp luật phái xác (tịnh cho (tược C(i chê b;’to (lảm thực tế cho các quyền (16
clirực thực liiện.
Nếu Iilnr hình tlíuig trong liit (lộng chứng minh mới chí líU) ra các gia
thiết dể chủ thể lài phán XC111 XỔI, chu thổ lài phán là mội trọng tài tliiổn vị thì
giá thiết dó có cơ sở đốn clAu cũng (lirợe xốp ra hơn lề CIIÍI phán quyết mang
trong bản tliAn nó sự
t h iê n
vị. Sự hình cỉầtig của
CÍÍC
bên trong tiến
trình
tranh
tụng có nội dung bảo dam là: Sự thửa nhận klìà năng như nhan n ĩa các bèiì
trong việc dưa ra những yêu cầu và !>i(íi quyết những yêu cầu âó trước toi).
Quyền đưa ra các u Cíìu trong tranh lụng là cơ sơ tổn tại của nội dung tranh
tụng, điều đó thể hiện một bên (hân Iiày) đưa ra các yêu cầu thể hiện bằng các
đề nghị, nhận xét lập luận., thì bên kia cũng phải đáp lại yêu cầu đó. Đáp lại
yêu cầu của chủ thể thực hiện chức năng đối trọng có thể bằng một trong hai
cách hoặc là chấp nhận yêu cầu đó hoặc là bác lại yêu cầu dỏ. Phạm vi của
các yêu cầu chỉ dược coi là hợp pháp khi các yêu cầu đó đề cập đến những
nội dung cụ thể nào đó của vụ án dang được xem xét. Toà án và các chủ thể
giữ chức năng đối trọng (thường là chủ th ể buộc tội) phải chấp nhận những
yêu cáu nêu ra nếu phạm vi của các yêu CÀU đề cập không ngoài nội dung cụ
thể của vụ án dang được xem xct. Việc không chấp nhận một yêu
CÀU
hợp
pháp của một hên trong các hên tranh lụng là vi phạm nghicm trọng nguyên
tắc tranh tụng, bởi vì như vây là trực tiếp hác bỏ sự tồn tại, vân (lộng và clAii
tranh cua hai chức năng dối trọng với nhan vó quyền ngang nhau: chúc năng
ý kiên, lập luận của phía đối trọng. Tồ án điều khiển phiên (ồ, tích cực làm
sáng tỏ tình tiết của vụ án và phan xử ị36, Tr 1- 2)|.
Quan điểm thứ hai cho ràng: Tranh lụng hình sự là một nguyên tắc của
TTHS có ở một số giai đoạn của 7THS (giai (loạn khởi tố, diêu tra, lìiiy lố,
xét x ử sơ thơm và xét .xứ phúc thẩm). Nội dung của nó là q trình tồn tại, vận
động và dấu tranh giữa hai chức năng dối trọng với nhau, có quyền ngang
nhau trong việc háo vệ các ý kiến, !Ạp luận lợi ích của mình, bác bỏ ý kiến,
lập luận lợi ích của phía hên kia. Tranh lụng là một q trình và sự xuất hiện
của Tồ án trong quá trình này chỉ là sự xác nhận sự tranh lụng đã lên đến
đỉnh điểm địi hỏi phải có
trọng
tài giải quyết, trả lời câu hỏi: Ai là người
chiến thắng trong cuộc tranh dấu về chân lý? [47, Tr . 23].
Qnơii điểm thứ ba cho rằng: Nội dung của tranh tụng như quan điểm thứ
hai, song mở rộng phạm vi tranh tụng có ở mọi giai đoạn của tố tụng hình sự
(kể cả giai đoạn xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm) [35, Tr .7- 8 Ị.
Chúng tôi ctồng ý với quan điểm thứ hai hởi vì theo quan điểm thứ nliấl
thì nguyên tắc tranh tụng được hiểu là cách thức tổ chức phiên toà, phạm vi
tranh tụng chỉ dừng lại ở phạm vi tranh tụng tại toà, như vậy là 11Ó phủ định sự
tranh tụng thực lế giữa hai chức năng buộc lội và bào chữa ở những giai đoạn
trước khi xét xử. Nhận xct về phạm vi lổn tại của quá trình vận động và dâu
tranh giữa hai chức năng đối trọng nhau, chức năng buộc tội và bào chữa.
PGS.TS Phạm Hổng Hải viết: "Trong tố lụn ^ hình sự, việc buộc tội tÍMỢc thực
hiện ở những cấp độ khác nhau. Khi một người bị bắt giữ bởi quyết dinh bắt,
quyết dinli tạm giỉĩ tức là họ dỡ bị buộc tội. Trong giai đoạn điều trơ một
người bi buộc tội bơi quyết dịiĩh khơi tố bi can, Iroỉig giai ỔOỢÌ1 Inty tố một
người bị buộc tội bởi cáo lrạni> vờ íroiìiỊ ỳ ai đoạn xét xử một IHỊÌÍỞÌ bị buộc
tội bởi bản án của toờ án" [ 16, Tr . 128 Ị. Rõ ràng quan điểm lliír nhai khổng
thuyết phục ở giác độ lý luận cũng như thực liễn pháp luệt liiện lùmh. Thừa
nhận nguyên tắc tranh lụng ớ ca những giai đoạn trước xét X11' sơ lliíiím, pliúc