B ộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
B ộ T ư PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HÀ MINH HẢI
CHỨC NÃNG, NHIỆM vụ CỦA KIỂM SÁT VIÊN
*
m
m
TRONG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA s ơ THẨM HỈNH s ự
MỘT SÔ VẤN ĐÊ LÝ LUÂN VÀ THƯC TIỄN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS NGUYỄN đ ứ c m a i
. T H Ư VI Ệ N
ĩ RƯƠNG ĐAI HO C [ Ú Â ĩ HA N ổ l
P H O , i 0 -;c
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
1
Chương 1. Khái quát về tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình
sự và quy định của BLTTHS hiện hành về chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng
5
tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
1.1. Khái quát về tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự
5
1.2. Quy định của BLTTHS hiện hành về chức năng, nhiệm vụ
của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm
18
hình sự
Chương 2. Thực trạng và một sô giải pháp nhằm náng cao chất
lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
23
Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự
2.1. Thưc trang thưc hiên chức năng, nhiêm vu của Kiểm sát
viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
23
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong
tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
50
Kết luận
56
Tài liệu tham khảo
59
1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tranh tụng tại phiên toà là một nội dung quan trọng trong quá trình xét
xử vụ án hình sự tại tồ án. Thơng qua tranh tụng tại phiên tồ các chứng cứ,
các tình tiết về vụ án được kiểm tra, xác minh thông qua việc xét hỏi và tranh
luận giữa các bên giúp cho Hội đồng xét xử xác định đúng đắn, toàn diện sự
thật khách quan của vụ án, làm cơ sở để ra bản án hoặc quyết định bảo đảm
đúng pháp luật, tránh oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Đối với
những người tham gia tố tụng, tranh tụng tại phiên toà giúp cho họ có thể bảo
vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích họp pháp của mình hoặc của người mà
mình đại diện hoặc bảo vệ.
Chính vì ý nghĩa rất quan trọng của tranh tụng tại phiên toà nên Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trong tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã
khẳng định sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tranh tụng và mở rộng tranh
tụng dân chủ tại phiên toà. Với vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự, Kiểm sát viên cũng là một chủ thể chính của bên buộc tội
tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên tồ. Do vậy, để nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tồ trước hết địi hỏi phải nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên với tư cách là
chủ thể của một bên tham gia tranh tụng.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự cịn
có nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động tố
tụng hình sự nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói
riêng. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ hoại động thực hiện chức năng,
2
nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập và vướng mắc để từ đó đưa ra các giải
pháp hữu hiệu nhằm khắc phục, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự nói chung và trong tranh tụng tại
phiên tồ sơ thẩm hình sự nói riêng, đáp ứng kịp thời yêu cầu cải cách tư pháp
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Những nội dung nêu trên chính là lý do để tác giả lựa chọn vấn đề
“Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại p hiên tồ sơ
thẩm hình sự - M ột sô vần đ ề lý luận và thực tiễn” làm đề tài Luận văn thạc
sỹ Luật học của mình với mong muốn được góp phần nhỏ bé làm phong phú
thêm về mặt lý luận cho khoa học luật tố tụng hình sự và hồn thiện thêm các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đồng thời góp phần đáp ứng
yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng và mở rộng tranh tụng tại phiên toà do
cải cách tư pháp đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý đã có một số cơng trình
nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến đề tài như: “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình
sự” (1997), Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Xuân Thanh; “Nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự” (1998),
Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Văn Oanh; “Hoạt động của Viện kiểm
sát trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (2001), Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Tiến Thắng;
“Kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” (2004), Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thu H uệ;....
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết xung quanh vấn đề này của các tác giả
khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, phần lớn những cơng
trình nói trên nghiên cứu vấn đề trước khi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 được ban hành và chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về
3
chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh lụng tại phiên tồ sơ thẩm
hình sự. Trong q trình thực hiện đề tài của mình tác giả tham khảo các cơng
trình nói trên nhằm làm phong phú thêm cho nội dung của đề tài nghiên cứu.
3. Mục đíeh và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* M ục đích nghiên cứ u : Tác giả nghiên cứu đề tài với mục đích làm
sáng tỏ về mặt lý luận chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh
tụng tại phiên toà, và các quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự;
phân tích những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên tại phiên tồ sơ thẩm hình sự và ngun
nhân. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những vướng
mắc và hạn chế đó nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm
hình sự.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn trong
nội dung về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên
tồ sơ thẩm hình sự, bao gồm một số vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề
tranh tụng trong tố tụng hình sự, quy định của BLTTHS hiện hành về chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình
sự và thực tiễn hoạt động của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự những năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Hệ thống, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực tiễn, so
sánh,...
5. Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của đề tài
Cơ sở khoa học của đề tài là Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về xây
4
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là các quy định của BLTTHS hiện hành và
thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật này về chức năng, nhiệm vụ của
Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đê tài
Với mục đích và phạm vi nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu
được đặt ra là làm sáng tỏ về mặt lý luận tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình
sự; các quy định của BLTTHS về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên
trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự đồng thời phân tích những bất
cập, hạn chế của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vấn đề này cũng như
thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên để từ đó
đề xuất phương hướng và các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
7. C ơ cấu của Luận văn
Ngồi Lời nói đầu, Kết luận và Danh mực tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu gồm 2 chương:
Chương 1. Khái quát về Iranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự và quy
định của BLTTHS hiện hành về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong
tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
Chương 2. Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại
phiên tồ sơ thẩm hình sự.
5
CH Ư Ơ N G 1
K H Á I Q U Á T V Ể T R A N H T Ụ N G T Ạ I P H IÊ N T Ò A
S ơ T H Ẩ M H ÌN H S ự V À Q U Y Đ ỊN H C Ủ A B L T T H S H IỆ N H À N H
V Ể CHỨ C N Ă N G , N H IỆ M v ụ C Ủ A K IE M s á t v i ê n t r o n g
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA s ơ THAM
h ìn h
sự
1.1. KHÁI QT VỂ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA s ơ
THẨM HÌNH S ự
1.1.1. Khái niệm về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự
Tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự là một phạm trù pháp lý phản
ánh một phương thức, một hoạt động nhằm giải quyết vụ án hình sự trong quá
trình tố tụng hình sự. Để hiểu được khái niệm này cần tìm hiểu các hệ tố tụng
hình sự cơ bản dưới đây.
Trên thế giới có hai hệ tố tụng hình sự cơ bản là tố tụng tranh tụng và tố
tụng thẩm vấn. Hệ tố tụng tranh tụng được sử dụng rộng rãi ở các nước theo
truyền thống luật án lệ như Anh, Mỹ và một số quốc gia khác. Còn hệ tố tụng
thẩm vấn được áp dụng phổ biến ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu
lục địa.
* H ệ tơ tụng tranh tụng:
Có thể khái quát về hệ tố tụng tranh tụng như sau: Sau khi hoàn tất việc
điều tra đối với vụ án hình sự có tính chất ít nghiêm trọng, việc truy tố bị can
ra trước toà án để xét xử do chính Cơ quan điều tra thực hiện (thơng thường là
những tội có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó đến 5 năm tù),
khi đó việc xét xử chỉ cần có một Thẩm phán. Nếu là tội nghiêm trọng và bị
cáo nhận tơị thì hồ sơ vụ án sẽ được chuyển cho Cơ quan công tố để truy tố bị
can ra trước Tòa án để xét xử theo thủ lục rút gọn, khơng có Bồi thẩm đoàn
6
tham dự. Trường hợp bị can không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có
Bồi thẩm đồn thì vụ án sẽ được Cơ quan cơng tố truy tố ra Tòa án để xét xử
với một Thẩm phán và Bồi thẩm đồn. Trong q trình xét xử, các bên buộc
tội và gỡ tội (Công tố viên và Luật sư biện hộ) tự xét hỏi đưa ra chứng cứ và tự
bảo vệ quan điểm của mình. Thẩm phán có vai trò điều hành mọi hoạt động tố
tụng, hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật
nội dung. Việc quyết định bị cáo có tội hay khơng hồn tồn thuộc quyền của
Bồi thẩm đồn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó Thẩm phán sẽ là người
quyết định hình phạt. Nếu bị cáo được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt và Cơ
quan công tố cũng không được quyền kháng nghị phúc thẩm theo hướng bị
cáo có tội, vì ngun tắc của Hiến pháp không cho phép xét xử hai lần đối với
một bị cáo về cùng một tội. Việc xét xử phúc thẩm chỉ định ra khi có liên
quan đến việc xác định tội danh hoặc lượng hình. Như vậy, có thể thấy rằng hệ
tố tụng tranh tụng có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trong tố tụng tranh tụng Tòa án giữ vai Irò thụ động và trung
lập. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi Tòa án phải kiềm chế tham gia tìm hiểu về nội
dung vụ án. Nếu Tịa án tham gia tích cực vào vụ án, nhất là xét hỏi tại phiên
tịa thì Tịa án bị xem là một bên tranh chấp và như vậy sẽ không bảo đảm
côpg lý .
Thứ hai, tố tụng tranh tụng địi hỏi các bên phải trình bày chứng cứ. Do
vai trò thụ động và trung lập của Tòa án, các bên buộc tội và gỡ tội phải tự tìm
kiếm và trình bày chứng cứ một cách có hiệu quả nhất, thuyết phục nhất trước
Tịa án. Do có sự phức tạp của các nguyên tắc tố tụng, luật chứng cứ và luật
nội dung nên các bên tham gia tranh tụng thường khơng thể tự mình mà nhờ
sự giúp đỡ của đội ngũ Luật sư đại diện để tiến hành các hoạt động tố tụng,
đặc biệt là ở tại phiên tòa.
Thứ ba, tố tụng tranh tụng có những quy tắc rất khắt khe chi phối toàn
bộ các hoạt động tố tụng như quy tắc chứng cứ, quy tắc về ứng xử của Luật
7
sư,... Trong đó quy tắc về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó đảm bảo sự
cơng bằng trong tranh tụng.
Ngồi ra, tố tụng Iranh lụng cịn có điểm khác biệt đáng lưu ý so với
các hệ tố tụng khác đó là yếu tố thú tội và mặc cả nhận tội. Do tính chất khắc
nghiệt của tranh tụng, các Cơ quan cảnh sát và Công tố nhiều khi không thể
tìm ra đủ chứng cứ để buộc tội một cách thuyết phục khi truy tố bị cáo tại
phiên toà. Do vậy, luật pháp khuyến khích bị cáo nhận tội, khai báo hay cung
cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố hoặc
giảm hình phạt,... Cơ chế này tác động tới trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận
tội dù ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì toàn bộ thủ tục tố tụng
đối với vụ án sẽ được thay đổi theo hướng khơng cịn tranh tụng nữa và lúc đó
Thẩm phán sẽ kiểm tra lại hổ sơ vụ án và quyết định hình phạt.
So với hệ tố tụng thẩm vấn, hệ tố tụng tranh tụng có một số ưu điểm
được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, quyền quyết định giải quyết vụ việc theo cách nào, trình tự
nào thuộc về người bị hại và những người thân thích, người đại diện của họ.
Như vậy quyền và lợi ích của cá nhân tham gia tranh tụng được tôn trọng và
bảo đảm thực hiện ở mức độ cao nhất.
Thứ hai, phương pháp được sử dụng trong tranh tụng là phương pháp
đối tụng, có nghĩa là trách nhiệm chứng minh được đặt ra cho cả hai bên - bên
buộc tội và bên gỡ tội, do đó hoạt động tranh tụng có tính chất chủ đạo là
khách quan cơng bằng.
Thứ ba, trong hệ tố tụng tranh tụng, phương pháp đối tụng cho phép sử
dụng việc kiểm tra chéo nhau giữa các bên để xác định tính đúng đắn của các
lời khai và chứng cứ. Các bên đều có quyền xét hỏi và đưa ra ý kiến của mình
về mọi vấn đề có liên quan đến vụ án. Bên buộc tội và bên gỡ tội đều có nghĩa
vụ chứng minh, các quyền của mỗi bên phát sinh từ nghĩa vụ này là ngang
nhau. Do đó có thể khẳng định giữa các bên tham gia tranh tụng tại phiên toà
8
hồn tồn bình đẳng với nhau về khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ
trong tranh tụng.
Bên cạnh những ưu điểm đã kể trên, hệ tố tụng tranh tụng cũng có
những hạn chế nhất định dưới đây:
Thứ nhất, do quyền lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp rất rộng,
nên việc kiểm sốt tội phạm từ phía nhà nước sẽ rất khó khăn, phức tạp, nhà
nước chỉ nắm bắt được tình hình tội phạm trong phạm vi cơng tố.
Thứ hai, do nghĩa vụ chứng minh được chia đều cho cả hai bên tham gia
tranh tụng tại phiên toà, Thẩm phán dường như chỉ đảm nhiệm vai trò của
trọng tài với quyền đưa ra phán quyết về chứng cứ của các bên. Như thế phán
quyết của Toà án chịu sự quyết định của kết quả đối tụng và hoàn toàn phụ
thuộc vào khả năng chứng minh của mỗi bên và điều này dẫn đến khả năng
phải chịu oan sai của cả hai bên trong tranh tụng cũng rất cao.
Như vậy, nếu xét theo tiêu chí bảo vệ lợi ích của cá nhân, thì hệ tố
tụng tranh tụng có rất nhiều ưu điểm. Nhưng nếu xét theo tiêu chí khác - tiêu
chí bảo vệ lợi ích của xã hội và nhà nước thì nhược điểm của hệ tố tụng này
lại rất lớn.
* Hệ tô tụng thẩm vấn:
Hệ tố tụng thẩm vấn được áp dụng phổ biến ở các nước Châu Âu lục địa
và có nhiều điểm khác biệt so với hệ tố tụne tranh tụng. Có thể khái quát hệ tố
tụng này như sau: Sau khi tội phạm được phát hiện, Cơ quan điều tra tiến hành
điều tra để tìm ra người phạm tội, làm rõ các tình tiết có liên quan đến vụ án.
Sau đó hồ sơ vụ án được chuyển cho Viện cơng tố. Đối với những tội tiểu
hình, vụ án sẽ được Toà án tiến hành xét xử bởi một Thẩm phán hoặc có cả
Hội thẩm tham gia. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can và quyết định truy tố
thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Viện công tố cũng là cơ quan chỉ đạo
hoại động điều tra của Cảnh sát điều tra.
9
Đối với tội đại hình, sau khi sơ bộ kết thúc điều tra, hồ sơ sẽ được
chuyển cho Thẩm phán điều tra xem xét yếu tố chứng cứ đã đủ để đưa ra
phiên toà hay chưa. Thẩm phán điều tra có quyền đề ra những yêu cầu điều tra
bổ sung đối với Cảnh sát và Cơ quan công tố. Trong trường hợp nếu Viện
công tố quyết định truy tố bị cáo ra trước Toà án, vụ án sẽ được xét xử bởi một
Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm. Phiên tồ bắt đầu bằng
việc Cơng tố viên đọc cáo trạng, mô tả hành vi phạm tội của bị cáo và tội danh
mà Viện công tố truy tố. Thẩm phán sẽ hỏi bị cáo, những người làm chứng,
xem xét vật chứng,... Công tố viên và Luật sư cũng có quyền hỏi bị cáo,
những người làm chứng về những vấn đề mà họ cho là cẩn thiết trong việc
buộc tội và gỡ tội. Bị cáo và Luật sư bào chữa cũng có quyền hỏi lại hay đối
chất với người làm chứng, Công tố viên. Hội thẩm thường chỉ hỏi sau khi
Thẩm phán và các bên đã hỏi xong. Trong q trình thẩm vấn, Cơng tố viên và
Luật sư bào chữa đều có quyền đưa ra những lập luận, kết luận của mình về
những tình tiết của vụ án trước khi bị cáo nói lời sau cùng và Hội đồng xét xử
nghị án. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo do Toà án
xem xét, quyết định theo đề nghị của Viện công tố nhưng Luật sư bào chữa
hoặc bị cáo vẫn có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của hệ tố tụng thẩm vấn là: Các cơ quan tố
tụng đều làm nhiệm vụ buộc tội và gỡ tội; việc xét xử tại phiên toà cũng là
một giai đoạn tiếp tục cuộc điều tra để tìm ra sự thật của vụ án; Tồ án có vai
trị tích cực và chủ động trong việc tìm ra sự thật bằng cách có thể tự tiến hành
điều tra, thu thập chứng cứ; Viện cơng tố có vai trị quan trọng trong q trình
điều tra và truy tố (có thẩm quyền phê chuẩn việc khởi tố vụ án, trực tiếp điều
tra và chỉ đạo mọi hoạt động điều tra của cảnh sát,...)
So
sau đây:
với hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng thẩm vấn có một số ưu điểm
10
Thứ nhất, do phạm vi công tố rất rộng, được thực hiện gần như ở tất cả
các vụ án hình sự nên tố tụng hình sự gần như khơng nằm trong khả năng định
đoạt của cá nhân, cho nên khả năng kiểm sốt tội phạm từ phía nhà nước rất
cao, điều này rất có lợi cho việc thực hiện chính sách đấu tranh phòng chống
tội phạm và hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.
Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự được giao cho chủ
thể tiến hành tố tụng còn chủ thể tham gia tố tụng có quyền mà khơng buộc
phải chứng minh, do đó việc tiến hành tố tụng được thực hiện bởi cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng rất thuận lợi, dễ dàng. Cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có tất cả các quyền phát sinh từ nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng hình sự.
Thứ ba, trong hệ tố tụng thẩm vấn, Toà án không chỉ là người trọng tài
thụ động đưa ra phán xét mà cịn có vai trị tích cực và chủ động làm sáng tỏ
sự thật của vụ án trước khi đưa ra phán quyết để giải quyết vụ án hình sự. Đây
là một điều kiện quan trọng để hạn chế nguyên nhân khách quan dãn đến oan
sai cho các bên tham gia tranh tụng do chân lý không phụ thuộc hoàn toàn vào
năng lực chứng minh của các bên.
Bên cạnh những ưu điểm trên, tố tụng hình sự thẩm vấn cũng có một số
nhược điểm nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất, do phạm vi tư tố rất hạn chế, người bị hại hoặc người đại diện
của họ chỉ có quyền quyết định việc tố tụng trong rất ít trường hợp cho nên
quyền và lợi ích của cá nhân dường như bị hạn chế.
Thứ hai, do nghĩa vụ chứng minh được giao trọn cho cáccơ quan
tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng nên tính chất đối tụng bình đẳng giữa
các bên khơng nhiều. Các phán quyết do Tồ án đưa ra có thể khơng cơng
bằng nếu khơng bảo đảm khách quan tuyệt đối.
Từ những nội dung và đặc điểm của hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng
tranh tụng như đã trình bày trên, có thể rút ra một số điểm khác biệt cơ bản
giữa hai hệ tố tụng này như sau:
Thứ nhất, hệ tố tụng thẩm vấn coi trọng hoạt động đối tụng trong giai
đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ nhằm đảm bảo tính cơng
bằng của việc xét xử. Cịn hệ tố tụng thẩm vấn lại nhấn mạnh phương pháp
điều tra, thẩm vấn trong tồn bộ q trình tố tụng nhằm đảm bảo tính chính
xác đối với các phán quyết của Tồ án.
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng Tồ án giữ vai trị trọng tài và trung
lập, không trực tiếp tham gia điều tra, xét hỏi và làm sáng tỏ vụ án tại phiên
toà. Ngược lại, trong tố tụng thẩm vấn, Toà án có vai trị tích cực và chủ động
tham gia vào quá trình này.
Thứ ba, trong hệ tố tụng tranh tụng, yếu tố cá nhân với các quyền và
nghĩa vụ tố tụng được coi trọng hơn cả. Ngược lại, trong hệ tố tụng thẩm vấn,
trách nhiệm, nghĩa vụ tố tụng cơ bản thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng còn đối với cá nhân chỉ trong phạm vi rất hạn chế.
Xem xét cả hai hệ tố tụng cơ bản nêu trên một cách khách quan, có thể
thấy rằng yếu tố tranh tụng tổn tại cả trong hệ tố tụng tranh tụng và trong hệ
tố tụng thẩm vấn. Điều này có thể clưực lý giải như sau:
Trong quá trình phát triển của mình, các hệ thống tố tụng đã tác
động lẫn nhau và đã có những sự trao đổi, tiếp nhận một số yếu tố của
nhau. Chẳng hạn, trong hệ tranh tụng cũng đã chấp nhận việc dùng
Công tố viên Nhà nước thực hiện việc truy tố thay cho Đại bồi thẩm
đồn, vai trị của Thẩm phán cũng đã được nâng lên trong một số lĩnh
vực như hướng dẫn thương lượng, buộc tội hay xác định Bồi thẩm đoàn
được phép xem xét những vật chứng, nhân chứng nào. Cịn trong hệ
thẩm vấn, tranh luận trong phiên tồ xét xử đã dần có các tính chất của
tranh tụng [12].
Tuy nhiên, yếu tố tranh tụng trong hệ tố tụng tranh tụng và trong hệ tố
tụng thẩm vấn có sự khác nhau rất rõ rệt về mức độ và sự ảnh hưởng của nó.
Trong hệ tố tụng tranh tụng yếu tố tranh tụng giữ vai trò chủ đạo đối với quá
12
trình tố tụng. Ngược lại trong hệ tố tụng thẩm vấn, yếu tố tranh tụng chỉ tồn tại
ở một mức độ nhất định và khơng có vai trị chủ đạo đối với q trình tố tụng.
* H ệ tơ tụng hình sự của V iệt Nam:
Tố tụng hình sự của nước ta hiện nay cũng được xem là kiểu tố tụng
thẩm vấn nhưng có kết hợp một số yếu tố hợp lý của tố tụng tranh tụng nhằm
bảo đảm quyền dân chủ của công dân và giúp cho các cơ quan tiến hành tố
tụng đạt được hiệu quả trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Có thể khái quát về tố tụng hình sự của nước ta như sau: Khi có sự kiện
phạm tội xảy ra, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra và đề nghị truy tố gửi
đến Viện kiểm sát. Viện kiểm sát sẽ xem xét, quyết định truy tố bị can ra
trước Toà án bằng bản cáo trạng. Tồ án có nhiệm vụ xét xử và bản án sẽ được
chuyên cho Cơ qưan thi hành án thi hành.Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn thơng thường do Cơ quan điều tra thực hiện, có sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát. Điều đặc biệt so với hệ tố tụng của các nước khác là trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Viện kiểm sát vừa thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố, vừa thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự.
Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, đề ra yêu cầu, phê chuẩn việc
khởi tố bị can, việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn,...
Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đổng xét xử và những người tham
gia tố tụng, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, khơng làm oan người vơ tội.
Tại phiên tồ, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, tranh tụng với
Luật sư, người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bằng
việc đối đáp từng vấn đề cần giải quyết trong vụ án mà những người tham gia
13
tố lụng đặt ra khi tranh luận. Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng,
nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền và lợi ích có liên quan để
ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và phù hợp với thủ
tục pháp luật quy định.
Luật sư, người bào chữa của bị can, bị cáo được tham gia vào quá trình
tố tụng từ khi bị tạm giữ, tạm giam, được tham gia vào việc hỏi cung bị can,
nghiên cứu hồ sơ vụ án, đưa ra chứng cứ và tranh luận dân chủ tại phiên toà
với Kiểm sát viên, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
Tố lụng hình sự ở nước ta có nhiều điểm tương đồng với tố tụng thẩm
vấn ở các nước Châu Âu lục địa, các cơ quan tố tụng khơng chỉ có chức năng
buộc tội mà có cả chức năng gỡ tội cho bị cáo. Tuy nhiên, có một sự khác biệt
lớn về vai trị và vị trí của Viện cơng tố - Viện kiểm sát. Ớ nước ta Viện kiểm
sát là cơ quan của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Cịn Viện cơng
tố ở các nước theo hệ thống tố tụng thẩm vấn nói chung thường được đặt dưới
sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự
khác nhau về địa vị pháp lý giữa Viện kiểm sát ở nước ta và Viện cơng tố ở
các nước.
Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay đang phát triển theo hướng tăng
cường hơn nữa các yếu tố của tranh tụng và mở rộng tranh tụng tại phiên tồ giai đoạn trung tâm của q trình tố tụng thể hiện rõ nét nhất bản chất của
tranh tụng trong tố tụng hình sự. Thực chất đây là việc mở rộng hơn các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia tranh tụng kèm theo các điều kiện
cần thiết để bảo đảm hiệu quả hoạt động xét xử của Tồ án. Điều đó hồn tồn
phù hợp với yêu cầu khách quan nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân đang đặt ra ngày càng cao trong giai đoạn
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc tãng cường hơn nữa các yếu tố của
14
tranh tụng và mở rộng tranh tụng khơng có nghĩa là pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam đã ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, dù có được ghi nhận hay khơng thì ngun tắc tranh tụng nếu có “vẫn
tồn tại khách quan khơng phụ thuộc vào việc chúng ta có thừa nhận hay phủ
nhận sự tồn tại của nó” [13].
Xem xét hai hệ tố tụng cơ bản trên thế giới là hệ tố tụng thẩm vấn và hệ
tố tụng tranh tụng cũng như hệ tố tụng hình sự Việt Nam cho thấy các yếu tố
của tranh tụng được thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau trong tất
cả các kiểu tố tụng đó. Điều đó thể hiện bản chất của tranh tụng trong tố tụng
hình sự nói chung và tranh tụng tại phiên tồ hình sự nói riêng. Đây cũng là cơ
sở để đưa ra một khái niệm tương đối đầy đủ, hoàn chỉnh về tranh tụng tại
phiên tồ sơ thẩm hình sự.
Xét về ngữ nghĩa, tranh tụng là đấu tranh trong tố tụng và đương nhiên
là tố tụng hình sự. Sự đấu tranh trong tố tụng có chủ thể, nội dung và mục đích
rõ ràng được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Tranh tụng trong tố
tụng hình sự là một q trình có mở đầu, diễn tiến và kết ihúc, tồn tại gần như
xuyên suốt quá trình tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình
sự. Tranh tụng tại phiên toà là tranh tụng trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự,
là giai đoạn thể hiện ró nét nhất, tập trung nhất bản chất của tranh tụng trong
tố tụng hình sự. Ở đâu có buộc tội, ở đó có gỡ tội và đó là tính chất cơ bản của
tranh tụng. Do vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự tồn tại ở cả hai cấp xét xử
(ở phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm), trong đó tranh tụng tại phiên tồ
sơ thẩm là tranh tụng ở cấp xét xử đầu tiên có cùng bản chất với tranh tụng
trong tố tụng hình sự.
Từ phân tích trên, có thể rút ra khái niệm tranh tụng tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự như sâu:“Tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự là một
phương thức xác định sự thật khách quan của vụ án tại phiên toà sơ thẩm hình
sự, được tiến hành bởi các bên chủ th ể nhằm bảo vệ ỷ kiến, quan điểm, các
15
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc cho người mà mình đại diện hoặc
bảo vệ”.
Một vấn đề cũng cần được làm rõ trong nội dung của khái niệm trên là
chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. v ề cơ
bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như pháp luật của các nước đều
xác định có ba nhóm chủ thể chủ yếu tham gia vào quá trình tranh tụng tại
phiên tồ, đó là: Bên buộc tội thực hiện chức năng buộc tội; bên bào chữa thực
hiện chức năng bào chữa và Toà án thực hiện chức năng xét xử.
Ở những nước theo hệ tố tụng tranh tụng, chủ thể chính của bên buộc
tội là Cơng tố viên (hoặc Điều tra viên). Theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, thì Kiểm sát viên là chủ thể chính của bên buộc tội giữ
quyền cơng tố trước Tồ án. Quyền cơng tố (buộc tội nhân danh nhà nước)
xuất phát từ chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Thực
hành quyền cơng tố (buộc tội) tại phiên tồ ln là chức năng của Kiểm sát
viên ngay cả trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại. Trên cơ sở chức năng này, khi thực hành quyền công tố tại phiên tồ,
Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được BLTTHS quy định.
Chủ thể chính thuộc bên gỡ tội là bị cáo và người bào chữa (hoặc người đại
diện hợp pháp của bị cáo). Những chủ thể này cùng với các chủ thể của bên
buộc tội là hai nhóm chủ thể cơ bản tạo nên sự tranh tụng tại phiên toà. Các
chủ thể khác bao gồm: Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi (hoặc đại
diện hợp pháp) của đương sự cũng tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên
toà ở một phạm vi nhất định.
Ngoài ra, cịn có người làm chứng, giám định viên, người phiên dịch,...
cũng tham gia vào quá trình tranh tụng tại phiên tồ. Tuy nhiên, các chủ thể
này khơng tham gia vào việc thực hiện các chức năng buộc tội hay gỡ tội mà
để giúp cho các bên và Toà án xác định sự thật khách quan của vụ án.
16
Như vậy, khái niệm về tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự phản
ánh rõ bản chất của tranh tụng trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để làm sáng
tỏ hơn về nội dung của khái niệm này, cần xem xét tranh tụng tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự với tư cách là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
1.1.2. Các giai đoạn của tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
Tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự là sự tiếp diễn và kết thúc của
quá trình tranh tụng trong tố tụng hình sự ở cấp sơ thẩm. Quá trình này cũng
được chia thành những giai đoạn (những phần) khác nhau nhưng không hoàn
toàn độc lập, tách rời nhau. Trong mỗi giai đoạn lại được kết cấu bởi những
bước nhất định. Tổng hợp các bước, các giai đoạn đó tạo ra tồn bộ q trình
tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Cụ thể như sau:
* Giai đoạn xét hỏi tại phiên toà:
Xét hỏi tại phiên toà là giai đoạn đầu tiên của q trình tranh tụng tại
phiên tồ. Trong kết cấu về mặt nội dung của quá trình tranh tụng tại phiên tồ
sơ thẩm hình sự, giai đoạn đầu là xét hỏi vì nó cho phép nêu ra vấn đề và làm
rõ vấn đề trước khi tranh luận tại phiên toà. Giai đoạn xét hỏi theo quy định tại
chương XX - BLTTHS năm 2003 bao gồm những bước sau:
- Thứ nhất, đọc bản cáo trạng (do Kiểm sát viên giữ quyền cơng tố tại
phiên tồ thực hiện - Điều 206).
- Thứ hai, tiến hành xét hỏi theo thứ tự hợp lý (do Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
thực hiện, những người khác tham gia phiên tồ cũng có quyền đề nghị hỏi
thêm). Trong quá trình xét hỏi, bị cáo, người bị hại, người làm chứng, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải trả lời những câu hỏi. Cũng trong
quá trình này Hội đồng xét xử xem xét các vật chứng và các tài liệu khác có
liên quan đến vụ án. Việc xét hỏi chỉ kết thúc khi mọi tình tiết của vụ án đều
đã được xem xét.
17
* Giai đoạn tranh luận tại phiên toà:
Tranh luận tại phiên toà là giai đoạn thứ hai và là cũng là giai đoạn kết
thúc của quá Irình tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Do vậy tranh luận
và tranh tụng tại phiên tồ khơng đồng nhất. Tranh tụng tồn tại với tư cách là
một phương thức, một quá trình xuyên suốt trong tố tụng, từ khởi tố cho đến
xét xử vụ án hình sự. Tranh tụng tại phiên toà là một phương thức tiến hành tố
tụng tại phiên tòa, bao gồm cả phần xét hỏi. Còn tranh luận tại phiên toà chỉ là
một phần của tranh tụng tại phiên toà, là một hoạt động của tranh tụng và là
lúc các chủ thể đưa ra những lập luận của mình về những vấn đề có liên quan
đến vụ án nhằm đạt được mục đích tham gia tranh tụng tại phiên toà.
Giai đoạn tranh luận tại phiên toà được quy định tại chương XXI BLTTHS, gồm những bước sau:
Thứ nhất, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội tại phiên tịa (hoặc rút
tồn bộ quyết định truy tố nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội bị cáo).
Thứ hai, bị cáo trình bày lời bào chữa hoặc người bào chữa cho bị cáo
trình bày lời bào chữa. Ngưừi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị dơn dân sự, người
có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trình bày ý kiến của mình hoặc
cho người mà mình đại diện hoặc bảo vệ.
Thứ ba, tiến hành đối đáp tại phiên toà. Bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến của mình về luận tội của
Kiểm sát viên. Kiểm sát viên phải trả lời cho từng ý kiến. Những người tham
gia tranh luận cũng có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên tồ
giữ vai trị điều khiển hoạt động tranh luận tại phiên toà.
Tranh luận tại phiên toà kết thúc khi những người tham gia tranh luận
khơng cịn trình bày ý kiến gì thêm. Nếu qua tranh luận thấy cần xem xét
thèm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét
hỏi xong phải tiếp tục tranh luận về nội dung đã xét hỏi thêm.
r
thữviện
TRƯỜNG ĐẠI HỌC U IẬ I HA NỘI
I PHỎNG Đ O C .
Giai đoạn tranh luận tại phiên toà thể hiện rõ rệt nhất, tập trung nhất
bản chất của tranh tụng tại phiên tồ nói riêng và tranh tụng trong tố tụng hình
sự nói chung. Kết quả của tranh luận tại phiên tịa khơng chỉ cho phép làm
sáng rõ mọi tình tiết của vụ án mà cịn sàng lọc, khẳng định tính đúng đắn của
những quan điểm, ý kiến có giá trị liên quan đến việc giải quyết mọi vấn đề có
trong vụ án. Kết quả đó là một trong những căn cứ quan trọng để Hội đồng xét
xử xem xét cân nhắc trước khi đưa ra những phán quyết cần thiết trong việc áp
dụng pháp luật nhằm giải quyết vụ án hình sự.
Các giai đoạn và các bước nói trên là kết cấu về nội dung của tranh tụng
tại phiên toà sơ thẩm hình sự. Cùng với khái niệm về tranh tụng tại phiên tồ
sơ Ihẩm hình sự đã phản ánh tương đối hoàn chỉnh về cả hai mặt nội dung và
hình thức của giai đoạn tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Khái quát về
tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự như trên là cơ sở nền tảng cho việc
bàn đến quy định của BLTTHS về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên
trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự.
1.2.
QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS HIỆN HÀNH VỂ CHỨC NĂNG,
NHIỆM VỤ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TRANH TỤNG TẠI
PHIÊN TỒ S ơ THẨM HÌNH s ụ
1.2.1.
Quy định chung của BLTTHS hiện hành về chức năng, nhiệm
vụ của Kiêm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên tồ
so' thẩm hình sự xuất phát từ chức năng công tố của Viện kiểm sát do Hiến
pháp quy định. Thể chế hoá quy định của Hiến pháp (Điều 137 - Hiến pháp
1992) thành pháp luật, BLTTHS năm 2003 đã quy định tại Phần thứ nhất
“Những quy định chung” như sau: “Viện kiểm sát thực hành quyền cơng tố
trong Tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước toà án”
(Khoản 1 - Điều 23 - BLTTHS). Chức năng công tố của Viện kiểm sát là cơ sở
19
để quy định nhiệm vụ của Kiểm sát viên. Cũng tại Phần thứ nhất “Những quy
định chung” của BLTTHS quy định Kiểm sát viên khi được phân công thực
hành quyền cơng tố có nhiệm vụ: “Tham gia phiên tồ; đọc cáo trạng, quyết
định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng
cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án,
tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà” (Điểm đ - Khoản 1
- Điều 37 - BLTTHS). Khi tham gia tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự,
Kiểm sát viên phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể có liên quan đến hoạt
động tranh tụng trên cơ sở chức năng và nhiệm vụ của Kiểm sát viên được quy
định tại phần “Những quy định chung” đã nêu trên.
1.2.2.
Các quy định cụ thể của BLTTHS hiện hành vê chức năng,
nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự
Chương XX “Thủ tục tranh tụng tại phiên tồ” và chương XXI “Tranh
luận tại phiên tồ” có quy định cụ thể về nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong
tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự. Tương ứng với các giai đoạn của quá
trình tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự các quy định này cũng chia
thành hai phần: Phần xét hỏi và phần tranh luận.
Trong phần xét hỏi tại phiên toà Kiểm sát viên có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ đọc bản cáo trạng (quyết định truy tố): Kiểm sát
viên phải đọc bản cáo trạng theo quy định tại Điều 206 - BLTTHS: “Trước khi
tiến hành xét hỏi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung,
nếu có”. Đọc bản cáo trạng là nhiệm vụ đầu tiên của Kiểm sát viên khi tiến
hành tranh tụng tại phiên toà.
Thứ hai, nhiệm vụ tham gia xét hỏi: Kiểm sát viên phải tham gia xét hỏi
theo trình tự và thứ tự hợp lý được quy định tại Điều 207 - BLTTHS về trình
tự xét hỏi. Khi tham gia xét hỏi, Kiểm sát viên phải cùng với Hội đồng xét xử
làm rõ các tình tiết của vụ án. Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi sau
Chủ toạ phiên toà và Hội thẩm.
20
Trong q trình xét hỏi, Kiểm sát viên có thể công bố lời khai của
người được xét hỏi tại Cơ quan điều tra trong những trường hợp được quy định
tại Khoản 2 - Điều 208 - BLTTHS, cụ thể:
“a). Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tồ có mâu thuẫn với lời
khai của họ tại cơ quan điều tra”;
b). Người được xét hỏi khơng khai tại phiên tồ;
c). Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết”.
Kiểm sát viên tham gia xét hỏi cùng với Hội đồng xét xử đối với bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa
vụ có liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm
chứng, người giám định (các Điều 209, 210, 211, 215 - BLTTHS). Khi xét hỏi
bị cáo, Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội bị cáo. Khi xét hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp
pháp của họ, người làm chứng, Kiểm sát viên hỏi thêm về những điểm mà họ
trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn, hỏi thêm đối với người giám định
nếu thấy kết luận giám định chưa rõ ràng.
Cũng trong q trình xét hỏi tại phiên tồ, Kiểm sát viên có quyền xem
xét vật chứng, trình bày nhận xét của mình về vật chứng, có thể đến xem xét
tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ
án ( các Điều 212-213 BLTTHS).
Đối với các tài liệu có liên quan đến vụ án, nhận xét báo cáo của cơ
quan, tổ chức, Kiểm sát viên có quyền đưa ra nhận xét của mình và hỏi thêm
về những vấn đề liên quan (Điều 214-BLTTHS).
Kiểm sát viên chỉ kết thúc tham gia xét hỏi khi mọi tình tiết của vụ án
đã được xem xét đầy đủ và khơng cịn ai u cầu hỏi thêm.
Trong phần tranh luận tại phiên tồ, Kiểm sát viên có những nhiệm
vụ sau:
21
Thứ nhất, nhiệm vụ trình bày lời luận tội tại phiên toà.
Khoản 1 - Điều 217-BLTTHS quy định:“Sau khi kết thúc việc xét hỏi
tại phiên tồ, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn”.
Trình bày lời luận tội là nhiệm vụ trước tiên của Kiểm sát viên khi tham
gia tranh luận và cũng là sự mở đầu cho giai đoạn tranh luận tại phiên toà.
Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ này trong trường hợp có căn cứ để kết tội bị
cáo, có thể theo tồn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội
khác nhưng nhẹ hơn.
Ngược lại, Kiểm sát viên “Nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội thì rút
tồn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tun bố bị cáo khơng
có tội” - (Khoản 1 - Điều 217 - BLTTHS). Trong trường hợp này do khơng có
luận tội nên khơng có việc buộc tội và gỡ tội, việc đối đáp không diễn ra và
Hội đồng xét xử sẽ nghị án ngay sau khi nghe những người khác tham gia
tranh tụng trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên.
Thú hai, nhiệm vụ tham gia đơi đáp tại phiên tồ:
Đối đáp là hoạt động trung tâm của tranh luận tại phiên tòa, thể hiện rõ
nhất bản chất của tranh tụng trong tố tụng hình sự. Khác với việc luận tội, đối
đáp là hoạt động chung của các chủ thể tham gia tranh tụng, nhưng Kiểm sát
viên có vai trị cao nhất vì nội dung đối đáp cơ bản phụ thuộc vào nội dung
luận tội của Kiểm sát viên. Kiểm sát viên tham gia đối đáp nhằm bảo vệ cáo
trạng của Viện kiểm sát và quan điểm của Kiểm sát viên đã nêu trong luận tội.
Điều 218 quy định:
“Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền
trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình;
Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến”.
Việc đáp lại các ý kiến có liên quan đến vụ án của bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác có tính chất bắt buộc đối với Kiểm
22
sát viên. Chủ toạ phiên tồ có quyền đề nghị Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ
này. Cũng Điều 218 quy định:
“Chủ toạ phiên tồ có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý
kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”.
Như vậy, trong phần tranh luận tại phiên tồ Kiểm sát viên có hai nhiệm
vụ là trình bày lời luận tội và đối đáp tại phiên toà. Cũng trong phần này, trong
trường hợp trở lại việc xét hỏi theo quyết định của Hội đồng xét xử, Kiểm sát
viên sau khi tham gia xét hỏi phải tiếp tục đối đáp theo như quy định đã nêu
trong nội dung trên.
Tóm lại, khi tham gia tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự theo quy
định của BLTTHS hiện hành, Kiểm sát viên phải Ihực hiện bốn nhiệm vụ cơ
bản, bao gồm: Đọc bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, trình bày lời luận tội và
đối đáp tại phiên tồ. Những nhiệm vụ đó đều thuộc về chức năng công tố của
Viên kiểm sát mà Kiểm sát viên là người có quyền thực hành tại phiên tồ sơ
thẩm hình sự.
Khái qt về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự và quy định của
BLTTHS hiện hành về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh
tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự đã phản ánh đầy đủ cả về bản chất và hình
thức của tranh tụng tại phiên toà, chức năng và nhiệm vụ của Kiểm sát viên
khi tham gia tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự. Đó là tiền đề lý luận và
căn cứ pháp lý cần thiết đối với việc tìm hiểu về thực trạng thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình
sự. Trên cơ sở đó sẽ tìm được những giải pháp mang tính khoa học, hợp lý
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm
sát viên trong tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự, góp phần đáp ứng các
u cầu về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.