Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đấu tranh phòng chống tội giết người trên địa bàn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.78 MB, 96 trang )


VIỆN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÙI T R Ọ N G T U Ệ

DẤU TRANH PHỒNG CHÔNG TỘI GIẾT NGƯỜI
m

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH s ự
MÃ SỐ: 5.05.14

I

THƯ VIỆN

I

i TRƯỜNG ĐẠI HOC LÜÂT HẢ N ỏ! ;
0,iÒ N . ' O T

XJ0)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI - 2004



MỤC LỤC
T rang
Lời nói đầu

1

Chiíơng 1: Những vấn đề chung về tội giết người theo quy định

5

của luật hình sự Việt Nam.
1.1. Lịch sử phát triển các quy định vê tội giết người trong Luật hình sự Việt Nam
1.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết người theo quy định của Bộ luật

5
14

hìnti sự 1999.
1.3. Các tình tiết định khung tăng nặng và định khung cơ bản của tội giết người

23

1.4 Một s ố trường hợp đặc biệt của tội giết người theo quy định của Bộ luật

39

hì tu sự ỉ 999
Chuưng 2: Tình hình, nguyên nhân, điều kiện và thực trạng đấu tranh

50


phòng chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 19972003.
2.1. Tìnli hình tội giết người trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Hà Nam.}-

50

2.2. Nạuyên nhân, điều kiện của tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam.

60

2..3. Thực trạng đấu tranh phòng và chống tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà

68

N an.
2.4. D ự báo tình hình tội giết người tronẹ những năm tới trên địa bàn tỉnh Hà

71

Nam
Chương 3: Một sô biện pháp đấu tranh phịng chơng tội giết người trên

77

địa bàn tỉnh Hà Nam.
3.1. Nhữnẹ quan điểm, iMỊuyên tắc, ỷ nghĩa của việc đấu tranh phòng chống

77

tội phạm

3.2. Các biện pháp cụ th ể đấu tranh phòng chống tội giết người trên địa bàn

78

lỉnh Hả Nam.
Kết luận

90

Tài liệu tham khảo

92


1

LỜI NĨI ĐẨU

1/ Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới do Đủng Cộng Sản Việt Nam khới xướng và lãnh đạo đã
và đang thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, Chớnh tr,
Vn hoỏ, Xó hi. Tronỗ ú phi k ti những kết q đáng khích lệ trong cuộc đấu
tranh phịng chống tội phạm, giữ gìn sự ổn định chính trị, xã hội, duy trì trật tự, kỷ
cương phép nước.
Cùng với xu thế đổi mới và phát triển của cả nước, Hà Nam là một tỉnh mới
được tái lập từ năm 1997, là tỉnh gần thủ đơ Hà Nội, có đường bộ và đường sắt Bắc
Nam đi qua. Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc bộ giàu tiềm
năng phát triển. Hà Nam đã và đang có những chuyển biến đáng kể trong đời sống
xã hội: Kinh tế từng bước tăng trưởng, đời sống nhân dân ngày một nâng cao, tình
hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vũng và ổn định. Cùng với mặt

tích cực thì nhũng mặt tiêu cực trong xã hội cũng nảy sinh và diễn biến theo chiều
hướng ngày càng phức tạp, trong đó tội phạm hình sự đang là vấn đề nhức nhối,
được dư luận đặc biệt quan tâm. Hoạt động của tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội
như giết người, cướp tài sản, hiếp dâm...đã gây ra những hậu quả hết sức nghiêm
trọng, ảnh hướng đến đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, đời sống chính trị, kinh
tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Trong số những tội phạm đó thì tội giết người
gây hậu quả nặng nề nhất, nó tàn phá những giá trị đạo đức truyền thống, gây tâm lý
hoang mang trong quần chúng nhân dân, kéo theo sự mất ổn định trật tự an toàn xã
hội. T ron2; điều kiện như vậy, làm thế nào để hạn chế, ngăn ngừa được tội phạm xảy
ra, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những vụ giết người trở thành một đòi
hỏi cấp bách đối với các cơ quan chức năng. Là một người cơng tác trong ngành Tồ
án ở địa phương, với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc thực hiện mục
đích trên, tơi đã quyết định chọn đề lài: “Đấu tranh phòng cliờng tội giết người trên
địa bàn Tỉnh Hà Nam ” để viết luận văn thạc sỹ luậl học.
2/ Tình hình nghiên cứu đề tài


2

Trong những năm gần đây, tội giết người được nhiều tác giả đề cập đến ở
những góc độ khác nhau. Điển hình, năm 1997 tác giá Đinh Văn Quế đã cho xuất
bản cuốn: “ Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của con người”, các bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí
Tồ án nhàn dân, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Một số tác giả
lại nghiên cứu tội giết người qua tiến trình phát triển của lịch sử hoặc so sánh phân
biệt với một số tội phạm khác trong Bộ luật Hình sự như Tội cố ý gây thương tích,
Tội vơ ý làm chết người...
Các cơng trình nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật Hình sự về tội giết người, nâng cao hiểu biết phục vụ cơng
tác xét xử của Tồ án cũng như của những người nghiên cứu loại tội phạm này. Tuy

nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nào xem xét các quy định của tội giết người
với tình hình diễn biến, nguyên nhân và điều kiện phạm tội để đề ra những biện
pháp đấu tranh phòng chống trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Vì vậy, đây vẫn là một đề
tài mới được nghiên cứu, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
3/ Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của dề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, dánh giá một cách khái quái Ihực
trạng, nguyên nhân và điều kiện về tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam, trên cơ
sở đó đề ra được những giải pháp hữu hiệu cho cuộc đấu tranh phịng chống tội giếl
người.
Luận văn đã đi sâu phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội giết người qua các
thời kỳ lịch sử khác nhau và quy định của pháp luật hình sự hiện hành làm cơ sở để
nhận thức đúng và thống nhất quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Đi
sâu xem xét tình hình diễn biến của tội giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam những
năm vừa qua, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời dự báo
tình hình tội phạm này trong thời gian tới. Từ đó đề ra nhũng giải pháp nhằm đấu
tranh phòng chốne tội phạm giết người trên địa bàn tỉnh Hà Nam trong những năm
tới.
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như trên, luận văn nghiên cứu
tội giết người tù' hai giác độ: Giác độ pháp lý hình sự vầ giác độ tội phạm học. Phân


3

tích lịch sử phát triển và các dấu hiệu pháp lý cấu thành cũng như các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ định khung của nó. Từ đó xem xét tình hình diễn biến, nguyên
nhân, điều kiện và dự báo tội phạm để đề ra các biện pháp đấu tranh phòng chống.
Tác giả của đề tài chỉ hạn chế nghiên cứu nó trên phạm vi địa bàn tỉnh Hà
Nam trên cơ sở số liệu thống kê trong thời gian 7 năm (Từ khi tái lập tỉnh Hà Nam
đến nay)
4/ Phương pháp nghiên cứu của đề tài.

Đề tài được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của
Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phịng chống tội phạm nói chung, tội giết người nói
riêng; đường lối chính sách hình sự của nhà nước ta đối với tội giết người trong thời
gian qua. Khi viết luận văn này tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như : Thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh...
Luận văn đã tiếp thu và kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học, các cán bộ hoạt động thực tiễn, các tài liệu đã được cơng bố trên các tạp
chí chun ngành, những kinh nghiệm thực tiễn của các cơ quan bảo vệ pháp luật
của tỉnh Hà nam Irong dấu tranh phòng chống tội giết người trong những năm gần
đây.
5/ Điểm mới của luận văn
Về mặt lý luận, đây là lần đẩu tiên vấn đề đấu tranh phòng chống tội giết
người trên địa bàn tỉnh Hà Nam được nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối
tồn diện. Nội dung được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú ihêm
lý luận về đấu tranh phòng chống tội phạm ở một địa bàn cụ thể.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu tham khảo trong việc giảng dạy
ở bậc đại học hoặc trung cấp chuyên ngành Luật; dùng cho các cán bộ công tác thực
tế ở các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng để đấu tranh phòng chống loại tội phạm
này.
Những giải pháp, kiến nghị, đề xuất được nêu trong luận văn là cơ sở để các
cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh Hà Nam tham khao vận dụng để thực hiện các


4

giải pháp thực tiễn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội giết
người nói riêng có hiệu quả hơn.
6/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận vãn gồm

3 chương.
Chương 1: Những vấn đề chung vê tội giết ngi theo quy định của luật hình sự
Việt Nam
Chương 2: Tình hình, nguyên nhân, điều kiện của và thực trạng đấu tranh
phòng chống tội giết người trên địa bàn Tỉnh Hà Nam giai đoạn 1997-2003
Chưong 3: M ột s ố biện pháp đấu tranh phòng chống tội giết người trên dịa bàn
Tỉnh H à Nam .


5

CHƯƠNG 1
N H Ữ N G V Ấ N Đ Ể C H U N G V Ể T Ộ I G IẾ T N G Ư Ờ I
T H E O Q U Y Đ ỊN H C Ủ A L U Ậ T H ÌN H s ự V IỆ T N A M
1.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI GIÊT NGƯỜI TRONG
LUẬT HÌNH S ự VIỆT NAM
1.1.1. Tội giết người theo Luật hình sự Việt Nam thòi kỳ phong kiến và Pháp
thuộc.
*

Tội giết ngưòỉ theo Luật hình sự Việt Nam thịi kỳ phong kiến.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam phong kiến, khái niệm về tội giết người

không được đề cập trong bất kỳ bộ luật hình sự nào mặc dù tội này ln được coi là
một “trọng tội” đều được quy định trong các bộ luật mà hiện nay chúng ta còn lưu
giữ được. Các nhà làm luật thời kỳ này cũng đã có cùng quan điểm cơ bản về khái
niệm tội “giết người”. Đây là một thuật ngũ' pháp lý dùng để chỉ một hành động
(trực tiếp hay gián tiếp) của con người hướng vào mục tiêu tước đi sinh mạng của
người khác một cách trái pháp luật. Cho đến nay, ở Việt Nam có rất ít tài liệu giúp
ta tìm hiểu về tình hình pháp luật cụ thể từ đầu cơng nguyên đến thế kỷ thứ X. Vì

vậy việc nghiên cứu tội giết người ở thời kỳ này có những khó khăn nhất định.
Dưới thời phong kiến Đinh - Lê đã có nhiều hình phạt nặng áp dụng cho kẻ
giết người như: Ném vào vạc dầu sôi, xẻo thịt cho đến chết ... Đến thời Lý đã xây
dựng được bộ hình thư đầu tiên ở nước ta nhưng bị quân nhà Minh cướp mất cho
đến nay khơng để lại dấu tích. Năm 1125 một đạo chiếu quy định kẻ đánh người
đến chết thì ngồi việc bị bắt phục dịch trong qn đội và đánh 100 trượng cịn bị
thích 50 chữ vào mặt. Một số tội có liên quan như đánh, giết ông, bà, cha, mẹ ( ác
nghịch), đánh giết những người thân thuộc gần, đánh giết chồng( bất mục), trò giết
thầy, thông dâm với họ hàng thân thuộc ... phải chịu những hình phạt nghiêm khắc
nhất. Chính sách trừng trị dưới thời Lý - Trần nói chung rất khắc nghiệt, tàn ác, thể
hiện bản chất của pháp luật hình sự phong kiến. Dưới thời đại nhà hậu Lê, pháp luật
hình sự đã phát triển mạnh mẽ mà một bộ phận quan trọng đã được pháp điển hoá
trong Bộ luật Hồng Đức. Điều 415 Luật Hồng Đức quy định: “Nhũng kẻ mưu giết


6

người, thì xử tội lưu đi châu gần; đã làm người ta bị thương thì bị xử tội lưu đi châu
ngồi; nếu vì bị thương mà chết thì xử tội giảo; đã giết chết thì xử tội chém; tịng
phạm đều bị xử nhẹ hơn tội trên một bậc; phải trả tiền đền mạng và tiền thương tổn
như luật”[6, trl55].
Ta thấy rằng khái niệm về tội giết người cũng không được đề cập cụ thể và
trong nhiều trường hợp được dùng như là một sự “cố sát” . Ngoài ra, giết người cịn
được nói đến trong nhiều trường hợp cụ thể khác nhau và nhiều điều khoản khác
nhau, người “đồng loại” cùng đẳng cấp đánh giết nhau thì bị trừng trị nhẹ hơn là
việc đánh giết người trên. Cùng một hành vi, nếu là người dưới phạm tội đối với
người trên (con đối với cha, mẹ và người thân thuộc bậc trên; trị với thầy, nơ tỳ và
người làm th với chủ, dân thường đối với quan lại...) thì bị phạt nặng hơn mức
bình thường, cịn người trên phạm tội với người dưới thì có thể bị phạt nhẹ hơn hoặc
có khi được miễn phạt. Ví dụ: Điều 416 quy định: “ Những kẻ mưu giết những bậc

tôn trưởng vào hàng cơ thân (họ hàng thân thích phải để tang 1 năm), ông bà ngoại,
chồng và ông bà, cha mẹ của chồng cũ thì xử giảm một bậc (là chồng đã chết mà
mình đi cải giá). Mưu giết đã làm cho bị thương, thì xử tội giảo, đã giết chết thi xử
tội chém. Mưu giết những bậc tôn trưởng vào hàng ty ma (những người có họ phải
để tang 3 tháng) trở lên thì phải lưu đi châu ngồi đã làm cho bị thương thì phải xử
tội giảo; đã giết chết thì xử tội chém. Các bậc tơn trưởng mà mưu giết những người
thuộc hàng con cháu ít tuổi đều bị khép tội nhẹ hơn tội mưu giết người hai bậc; đã
làm cho bị thương thì tội nhẹ hơn một bậc; đã giết chết thì bị khép tội theo luật cơ'
sát” [6, tr 155].
Ngoài ra, Điều 417 quy định trường hợp nô tỳ mưu giết chủ, Điều 418 là kẻ
mưu giết sứ giả của Vua, mưu giết trưởng quan sở thuộc của mình, mưu giết quan ty
đang tại chức,... Điều 420 quy định kẻ giết tới 3 người trong một gia đình hay xả
thây người ta, thì xử chém bêu đầu; tòng phạm xử tội chém; điền sản của kẻ phạm
tội phải trả cho vợ con người bị giết. Điều 421 quy định về tội dùng thuốc độc hại
người hay là bán thuốc độc; Điều 422, 423, 424, 425, 426 cũng đều quy định về tội
giết người trong các trường hợp cụ thể (cướp của giết người, nuôi tà ma, dùng độc
để hại chết người). Bộ luật Hồng Đức cũng duy trì một số hành vi thuộc loại gọi là


7

ác nghịch (đánh hoặc mưu giết ông bà, cha mẹ và các người thân thuộc bề trên
khác), bất mục (đánh, mưu giết, người thân thuộc gần, chồng, người hơn tuổi ...),
bất nghĩa (dân giết quan, lính giết tướng, trị giết thầy) bị coi là tội thập ác. Người
phạm tội này thì khơng được giảm nhẹ theo chế độ Bát Nghị [6, tr 155 - 158].
Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hình sự nói riêng trong thời kỳ
khủng hoảng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền thống nhất, nội chiến và
phân quyền cát cứ (thế kỷ XVI, XVII, XIII) khơng có gì mới đáng kể so với thời Lê
m à vẫn thể hiện những tính chất của pháp luật phong kiến Việt Nam. v ề trách
nhiệm phải chịu tội do giết người là tội nặng nhất trong các tội thường phạm. Pháp

luật hình sự thời Cánh Thống (1498 - 1504 ) quy định là ngoài việc trừng trị kẻ giết
người bằng hình phạt cịn tịch thu tài sản của cha, mẹ, anh, em để đền bù cho nhân
thân người bị giết. Nếu người “cùng họ, cùng làng với hung thủ” xét ra đã không bắt
hung thủ phải nộp thì họ, xã đều phải nộp phạt 50 quan tiền.
Đến triều Nguyễn đã xây dựng được 1 bộ luật lớn nhất của chế độ phong
kiến Việt Nam, có thể nói đây là một bộ luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất của nền cổ
luật Việt Nam. Ngày nay, với cách nhìn nhận mới chúng ta thấy rằng Hồng Việt
luật lệ có phần đóng góp sáng tạo của các tác giả bộ luật này chứ khơng phải là
“hồn toàn sao chép từ luật nhà Thanh”. Chẳng hạn các cực hình trong luật nhà
Thanh như: Tru di tam tộc, Lăng trì, m... hồn tồn bị loại bỏ, chỉ giữ lại hình
phạt là chém đầu và treo cổ. Nó có giá trị về văn hoá, lịch sử và luật pháp đã được
thừa nhận hay nói rõ hơn đây là một phần của di sản văn hoá Việt Nam mà triều
Nguyễn đã có cơng đóng góp [12, tr 11 - 14],
Tội phạm về nhân mạng Hoàng Việt Luật Lệ quy định có 20 điều, trong đó
có những điều luật cụ thể như: Mưu giết người, mưu giết sứ nhà vua, mưu giết ông,
bà, cha mẹ, giết 3 mạng người cùng một nhà, đánh lộn và cố ý giết n g ư ờ i...
Ví dụ: Quy định tội “ đánh lộn và cố ý giết người”
Phàm đánh lộn và giết người thì không cần biết
như dao m ác ... đều xử treo cổ giam chờ.

bằng tay chân, vật gì khác


8

Cịn như cố sát thì xử chém giam chờ. Nếu cùng mưu, cùng đánh người, nhân
đó họ phải chết, coi việc làm bị thương bỏ mạng là nặng, xử kẻ giúp tay vào. Tội
này Ireo cổ giam chờ... [12, tr 72].
Có thể thấy, dưới thời kỳ phong kiến các quy định của pháp luật về tội giết
người thể hiện sâu sắc bản chất của pháp luật phong kiến nói chung, đó là mang

nặng tính chất bất bình đẳng, cùng một hành vi tước bỏ sinh mạng của người khác
nhưng chủ thể của tội phạm thuộc giai cấp khác nhau thì mức hình phạt khơng
giống nhau. Tất cả quy định đó cũng chỉ nhằm bảo vệ một thể chế phong kiến và
trật tự phong kiến. Luật hình sự quy định có những người giết người mà không cần
bất kỳ lý do gì và họ cũng khơng hề bị bất cứ một loại hình phạt nào .Ví dụ: Vua có
quyền giết bất cứ ai; chủ có quyền giết đầy tớ của mình.
Pháp luật hình sự phong kiến khơng hề đưa ra được một khái niệm về mặt
pháp lý nào về tội giết người mà chỉ mô tả hành vi trên bằng những trường hợp cụ
thể như đánh người đến chết, chủ mưu giết người vv .. chính vì thế, Irong các bộ luật
hiện cịn lưu trữ được có rất nhiều điều luật quy định về tội phạm này.
Hình phạt đối với tội giết người rất dã man và mang nặng tính trả thù như:
Lăng trì, bổ vạc dầu sơi, voi dày, thích chữ vào mặt... Bèn cạnh dỏ ta thấy nhà làm
luật đã có quan điếm: Pháp luật có mối liên hệ mật thiết với các loại quy phạm khác
trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội như đạo đức, truyền thống, phong tục
tập quán, chẳng hạn, Bộ luật Hồng Đức đã cá thể hoá các hành vi con giết cha mẹ,
kẻ mưu giết những bậc tôn trưởng vào hàng cơ thân, chồng và ông bà cha mẹ chồng
đều phải tội chém hoặc nếu là người dưới đối với người trên như trị với thầy thì bị
xử nặng hơn. Vì vậy, trong một chừng mực nào đó đã góp phần củng cố đạo đức của
cộng đồng, truyền thống của dân tộc nhu' “ Kính trên nhường dưới”, “ tơn sư trọng
đạo” .
*

Tội giết người theo luật hình sự Việt Nam dưới thòi Pháp thuộc.
Tội giết người được gọi với tên thống nhất chung là “ tội cố sát”. Trong các

bộ hình luật Bắc Kỳ (1918), Hồng Việt hình luật (1933) và bộ Hình luật canh cải
tại Nam phần, theo đó “ cố sát m à chí tâm giết người, bị phạt tói khổ sai chung thân.
Tội thành tựu khơng cứ là người phạm, đã dùng khí cụ gì, miễn sao chủ ý của y là



9

sát nhân và hành động tích cực. Kỳ dư, vì duyên cớ, vì y giết hoặc là nạn nhân đã
ưng thuận cho y giết nhưng điều đó đều khơng quan hệ, tội vẫn thành [13, tr 61].
Quy định này phần nào cũng phản ánh những tình tiết của tội giết người dù
chưa được rõ ràng. Luật còn quy định những trường hợp tăng nặng, giảm nhẹ của tội
cố sát.
- Nếu tội cố sát “bị gia trọng” can phạm có thể bị tử hình, đó là những trường
hợp sau:
+ Cố sát dự mưu, mai phục ( mưu sát, ám sát), ( dự mưu là nghiền ngẫm, sắp
đặt việc giết người ; mai phục là rình sẵn một nơi đợi nạn nhân đi đến sẽ làm hại
thình lình). Trong cả hai trường hợp này can phạm tỏ ra đã suy tính và quyết định
cẩn thận, do đó mà nặng tội.
+ Cố sát ông bà, cha mẹ (tội thí thân): Đối với tội này, luật hết sức cương
quyết, tội không bao giờ được khoan miễn [13, tr 62J.
Hoặc theo hình điển Trung Việt thì trường hợp vợ giết chồng hoặc chồng giết
vợ cả; em giết anh chị; cháu giết chú, bác, thím, cậu, mợ, cơ, gì, cố sát quan lại
đương chức, đương sự khi làm việc; trò giết thầy; tớ giết chủ cũng bị phạt như tội thí
thân [13, tr 60]
+ Cố sát bàng độc dược (đầu độc) bất luận nguồn gốc độc dược hoặc phương
cách mà người phạm tội đã dùng, chí cốt là can phạm dụng ý làm cho chết đồng thời
biết rõ sự hiệu nghiệm của chất độc [13, Ir 60],
Bên cạnh đó, luật hình cũng đặt ra những trường họp giảm nhẹ đù những
trường hợp đó là hiếm có, nếu can phạm đã bị khiêu khích hay phải bảo vệ chính
đáng thì tội có thể được nhẹ hoặc miễn hẳn. đó là những trường hợp như:
- Người phạm tội bị khiêu khích bởi những trận hung bạo nghiêm trọng với
thân phận.
- Trường hợp cần khu trục ban ngày những kẻ trèo lường, phá dây nơi gia cư,
gia phòng.
- Trường hợp chồng bát được quả tang vợ đang thông gian ngay tại cơ sở vợ

chồng mà giết gian phu dâm phụ. Hình phạt tử hình hay khổ sai chung thân sẽ được


10

cải thành giam từ 1 đến 5 năm. Các hình phạt khác thuộc trọng tội (như khổ sai, đố
dịch... ) sẽ rút xuống còn phạt giam tù từ 6 ngày đến 6 tháng [ 13, tr 68],
Nhìn chung, pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ pháp thuộc được quy định
trong các văn bản pháp luật khác nhau ( Hình luật Bắc Kỳ, Hồng Việt luật lệ, luật
hình Canh cải) nhưng quy định chung về tội giết người đã phần nào mô tả được
những dấu hiệu pháp lý đặc trưng.
Về mặt kỹ thuật luật pháp cũng có bước tiến bộ đáng kể: Nhà làm luật đã đưa
vào trong các điều luật những trường hợp tăng nặng, giảm nhẹ đối với tội giết người,
từ đó là cơ sở cho việc quyết định hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ của
hành vi phạm tội.
1.1.2. Tội giết người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn
1945-1985.
* Tội giết người theo luật hình sự Việt Nam trước khỉ pháp điển hố.
Với tháng lợi của cơng cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hồ ra đời và cùng với nó là sự ra đời của một hệ thống pháp luật
mới - pháp luật cánh mạng, pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Trong những ngày đầu tồn tại của chê dộ mới, nhà nước ta chưa thể ban hành
ngay một hệ thống pháp luật đầy đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngày
LO/10/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký một sắc lệnh, theo đó các cơ quan và các nhân viên
nhà nước có thể áp dụng các quy định của pháp luật chế độ cũ nhưng khơng đi
ngược lại lợi ích của Nhà nước, xâm phạm tới chủ quyền và nền độc lập của dân tộc.
Một sô quy định của chế độ cũ trong lĩnh vực nhu' dân sự, thừa kế, ... đã được tạm
thời sử dụng. Nhưng riêng trong lĩnh vực luật hình sự, các quy định trong pháp luật
của chế độ cũ hồn tồn khơng được sử dụng vì chúng xa lạ với bản chất của luật
hình sự cách mạng. Các quy định về tội phạm và hình phạt trong luật hình sự của

chế độ cũ hoặc mang tính phản động, hoặc mang tính bất bình đẳng nên khơng được
nhà nước ta sử dụng. Vì vậy 1 nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra là phải nhanh chóng
han hành các văn bản pháp luật về hình sự. Điều này giải thích lý do Luật Hình sự là
một trong những ngành luật ra đời sớm nhất và phát triển nhanh nhất của nưóc ta.


Xuất phát từ bản chất của Nhà nước kiểu mới nên Pháp luật nói chung và luật
hình sự nói riêng ở nước ta có những thay đổi về chất so với pháp luật của chế độ cũ.
Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, nhà nước đã ban hành 1 loạt các văn bản
pháp luật về hình sự trong đó quy định các mức về hình phạt nặng đối với các tội
phản cách mạng ( gần giống các tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh
quốc gia của Bộ luật hình sự hiện hành) và các tội chống nhân thân, trong đó có tội
giết người .
Hành vi giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ đầu mới giành
được độc lập, do những đặc trưng tình hình chính trị - xã hội đa phần đều gắn với
mục đích chống phá cách mạng, hành vi giết người thông thường không được quy
định một cách cụ thể mà được hiểu là sự xâm phạm nghiêm trọng tơí trật tự trị an xã
hội và phải bị trừng trị thích đáng. Theo quy định của hiến pháp 1946, 1959 và 1980
thì tính mạng, sức khoẻ của con người là bất khả xâm phạm. Mọi hành vi tước đi
cuộc sống của con người đều bị nghiêm trị, kẻ phạm tội giết người phải chịu những
hình phạt nghiêm khắc và mức cao nhất có thể lên tới chung thân, tử hình.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù nhà nước không có điều
kiện quy định các lội phạm chống nhân thân trong đỏ có lội giết người trong văn
bản pháp luật có tính hệ thống cao nhưng các thơng tư liên ngành, thơng tư của tồ
án nhân dân tối cao, các báo cáo chỉ đạo đường lối xét xử của Toà án nhân dân tối
cao đối với các toà án cấp dưới đã thể hiện tương đối rõ nét về chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết các vụ án giết người. Ví dụ như bản
tổng kết số 452 - HS 2 ngày 10/ 08/ 1970 của Toà án nhân dân tối cao về thực tiễn
xét xử tội giết người. Theo nội dung của bản tổng kết thì chủ thể của tội giết người
là bất kỳ người nào đã đạt đến 14 tuổi tròn và không bị bệnh tâm thần hay một bệnh

nào khác làm mất đi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Lập luận
cho quan điểm này, bản tổng kết đã chỉ rõ: “Trong thực tiễn xét xử của ta, nhìn
chune các can phạm dưới 14 tuổi Irịn khơng bị truy tố, xét xử về tội giết người .
Cho nên, cũng như đối với các loại tội phạm nghiêm trọng khác, có thể nói
trách nhiệm hình sự đối với tội giết người bắt đầu từ 14 tuổi tròn ... cần truy tố, xét
xử các trường hợp giết người mà can phạm từ 14 tuổi tròn trở lên” [16, tr 3].


12

Cũng trong bản tổng kết này, đối với những kẻ tội phạm giết người kèm theo
những tình tiết nghiêm trọng (tăng nặng ) thì hình phạt áp dụng đối với người phạm
tội có thể lên tới chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên, đối với những người phạm tội
đang lứa tuổi vị thành niên thì theo quan điểm của tồ án nhân dân tối cao không
nên áp dụng mức án tử hình và được xét nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm

Như vậy, trước khi pháp điển hoá hình sự tội giết người được quy định rất
chung chung. Việc xét xử các vụ án giết người chủ yếu dựa vào thông tư 442 / TTg
ngày 19/1/1955 của TT Chính phủ ; sắc luật 03 -SL/76 ngày 155/3/1976 và một số
văn bản hướng dẫn khác của Toà án nhân dân tối cao. Tất cả các văn bản pháp luật
hình sự trên đều là những văn bản đơn hành. Mỗi văn bản chỉ quy định một vấn đề
riêng biệt, nhiều trường hợp có nhũng quy định về tội phạm và hình phạt lại chứa
đựng trong các văn bản quản lý. Thực trạng đó cho thấy pháp luật hình sự ở giai
đoạn này thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, nhiều chỗ hổng và bắt buộc phải cho phép
áp dụng nguyên tắc tương tự dẫn đến việc lấy chính sách, chỉ thị của Đảng, lấy kinh
nghiệm xét xử của toà án để thay thế cho nhũng chỗ hổng của pháp luật. Việc quy
định áp đụng nguyên tắc tương tự trong tình hình lliiếu pháp luật là cần thiết, 110 đã
đáp ứng được phần nào yêu cầu đấu tranh phòng chống tội giết người trong giai
đoạn này, song cũng bộc lộ những hạn chế, tiêu cực cần khắc phục.
*


Tội giết ngưòỉ theo quy định của Bộ luật hình sự 1985.
Kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật hình sự nước ta giai đoạn

trước đó. Bộ luật hình sự năm 1985 đã thể hiện được một cách rõ ràng chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước, quy định một cách thống nhất, cụ thể và có hệ thống
những vấn đề về tội phạm và hình phạt, trong đó đã thể hiện được quan điểm: Con
người là vốn quý của xã hội, là đối tượng được luật hình sự bảo vệ. Bảo vệ con
người trước hết là bảo vệ tính mạng của họ. Vì vậy, Bộ luật hình sự Việt Nam ngay
sau Chương I quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia đã quy định các tội xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của
người được quy định tại Điều 101 như sau:

CO I1

người ở chương II. Tội giết


13

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt
tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a/ Vì động cơ đc hèn; để thực hiện hoặc đổ che dấu tội phạm khác
b/ Thực hiện tội phạm một cách man rợ; bằng cách lợi dụng nghề nghiệp
hoặc phương pháp có khả năng làm chết nhiều người.
c/ Giết người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân,
d/ Giết nhiều người hoặc giết phụ nữ mà biết là có thai,
đ/ Có tổ chức
e/ Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội nghiêm
trọng khác.

g/ Có tính chất cơn đồ; tái phạm nguy hiểm.
1. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định ở khoản 1 điều này hoặc
khơng có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
2. Phạm tội trong tình trạng tinh thán bị kích động mạnh do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân
thích của người đó thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
3. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư iưởng lạc hậu hoặc trong hoàn
cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vút bỏ con mới đẻ dẫn đến hậu
quả đứa trẻ chết thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc bị phạt tù từ 3
tháng đến 2 năm.
Sau đó, qua q trình áp dụng điều luật này vào thực tiễn xét xử, gắn với diễn
biến phức tạp của hiện tượng phạm tội này, ngày 28 / 12 / 1989 luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự đã nâng mức phạt tù tối đa ở khoản 2 từ 15 năm đến
20 năm nhàm răn đe, phòng ngừa cũng như có thể xử lý nghiêm khắc hơn những
trường hợp phạm tội giết người thông thường.
Như vậy, chỉ đến khi Bộ luật hình sự ra đời, tội giết người mới được quy định
thành một điều luật riêng mang tính chỉnh thể, tính khoa học cao đồng thời đạt đến
đỉnh cao của sự hồn thiện so với tiến trình phát triển của các quy định trước đây.
Điều 101 Bộ luật hình sự đã trở thành cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho hoạt
động xét xử loại tội phạm này, góp phần khơng nhỏ vào cuộc đấu tranh phịng ngừa


14

và chống tội phạm nói chung cung như phịng ngừa và chống tộigiết người nói riêng
ở nước ta trong một quãng thời gian dài ( 1985- 1999).
1.2. CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ c ơ BẢN CỬA TỘI GIẾT NGUỜI THEO

QUY


ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH s ự 1999
Điều 93 Bộ luật Hỡnh s 1999 quy nh:
1. Nỗu'i no git ngi thuc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a.

Giết nhiều người

b. Giết phụ nữ mà biết là có thai
c.

Giết trẻ em

d. Giết người đang thi hành cơng vụ hoặc vì lý do cơng vụ của nạn nhân
e.

Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thày

giáo, cơ giáo của mình

f.

Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau

đólạiphạm một tội rất

nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm Irọng
g.

Để thực hiện hoặc che dấu tội phạm khác


h.

Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân

i.

Thực hiện tội phạm một cách man rợ

j.

Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp

k. Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người
1. Th giết người hoặc giết người th
m. Có tính chất cơn đồ
n. Có tổ chức
o. Tái phạm nguy hiểm
p.

Vì động cơ đê hèn

2. Phạm tội không thuộc các trường họp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị
phạt tù từ báy năm đến mười lăm năm.
3. Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm
cư trú từ một năm đến năm năm.


15


Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách
trái pháp luật. Việc phân tích các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội giết người có ý
nghĩa rất quan trọng vì cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự.
Tội giết người cũng gồm 4 yếu tố cấu thành: Khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan và chủ thể.
*

Khách thế của tội giết ngưòỉ
Tội giết người là tội nguy hiếm nhất trong nhóm các tội xâm phạm tính

mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người vì nó trực tiếp xâm phạm đến
một khách thể rất quan trọng đó là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền sống
của con người, v ề mặt nguyên tắc, chỉ khi có khách thể bị xâm hại là quan'hê nhân
thân thì mới có thể xác định một người là phạm tội giết người . Quyền sống là một
trong những quyền cơ bản nhất của con người. Khoa học pháp lý khẳng định sự
sông của con người được xác định từ khi đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ cất tiếng khóc
chào đời cho đến khi tế bào não hồn toàn tê liệt (tim ngừng đập, thần kinh ngừng
hoạt động). Khái niệm con người là đối tượng tác động của tội phạm này bao gồm
tất cả mọi người tổn tại với tư cách là một thực thể sống độc lập. Tội giết người trực
liếp xâm pluim quyền sống của con người, dối tượng tác động của lội giết người là
thân thể con người đang sống và hành vi “ tước bỏ sinh mạng của người khác” phải
là hành vi trái pháp luật thì mới cấu thành tội giết người. Những hành vi xâm phạm
sự sống của thai nhi hoặc xâm phạm trạng thái bình thường của xác chết có thể
khơng phải là tội phạm hoặc là một tội phạm khác chứ không phải tội giết người.
Tuy nhiên, trong trường hợp mặc dù khơne, có đối tượng tác động (người đã chết) do
đó cũng khơng có khách thể là quan hệ nhân thân nhưng kẻ thực hiện hành vi tấn
công tin rằng người đó vẫn sống thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết
người nếu các yếu tố khác của cấu thành tội phạm thoả mãn (kẻ phạm tội nhầm về
khách thể).

*

M ặt khách quan của tội giết ngưòi
Mặt khách quan của tội giết người được thể hiện ở hành vi tước bỏ quyền

sống của người khác một cách trái pháp luật bằng những thủ đoạn và phương tiện
khác nhau gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội có thể là hành động


16

hoặc không hành động. Mặt khách quan của tội giết người thường đòi hỏi 3 dấu hiệu
sau: Hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hành vi
trong mặt khách quan của tội giết người là hành vi tước bỏ sinh mạng của người
khác trái pháp luật. Người phạm tội đã thể hiện được ý chí phạm tội ra thế giới bên
ngồi. Hành vi này là hoạt động có ý thức và ý chí, có tính nguy hiểm cao cho xã
hội và là hành vi trái pháp luật hình sự. Hành vi “Tước bỏ sinh m ạng của người
khác” phải là hành vi trái pháp luật thì mới cấu thành tội giết người, nếu trong
trường hợp pháp luật cho phép thì hành vi đó khơng cịn là tội phạm (ví dụ như trong
trường hợp phịng vệ chính đáng hoặc thi hành án tử hình).
“Hành vi tước bỏ sinh m ạng” trong tội giết người đa sô được thể hiện dưới dạng
hành động phạm tội. Các hành động này có thể chỉ là một động tác đơn giản xảy ra
trong một thời gian ngắn (đâm một nhát dao) hoặc có thể lặp đi lặp lại nhiều lần
trong một thời gian dài (đầu độc dần dần, một thời gian sau mới chết). Hoặc thể hiện
dưới dạng khơng hành động phạm tội. Đó là trường hợp người phạm tội có nghĩa vụ
phải thực hiện một cơng việc nhất định và có điều kiện, có khả năng để thực hiện
nghĩa vụ đó của mình (Ví dụ: Người mẹ không cho đứa con mới đẻ bú làm đứa trẻ
clìết). Hậu quả trong cấu thành tội giết người là sự thiệt hại về lính mạng do hành vi
phạm tội của người phạm tội gây ra. Hậu quả trực tiếp của tội giết người là gây ra
cái chết cho nạn nhân. Nếu hậu quả chết người đã xảy ra thì tội phạm được coi là đã

hoàn thành. Trường hợp hậu quả chết người khơng xảy ra vì lý do khách quan gọi là
phạm tội chưa đạt. Phạm tội chưa đạt có 2 trường hợp sau:
-

Phạm tội chưa đạt chưa hồn thành: Người phạm tội vì những nguyên nhân

khách quan chưa thực hiện hết những hành vi cần thiết để gây ra hậu quá chết người
vì các hành vi này đã được ngăn chặn kịp thời. Ví dụ: Do ghen tng trong quan hệ
tình cảm, Nguyễn Văn Dũng đã dùng súng bắn vào đầu anh Phan Văn Thoại nhưng
trúng cánh tay, Dũng định bắn tiếp thì em trai anh Thoại xơng vào giằng được súng .
Anh Thoại bị thương, thiệt hại 31% sức khoẻ. Trong trường hợp này hậu quả xảy ra
chưa thoả mãn được mong m uốn của can phạm nhưng nguyên nhân của nó là do sự
can thiệp kịp thời của người khác. Do đó can phạm vẫn bị xử lý về tội giết người


17

theo qui định tại Điều 93 Bộ luật hình sự nhưng ở giai đoạn chưa đạt, chưa hoàn
thành.
-

Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Người phạm tội đã thực hiện hết các hành

vi cần thiết để giết người nhưng vì lý do khách quan mà hậu quả chết người đã
không xảy ra (nạn nhân khơng chết). Ví dụ: Can phạm đã đâm nạn nhân nhiều nhát,
tưởng nạn nhân đã chết nên bỏ đi nhưng thực tế nạn nhân chỉ bị thương chứ khơng
chết.
Về ngun tắc xử lý luật hình sự Việt Nam không quy định phạm tội chưa
đạt phải xử lý nhẹ hơn tội phạm đã hồn thành vì việc chưa xảy ra hậu quả không
phải do ý muốn của người đã phạm tội mà do nguyên nhàn khách quan đưa lại. Tuy

nhiên, thực tiễn xét xử có thể vận dụng trường hợp chưa gây hậu quả chết người là
tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Để xác định đúng hậu quả ta phải xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi và thiệt hại đã xảy ra, giữa hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác một cách
trái pháp luật và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi trái pháp
luật phải là nguyên nhân xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Hành vi đó phải
chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả chết người đối với chính nạn
nhân. Hành vi đó phải có mối quan hệ nội tại, tất nhiên với hậu quả; hậu quả xảy ra
phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả do hành vi của
can phạm đã gây ra.
Như vậy, việc xác định mối quan hệ nhân quả là điều kiện cần thiết để có thể
buộc người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác phải chịu trách
nhiệm về hậu quả chết người đã xảy ra. Người có hành vi tước đoạt trái pháp luật
tính mạng người khác chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã
xảy ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra
đó. Việc xác định này trong nhiều trường hợp hết sức phức tạp, địi hỏi có sự hỗ trợ
của giám định pháp y.
Các dấu hiệu khác trong mặt khách quan như thời gian, địa điểm và hồn
cảnh phạm tội khổng có tính chất bắt buộc trong việc định tội giết người, tuy nhiên

TH Ư V I Ệ N
: TRƯỜNG ĐAI HOC LUẬT HÀ INỘ! !
PUOM,- ,

xy0}>


18

trong một số trường hợp các dấu hiệu này có V nghĩa trong việc định khung hay

quyết định hình phạt.
*

Chủ thê của tội giết người
Chủ thể của tội giết người phải là người có đầy đủ điều kiện của chủ thể tội

phạm là năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định: “Người có năng
lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy” [15, tr 38].
Năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể sẽ bị loại trừ do bệnh tâm thần
hoặc m ột bệnh khác mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi . Đối
với những người này khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội dù có gây hậu quả
nghiêm trọng cũng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh đối với họ vì khi hành động họ khơng nhận thức được tính chất
và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của mình gây ra. Do đó cần phải cãn cứ
vào mức độ bệnh của họ để giải quyết cho phù hợp. Nếu họ bị bệnh nhưng khơng
hồn tồn mất khả năng nhận thức, họ khơng nhận thức được đầy đủ về tính chất và
mức độ do hành vi của họ gây ra thì họ vẫn phải chịu một phần trách nhiệm hình sự
(đây là trường hợp năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế). Trên thực tế xảy ra một
số trường hợp vì người phạm tội khơng có năng lực trách nhiệm hình sự nên mặc dù
vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng tồ án vẫn tuyên họ được miễn trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên việc này cũng cần phải căn cứ vào những tài liệu về giám
định pháp y tâm thần để xem xét bị cáo có bị tâm thần hay khơng, mức độ bệnh như
thế nào để có thể kết luận chính xác về tình trạng bệnh tật và về vấn đề trách nhiệm
hình sự.
Trường hợp bị cáo sau khi phạm tội mới lâm vào tình trạng khơng có năng
lực trách nhiệm hình sự thì bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội của mình vì khi phạm tội bị cáo vẫn nhận thức được đầy đủ tính chất nguy
hiểm của hành vi do mình gày ra. Nhưng sau khi phạm tội họ bị mắc bệnh tâm thần

thì việc xét xử sẽ khơng đạt u cầu do đó cần tạm đình chỉ việc truy tố, xét xử và áp


19

dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, họ có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình trước đó.
Người say rượu, mặc dù lúc đó năng lực nhận thức và năng lực điều khiển
hành vi của họ có thể bị hạn chế hoặc bị loại trừ mà thực hiện hành vi giết người thì
họ vãn là chủ thể của tội giết người vì họ có năng lực trách nhiệm hình sự khi đặt
mình vào tình trạng say... “Họ đã tự tước bỏ năng lực nhận thức và năng lực điều
khiển của mình, tự đặt mình vào tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế
hoặc bị loại trừ. Họ là người có lỗi đối với tình trạng say rượu của mình và do vậy
cũng có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong khi say rượu”
[15, tr 41].
Trường hợp người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự do muốn giết người đã
mượn tay một ngươi khơng có năng lực trách nhiệm hình sự để giết chứ khơng trực
tiếp giết thì người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự là chủ thể của tội giết
người cịn người khơng có năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là cơng cụ hành động
của người có năng lực trách nhiệm hình sự và họ khơng chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi do họ gây ra.
Điéu 12 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [5, tr 10].
Theo Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định thì tội giết người là tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, lỗi là cố ý. Vì vậy độ tuổi của chủ thể của
loại tội này là từ đủ 14 tuổi trở lên. Tuy nhiên, đối với người phạm tội chưa thành
niên do nhận thức còn non kém nên mức án thường xử nhẹ hơn người đã thành niên
và không áp dụng mức án tù chung thân hoặc án tử hình đối với họ. Trên đây là

những nét đặc trưng cơ bản của tội giết người, là căn cứ pháp lý chung nhất cho việc
định tội đồng thời là cơ sở để phân biệt tội giết người với các tội phạm khác có liên
quan.
*

M ặt chủ quan của tội giết người


20

Nếu như mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện ra bên ngồi của
tội phạm thì mặt chủ quan lại là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội.
Việc xác định mặt chủ quan trong tội giết người rất quan trọng vì thực tiễn cho thấy
có những hành vi khách quan giống nhau, hậu quả chết người cũng xảy ra nhưng
diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm khác Iihau nên tội danh khác nhau. Luật
Hình sự Việt Nam khơng chấp nhận việc: “ quy tội khách quan” mà không xem xét
đến lỗi của người phạm tội. v ề mặt chủ quan của tội phạm thì lỗi là dấu hiệu bắt
buộc khơng thể thiếu. Tội giết người luôn được thực hiện với lỗi cố ý do đó những
trường hợp xâm phạm tính mạng người khác do lỗi vơ ý thì người thực hiện hành vi
khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người mà tuỳ từng trường hợp có thể
phạm những tội khác như tội vô ý làm chết người (Điều 98 Bộ luật hình sự), tội vi
phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 Bộ
luật hình sự). Việc phân biệt lỗi rất quan trọng, nhất là trong các vụ án xâm phạm
tính mạng, sức khoe. Lỗi khơng những là cơ sở của trách nhiệm hình sự mà còn là
căn cứ quan trọng để phân biệt hành vi của bị cáo cấu thành tội phạm nào trong Bộ
luật hình sự.
Điều 9 Bộ luật hình sự quy định: “ Cố ý phạm tội là phạm tội trong trường
hợp nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra” [5, tr 9].
Về mặt lý trí, các chủ thể của tội giết người đều biết rằng hành vi của họ có tính chất

nguy hiểm cho xã hội. Đều thấy được trước hành vi của họ sẽ hoặc có thể gây ra hậu
quả chết người. Căn cứ vào thái độ của can phạm đối với hậu quả chết người có thể
phân biệt thành trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp và trường họp giết người
với lỗi cố ý gián tiếp.
Về mặt ý chí, trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội thấy trước
hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra). Nhưng vì mong muốn hậu
quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp lỏi cố ý gián tiếp, người
phạm tội nhận thức hành vi của mình có khả năng nguy hiểm đến tính mạng người
khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra nhưng để đạt được mục đích của
mình, người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quá xảy ra hay nói cách khác, họ có


21

ý thức chấp nhận hậu quả đó (nếu xảy ra). Thực tế cho thấy có những trường hợp
người phạm tội không mong muốn cho hậu quả chết người xảv ra đối với nạn nhân
nhưng họ lại thấy được tính tất yếu của hậu quả, tức là biết được rằng hành vi của
mình tất yếu sẽ dẫn đến hậu quả chết người mà vẫn hành động thì vẫn coi là người
phạm tội giết người với lỗi cố ý trực tiếp.
Tron? thực tiễn áp dụng luật hình sự, việc xác định lỗi nhiều khi rất phức tạp,
đặc biệt trong những trường hợp xác định lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý quá tự
tin đối với hậu quả chết người. Vì vậy, muốn tránh sai sót ta phải thu thập, đánh giá
tất cả các tình tiết đã thể hiện ra bên ngoài một cách biện chứng, toàn diện. Nếu
trong các vụ án xác định được người phạm tội có âm mưu ý định sẽ giết người từ
trước vì mục đích nào đó (Ví dụ như để trả thù, để cướp của...) họ đã có sự chuẩn bị
hoặc có kế hoạch để thực hiện ý định đó thì dù hậu quả chết người đã xảy ra hay
chưa vẫn bị coi là giết người với lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp khơng xác định
rõ được mục đích của người phạm tội nhưng trên thực tế họ đã dùng những loại
hung khí nguy hiểm, có khả năng gây chết người tấn cơng vào những nơi nguy hiểm
cho tính mạng của nạn nhân với mức độ quyết liệt. Người bình thường cũng biết

rằng hành vi đó tất nhiên sẽ làm cho nạn nhân chết mà liọ vẫn cố ý thực hiện thì
cũng coi như là trường hợp giết người với lỗi cố ý trực tiếp.
Với lỗi cố ý gián tiếp, về mặt lý trí người phạm tội khơng mong muốn cho
nạn nhân chết nhưng biết rằng hành vi của mình có thể làm cho nạn nhân chết mà
vẫn hành động, ý thức chủ quan của họ là ý thức mặc kệ, để mặc không cần quan
tâm đến việc nạn nhân chết hay sống, hậu quả xảy ra thế nào cũng được. Trong
trường hợp hậu quả chết ngưòi đã xảy ra, việc xác định lỗi là cố ý trực tiếp hay cố ý
gián tiếp khơng có ý nghĩa trong việc định tội nhưng việc xác định này sẽ có ý nghĩa
rất quan trọng nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan nhưng hậu quả
chết người chưa xảy ra. Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì người phạm tội chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích nếu là lỗi cố ý gián tiếp và
thương tích xảy ra thoả mãn địi hỏi của cấu thành tội phạm này. Nếu hậu quả chết
người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp thì người phạm tội phải
chịu trách nhiệm về tội giết người chưa đạt. Khác với lỗi cố ý trực tiếp là dù hậu quả


22

chết người đã xảy ra hay chưa, người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội giết người. Còn trong trường hợp họ phạm tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp thì
chỉ khi hậu quả chết người đã xảy ra trong thực tế người phạm tội mới phải chịu
trách nhiệm về tội giết người. Sau đây là một ví dụ cụ thể về tội giết người với lỗi cố
ý gián tiếp:
Anh Trần Văn Khanh ở Nguyễn Uý- Kim Bảng - Hà Nam tổ chức liên hoan
mừng nhà mới có mời Nguyễn Cơng Thắng và Nguyễn Văn Lan là hàng xóm đến
dự. Sau khi uống rượu Thắng và Lan lời qua tiếng lại và xảy ra xô xát. Thắng đã cầm
chai rượu đập vỡ vỏ đâm trúng vào cổ Lan dẫn đến hậu quả là Lan chết. Viện kiểm
sát nhân dân Tỉnh Hà Nam đã truy tố Thắng về tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp.
Đây là trường hợp can phạm thực hiện hành vi dùng vật sắc nhọn đâm vào vị trí
nguy hiểm của nạn nhân. Do đó can phạm nhận thức hậu quả chết người hồn tồn

có thể xảy ra. Thắng khơng mong muốn tước đoạt tính mạng của Lan nhưng vì bực
tức y đã đâm bừa, chấp nhận hậu quả muốn xảy ra thế nào cũng được. Việc xác định
lỗi cho tội giết người chủ yếu dựa vào diễn biến của hành vi khách quan, ta phải thu
thập mọi tình tiết khách quan của vụ án để đánh giá khả năng nhận thức của can
phạm, từ đó mới xác định chính xác được lỗi của người phạm tội.
Động cơ và mục đích trong tội giết người: Tất cả những người có ý thức và ý
chí khi phạm tội đều do một động cơ thúc đẩy và để nhàm đạt được một mục đích
nhất định. Nhưng đối với tội giết người thì dấu hiệu động cơ mục đích khơng phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Ta chỉ cần xác định trong hành vi có
dấu hiệu: “Cố ý tước bỏ sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật” thì
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Nếu người phạm tội
vì mục đích chống chính quyền nhân dàn mà thực hiện hành vi tước bỏ sinh mạng
của người khác một cách trái pháp luật thì họ sẽ bị xét xử theo tội danh khác: Tội
khủng bơ (Điều 84 Bộ luật hình sự 1999).
Dấu hiệu động cơ mục đích trong tội giết ngưừi có thể thay đổi mức độ nguy
hiểm của hành vi cho xã hội. Trong một số cấu thành tăng nặng của tội giết người
thì động cơ, mục đích là dấu hiệu định khung hình phạt vì vậy trong việc lượng hình
đối với tội giết người thì động cơ, mục đích có ý nghĩa rất quan trọng. Mặc dù mục


×