BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ THANH XUÂN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI NĂM 2006
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ THỊ THANH XUÂN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyờn ngành: Luật Hình sự
Mósố: 60. 38. 40
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
HÀ NỘI NĂM 2006
2
MỤC LỤC
TT
Trang
Mở đầu
3
Chương I: Những vấn đề chung về thi hành hì
nh phạt tù
8
1.1.
Khái niệm thi hành hì
nh phạt tù
1.2.
Các quy định cơ bản của chế định thi hành hì
nh phạt tù
Chương II: Thực trạng thi hành hì
nh phạt tùhiện nay
8
16
24
2.1.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thi hành hì
nh phạt tù
24
2.2.
Thực trạng thi hành hì
nh phạt tùở các trại giam thuộc Bộ Cơng
29
an
2.3.
Thi hành hì
nh phạt tùở các phân trại quản lýphạm nhân trong
các trại tạm giam
2.4.
35
Một số nhận xét, đánh giá về công tác quản lý vàtổ chức thi
hành hì
nh phạt tù
38
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực vàhiệu quả
của công tác thi hành hình phạt tù
48
3.1.
Dự báo tì
nh hì
nh vàgiải pháp chung
48
3.2.
Một số giải pháp cụ thể
52
Kết luận
63
Danh mục tài liệu tham khảo
65
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành hình phạt tùlàmột lĩnh vực hoạt động rất phức tạp vàcóliên
quan nhiều đến đời sống xãhội, đặc biệt làliên quan đến quyền tự do của con
người - một trong những quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ và được Hiến
pháp nước Cộng hoàxãhội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận. "Thi hành án phạt
tùlàbuộc những người bị kết án tùcóthời hạn, tùchung thân chấp hành hì
nh
phạt tại trại giam nhằm giáo dục họ trở thành người lương thiện" [68]. Với
mục tiêu như vậy, rõ ràng thi hành hình phạt tù đang giữ vai trò quan trọng
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm vàgóp phần bảo vệ trật tự pháp
luật xãhội chủ nghĩa.
Từ khi Pháp lệnh Thi hành hình phạt tù được ban hành, cơng tác thi
hành hì
nh phạt tù ở nước ta dần đi vào nền nếp. Các cơ quan có thẩm quyền
đã làm thay đổi căn bản cơng tác quản lý, giam giữ, giáo dục vàcải tạo người
bị kết án tù. Hàng năm đã trả về cho xãhội hàng trăm nghìn phạm nhân hết
thời hạn thi hành án, và đa số những người này khi tái hoànhập cộng đồng đã
trở thành những công dân tốt. Điều này càng khẳng định chí
nh sách hì
nh sự,
chí
nh sách hì
nh phạt của Nhà nước ta là đúng đắn vàcơng tác thi hành hì
nh
phạt tùvề cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra.
Tuy vâỵ, bên cạnh những kết quả đã đạt được thìcơng tác thi hành hình
phạt tùhiện nay ở nước ta cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn. Đó là việc thiếu một hệ thống pháp luật đồng
bộ, thống nhất làm hành lang pháp lý cho hoạt động thi hành loại hì
nh phạt
này đạt hiệu quả cao; công tác quản lý nhà nước về thi hành hì
nh phạt tù đang
cónhiều sơ hở, thiếu sót; chế độ quản lý, giáo dục, cải tạo trong trại giam và
4
việc phân chia trại giam thành các loại I, II, III như hiện nay đã tỏ ra khơng
cịn phù hợp với thực tiễn và các quy định trong các văn bản pháp luật khác
như Bộ luật Hì
nh sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; điều kiện
giam giữ, cơ sở vật chất, trang thiết bị... của các cơ sở giam giữ phạm nhân
tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập và đặc biệt là đến nay,
chưa giải quyết được tì
nh trạng quátải phạm nhân hiện nay; chế độ ăn, ở, sinh
hoạt cũng như giáo dục phạm nhân chưa đáp ứng yêu cầu; các quy định về
giam giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo... đối với phạm nhân là người nước ngồi
khơng rõ ràng đang gây nhiều khó khăn cho khâu tổ chức thực hiện; các quy
định về chế độ giam giữ, giáo dục, cải tạo đối với phạm nhân bị nhiễm
HIV/AIDS vàmắc nghiện ma tuý cũng chưa cụ thể vàthiếu thống nhất; biên
chế, trình độ, năng lực cán bộ cũng như quyền hạn của cơ quan làm cơng tác
thi hành hì
nh phạt tù trong Công an nhân dân chưa tương xứng với trách
nhiệm, phạm vi vàthẩm quyền quản lý được giao; số lượng người bị kết án tù
ở ngồi xãhội cịn nhiều, số trốn thi hành án, trốn trại từ trước đến nay chưa
được giải quyết, thanh loại vàtruy nãtriệt để. Bên cạnh đó, trên thực tế số
phạm nhân mãn hạn tùtái phạm tội vẫn cịn chiếm tỷ lệ cao (khoảng 10-13%).
Chí
nh vìthế, việc nghiên cứu những vấn đề lýluận vàthực tiễn về thi
hành hình phạt tù hiện nay ở nước ta để có cơ sở đưa ra các giải pháp thiết
thực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác này đang là một yêu cầu
bức thiết. Nhận thức được điều đó, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Một
số vấn đề về thi hành hình phạt tù ở Việt Nam hiện nay" làm Luận văn
Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc luận giải cơ sở lýluận vàthực tiễn để đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động thi hành hình phạt tù ln được các nhàkhoa học vàhoạt
động thực tiễn quan tâm. Nhờ đó, trong những năm gần đây đã xuất hiện một
5
số các cơng trình khoa học đề cập đến vấn đề thi hành hình phạt tù dưới các
góc độ, khía cạnh khác nhau, trong đó đáng chú ý là các cơng trì
nh sau:
- Lê Văn Thư (2004), Phịng ngừa tội phạm qua hoạt động thi hành án
phạt tùcủa lực lượng Cảnh sát nhân dân hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học,
Học viện Cảnh sát nhân dân, HàNội.
- Hoàng Ngọc Nhất (1999), Quản lý Nhà nước về thi hành án phạt tù,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Công an, HàNội.
- Nguyễn Hữu Duyện (2001), Tổ chức thi hành án phạt tù cho phạm
nhân là người nước ngoài trong các trại giam của Bộ Công an, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Bộ Công an, HàNội.
- Phạm Đức Chấn (1998), Tổ chức lao động sản xuất cho phạm nhân
trong các trại giam thuộc lực lượng Công an nhân dân, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, Bộ Cơng an, HàNội.
Ngồi ra, cịn có một số bài báo, tạp chí đăng ở các báo và tạp chí
chuyên ngành cũng bàn về vấn đề này. Tuy nhiên, do mục đích cũng như cách
tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các tác giả ở những góc độ, khía cạnh khác
nhau nên các cơng trình trên mới dừng lại ở mức độ tổng kết, nghiên cứu và
đề xuất các giải pháp riêng lẻ ở từng mặt của hoạt động thi hành hì
nh phạt tù.
Do đó, có thể khẳng định, nghiên cứu vấn đề thi hành hình phạt tù một cách
tổng thể dưới góc độ khoa học luật hình sự vàtố tụng hì
nh sự làthực sự cần
thiết, có ý nghĩa lý luận vàthực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lýluận vàthực tiễn liên quan đến hoạt động
thi hành hình phạt tù, làm rõ hơn và khẳng định một số luận điểm khoa học về
thi hành hì
nh phạt tù, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu lực
6
vàhiệu quả của hoạt động này trong giai đoạn hiện nay làmục đích nghiên
cứu của luận văn.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải giải quyết được một số nhiệm
vụ sau:
- Làm rõkhái niệm về thi hành hì
nh phạt tù; những nguyên tắc chỉ đạo,
chi phối tồn bộ hoạt động này;
- Phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về thi hành hì
nh phạt tù; thực
trạng tổ chức và hoạt động của công tác thi hành hì
nh phạt tù ở các cơ sở
quản lýphạm nhân hiện nay;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
công tác thi hành hình phạt tùở Việt Nam hiện nay.
3.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động thi hành hì
nh
phạt tù(tùcóthời hạn vàtùchung thân) của lực lượng Công an nhân dân (tác
giả khơng nghiên cứu vấn đề thi hành hì
nh phạt tù nhưng cho hưởng án treo).
Những số liệu nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu lấy từ năm
1993 đến nay. (Tuy nhiên, do yêu cầu bảo mật của ngành Công an nên hầu hết
các số liệu được công bố trong luận văn đều được làm tròn)
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ ChíMinh, chí
nh sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước ta về phịng, chống tội phạm nói chung vàthi hành hình phạt nói
riêng. Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận văn, tác giả sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích; tổng hợp; thống kê; so sánh,
đối chiếu; tư vấn, chuyên gia...
5. Ý nghĩa lý luận vàthực tiễn của luận văn
7
Luận văn góp phần làm rõ những khái niệm, quan niệm về thi hành
hì
nh phạt tù, đưa ra những đề xuất cụ thể, khả thi nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của công tác này. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ làtài liệu tham
khảo tốt cho các nhàhoạt động thực tiễn trong lực lượng Công an nhân dân
(từ các nhàhoạch định chí
nh sách, quản lý, cán bộ pháp chế xây dựng pháp
luật, những cán bộ trực tiếp làm cơng tác thi hành hình phạt tù) vànhững ai
quan tâm đến vấn đề này.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận vàdanh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về thi hành hình phạt tù
Chương II: Thực trạng thi hành hì
nh phạt tùhiện nay
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực vàhiệu quả của
công tác thi hành hình phạt tù.
8
Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
1.1. KHÁI NIỆM THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt tù
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay, trong khoa học pháp lývẫn chưa có một khái niệm hồn
chỉnh về thi hành hình phạt tù. Trong các sách, báo pháp lývàngay cả trong
Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993, quan niệm về thi hành hì
nh phạt tù
cũng mới chỉ dừng lại ở phạm vi hạn hẹp. Theo đó thì thi hành hình phạt tùlà
"buộc những người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân chấp hành án tại
trại giam nhằm giáo dục họ trở thành người lương thiện" [68]. Quan niệm
này chưa thể hiện được bản chất hoạt động, giới hạn vàphạm vi tác động, chủ
thể được giao nhiệm vụ thi hành hì
nh phạt tù vàcác nội dung hoạt động rất
phong phú, đa dạng của các chủ thể đó.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hì
nh sự năm 2003, thi hành hình
phạt tùlàmột lĩnh vực, một bộ phận quan trọng trong hoạt động thi hành bản
án vàquyết định của Tồán. Với tí
nh chất làmột giai đoạn diễn ra tiếp theo
giai đoạn xét xử, những vấn đề thủ tục về thi hành hì
nh phạt tùchủ yếu được
điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật tố tụng hì
nh sự. Tuy nhiên, hoạt
động thi hành hì
nh phạt tùkhông chỉ đơn thuần được điều chỉnh bằng các quy
định của pháp luật tố tụng hì
nh sự màcịn bằng các quy định của pháp luật
khác, được thể hiện thông qua các quy định mang tính hành chí
nh - tư pháp
như về tổ chức trại giam và phân loại trại giam; chế độ quản lý, giam giữ
người bị kết án tù; chế độ lao động, học tập vàsinh hoạt của người đang chấp
hành hì
nh phạt tù; nhiệm vụ của cơ quan quản lý vàtổ chức thi hành hì
nh
phạt tù... Quátrì
nh thảo luận, đề xuất các phương án xây dựng Bộ luật Thi
9
hành án hiện nay đang làm nổi rõ tính chất hành chí
nh - tư pháp của hoạt
động thi hành án nói chung vàthi hành hì
nh phạt tùnói riêng.
Là một hoạt động mang tí
nh chất tố tụng và hành chính tư pháp rất
phức tạp, nhạy cảm vàcó liên quan trực tiếp đến quyền tự do, dân chủ của
công dân, thi hành hì
nh phạt tùbao gồm tồn bộ hoạt động quản lý, giáo dục,
cải tạo những người bị kết án tùtheo thời hạn quy định trong bản án nhằm trả
về cho xãhội những con người khơng cịn nguy hiểm, có ích cho xãhội. Do
vậy, thi hành hình phạt tù ln ln đóng vai trò quan trọng trong việc phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Đối tượng của thi hành hì
nh phạt tùlànhững người bị kết án tùcóthời
hạn, tù chung thân. Theo quy định của Bộ luật Hì
nh sự năm 1999, "tù có thời
hạn làviệc buộc người bị kết án tùphải chấp hành hì
nh phạt tại trại giam trong
một thời hạn nhất định. Tùcóthời hạn đối với người phạm tội cómức tối thiểu
làba tháng, mức tối đa là hai mươi năm" (Điều 33) [11]; cịn tùchung thân là
"hì
nh phạt tù khơng thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình" (Điều 34) [11].
Thi hành hình phạt tù làbuộc người bị kết án tù có thời hạn, tù chung
thân phải chấp hành hì
nh phạt tùtại trại giam, lao động, học tập để trở thành
người cóích cho xãhội. Trại giam làcơng cụ thi hành hì
nh phạt tù trực tiếp
của Nhà nước. Bất kỳ Nhà nước của giai cấp nào cũng tổ chức trại giam (nhà
tù) để giam giữ, giáo dục, cải tạo những người phạm tội. Dưới chế độ ta, trại
giam là nơi quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo người bị kết án tùcóthời hạn,
tù chung thân để họ trở thành người lương thiện, cóích cho xãhội.
Theo pháp luật thực định vàthực tiễn thi hành hình phạt tùthìgiam giữ
tại trại giam đối với người bị kết án tùlàsự tước đoạt quyền tự do đi lại, lựa
chọn chỗ ở vàhạn chế những lợi ích vật chất hay tinh thần nhất định, như tự
do giao tiếp với gia đình, xã hội; buộc phải lao động, học tập theo quy định; bị
10
tước đi một phần thu nhập trong thời gian chấp hành hình phạt, bắt buộc phải
ăn, uống, sinh hoạt theo một chế độ, thời gian nhất định... Việc giáo dục của
trại giam đối với người bị kết án tù thực chất là qtrì
nh xố bỏ tư tưởng
chống đối chí
nh quyền, tư tưởng bóc lột, ăn bám, xố bỏ những thói quen,
tí
nh cách, nhu cầu... lệch lạc với các chuẩn mực xãhội nói chung vàpháp luật
nói riêng nhằm xây dựng cho họ nhân cách, đạo đức, thế giới quan mới, có
văn hố, có nghề nghiệp, cósức khoẻ để khi về với xãhội họ lànhững người
biết hồnhập, lương thiện, có ích. Đồng thời qua đó, cũng giáo dục cho người
khác thấy rõ tính nghiêm minh của pháp luật "phạm tội làbị trừng phạt" để
phịng ngừa tội phạm.
Cũng cần nói thêm rằng, các quy định của pháp luật hiện hành về thi
hành hì
nh phạt tù không những chỉ quy định nhiệm vụ, cách thức, phương
thức hoạt động của cơ quan được giao trách nhiệm thi hành hình phạt tùtrong
Cơng an nhân dân, Qn đội nhân dân trong việc thi hành bản án, quyết định
phạt tùcủa Tồ án mà cịn quy định trách nhiệm phối hợp giữa họ với các cơ
quan khác của Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xãhội, đơn vị vũ trang nhân
dân, gia đình người bị kết án tùtrong hoạt động thi hành hì
nh phạt tùvàgiúp
đỡ người đã chấp hành xong hì
nh phạt tùtạo lập cuộc sống bình thường.
Từ những phân tích trên, cóthể đi đến khái niệm về thi hành hình phạt
tù như sau:
Thi hành hì
nh phạt tùlàhoạt động cótí
nh chất hành chính tư pháp của
các cơ quan chuyên trách trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân mà
nịng cốt là các trại giam, thơng qua việc thực hiện các quy trì
nh và biện
pháp giam giữ, tác động theo quy định của pháp luật nhằm mục đích trừng trị
và giáo dục, cải tạo người bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân để họ trở
thành người lương thiện, cóí
ch cho xãhội.
1.1.1.2. Vị trícủa thi hành hình phạt tù
11
Để xác định vị trícủa thi hành hì
nh phạt tù, trước hết cần phải tì
m hiểu
quan niệm về vị trícủa hoạt động thi hành án nói chung. Hiện nay, xung quanh
việc xác định vị trícủa hoạt động thi hành bản án vàquyết định của Toà án đang
tồn tại nhiều quan niệm khác nhau.
Quan niệm truyền thống thìcho rằng, thi hành bản án vàcác quyết định
của Toàán làmột giai đoạn độc lập trong tố tụng hì
nh sự, làmột loại hoạt động
tố tụng hì
nh sự, bởi lẽ, ngay tại Điều 1 của Bộ luật Tố tụng hì
nh sự năm 2003
cũng đã xác định nhiệm vụ của mình là "quy định trì
nh tự, thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vàthi hành án hì
nh sự" [36].
Quan niệm thứ hai cho rằng, thi hành bản án vàquyết định của Toàán là:
một ngành luật tổng hợp, bao gồm các quy phạm của những ngành luật khác
nhau hợp thành.
Quan niệm thứ ba thìcho rằng, thi hành bản án vàquyết định của Tồán
khơng phải làmột bộ phận của pháp luật tố tụng màlàmột ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật của bất kỳ một hệ thống pháp luật nào.
Trong ba quan niệm trên, chúng tơi nghiêng về cách nhì
n nhận thứ ba. Bởi
vì, khi xác định vị trícủa thi hành bản án vàquyết định của Tồán nói chung và
thi hành hì
nh phạt tùnói riêng, chúng ta không chỉ đơn thuần xem xét, đánh giá
các quy định của pháp luật thực định màcòn phải xem xét thực tiễn thi hành các
quy định đó. Theo lý luận chung về Nhà nước vàpháp luật thì căn cứ để phân
định một ngành luật làdựa vào đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
của ngành luật đó. Mà các hoạt động liên quan đến việc thi hành bản án vàquyết
định của Tồ án có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
Chẳng hạn, đối tượng điều chỉnh của thi hành hì
nh phạt tùlàcác quan hệ xãhội
nảy sinh trong quátrì
nh thi hành vàchấp hành bản án vàquyết định phạt tùcủa
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Vàmột bên của mối quan hệ này là Nhà nước
thông qua các cơ quan được giao nhiệm vụ thi hành hì
nh phạt tù, cịn bên kia là
12
người bị kết án có nghĩa vụ phải chấp hành bản án phạt tù do Toà án đã tuyên.
Vấn đề cần lưu ý ở đây là cơ quan thi hành án, chẳng hạn theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hì
nh sự hiện hành (Điều 33) thìkhơng phải là cơ quan tiến hành tố
tụng (điều này giúp loại trừ tí
nh chất tố tụng trong hoạt động của cơ quan này).
Còn phương pháp để tổ chức thi hành án hì
nh sự nói chung vàthi hành hì
nh phạt
tù nói riêng cũng khác với các hoạt động tố tụng khác, đó là phương pháp
"quyền uy - mệnh lệnh". Mặt khác, theo Bộ luật Tố tụng hì
nh sự năm 2003, thì
mục đích của việc quy định trì
nh tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án là"nhằm phát hiện chí
nh xác, nhanh chóng vàxử lýcơng minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vơtội"
[36]. Các nhiệm vụ màtố tụng hì
nh sự đặt ra ở đây không do các cơ quan thi
hành bản án vàquyết định của Toàán thực hiện. Việc xử lýtội phạm và người
phạm tội kết thúc khi bản án vàquyết định hì
nh sự của Tồ án đã có hiệu lực
pháp luật. Các cơ quan thi hành án chỉ thực hiện những nội dung trong bản án,
quyết định hì
nh sự đã có hiệu lực pháp luật của Tồán màthơi.
Từ những phân tí
ch trên cóthể khẳng định rằng, hoạt động thi hành bản
án vàquyết định của Tồán làhoạt động hành chí
nh - tư pháp, nằm ngoài phạm
vi điều chỉnh của pháp luật tố tụng. Điều chỉnh hoạt động này làtổng thể các quy
phạm pháp luật hiện nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, vídụ về thi
hành hì
nh phạt tùthìbao gồm các quy định của Bộ luật Tố tụng hì
nh sự, Pháp
lệnh thi hành án phạt tù, Quy chế trại giam của Chí
nh phủ vàmột loạt các văn
bản hướng dẫn khác của các ngành hữu quan. Vìthế, việc xây dựng Bộ luật Thi
hành án như là một văn bản tổng hợp các quy phạm pháp luật về lĩnh vực thi
hành án nói chung là cơ sở để hì
nh thành một ngành luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam vàcác quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xãhội trong
lĩnh vực thi hành hì
nh phạt tùsẽ làmột bộ phận của ngành luật đó.
1.1.2. Pháp luật thi hành hình phạt tù.
13
Pháp luật thi hành hì
nh phạt tù làhệ thống các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành để điều chỉnh những quan hệ xãhội phát sinh trong lĩnh
vực thi hành bản án vàquyết định phạt tùcủa Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến việc xây dựng và
từng bước hồn thiện pháp luật thi hành hình phạt tù. Trên cơ sở Hiến pháp
năm 1946, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 150/SL ngày 7/11/1950 về
tổ chức trại giam. Theo đó, "phạm nhân phải được giam giữ trong trại giam để
trừng trị vàgiáo hoá", vàgiao Bộ Nội vụ có trách nhiệm "tổ chức kiểm sốt
trại giam trong toàn quốc". Để thi hành Sắc lệnh trên, các ngành liên quan đã
ban hành các văn bản hướng dẫn như: Nghị định 181/NV-TP ngày 12/6/1951
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ vàBộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định những chi tiết về
sự thiết lập, tổ chức và kiểm soát trại giam; Thông tư số 176/NV-TP ngày
12/6/1951 của Liên Bộ Nội vụ - Tư pháp giải thí
ch về tổ chức vàkiểm sốt
các trại giam...
Ngày 23/11/1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết nghị số
26/QN/TW về công tác công an, trong đó "việc quản trị trại giam, giáo dục,
cải tạo phạm nhân" được chuyển giao từ Bộ Nội vụ vàUỷ ban kháng chiến
hành chí
nh liên khu, Uỷ ban kháng chiến hành chí
nh cấp tỉnh sang ngành
Cơng an. Do u cầu ngặt nghèo của cuộc kháng chiến, lại chưa có kinh
nghiệm trong việc giam giữ, quản lý, cải tạo nên nhì
n chung, chế độ giam giữ,
quản lý, cải tạo người bị kết án tù trong thời kỳ này nặng về khuynh hướng
giam giữ nghiêm ngặt, coi nhẹ việc chăm lo giáo dục, cảm hoávàcải thiện
điều kiện sinh hoạt đối với người bị giam giữ.
Ngày 20/6/1961, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 49/NQUBTVQH về việc tập trung giáo dục, cải tạo những phần tử có hành động
nguy hại cho xãhội. Theo đó, số tập trung giáo dục, cải tạo không được coi
như những người bị kết án tùvàphải tổ chức riêng những trại để giáo dục, cải
14
tạo họ. Nhưng do khó khăn và thiếu nhiều điều kiện nên các trại giam đều
giam giữ chung 2 loại đối tượng: đã có án và bị tập trung giáo dục, cải tạo.
Năm 1962, Chủ tịch Hồ ChíMinh ký ban hành "Pháp lệnh Cảnh sát nhân
dân", trong đó có quy định giao cho lực lượng Cảnh sát nhân dân nhiệm vụ tổ
chức thi hành hì
nh phạt tù, bao gồm việc quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo
người bị kết án. Thời kỳ này, việc quản lý các trại giam được giao cho cả
Công an cấp tỉnh vàBộ Công an.
Từ năm 1969 đến năm 1975, để đảm bảo yêu cầu giáo dục, cải tạo và
quản lý người bị kết án tù, Chính phủ đã ra Quyết định số 193-QĐ/CP chuyển
tất cả các trại giam về Bộ Công an quản lý. Như vậy, tổ chức hệ thống thi
hành hình phạt tù đã thống nhất về một mối do Tổng cục Cảnh sát nhân dân
trực tiếp quản lý. Thực hiện nhiệm vụ này, ngày 1/1/1971, Cục Cảnh sát trại
giam đã ban hành 17 chế độ công tác trại giam, bao gồm: Nội quy trại cải tạo
phạm nhân (trại giam); quy định chế độ tổ chức và hướng dẫn cho phạm nhân
lao động vàhọc nghề ở trại cải tạo; quy định chế độ khen thưởng vàkỷ luật
đối với phạm nhân ở trại cải tạo; quy định về chế độ hồ sơ, thống kêở các trại
cải tạo; quy định về điều tra, khai thác phạm nhân...
Năm 1985, Quốc hội thơng qua Bộ luật Hình sự. Theo đó, 100% các
điều luật quy định về tội phạm đều cóchế tài làhình phạt tù, trong đó có gần
64% các điều, khoản có chế tài làhì
nh phạt tù có thời hạn vànặng hơn hình
phạt tù có thời hạn; chỉ có khoảng gần 30% điều, khoản có chế tài lựa chọn
giữa hì
nh phạt tùcóthời hạn vàcác hình phạt khác nhẹ hơn hình phạt tù. Điều
này chi phối đến việc áp dụng hình phạt của Tồán khi xét xử vụ án hình sự
và người bị kết án tùvẫn chiếm tỷ lệ đa số trong tổng số người bị kết án.
Năm 1988, Bộ luật Tố tụng hì
nh sự được Quốc hội thơng qua, trong đó
một số vấn đề về thủ tục thi hành án phạt tù, hỗn, tạm đình chỉ thi hành án
15
phạt tù... đã được pháp điển hoá, nguyên tắc "chế độ tạm giữ, tạm giam khác
với chế độ người đang chấp hành hì
nh phạt tù" đã được ghi nhận.
Hiện nay, lĩnh vực thi hành hình phạt tù đang được điều chỉnh bởi Hiến
pháp năm 1992, Bộ luật Hì
nh sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hì
nh sự năm
2003, Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993, Nghị định 60/CP ban hành
Quy chế Trại giam, các văn bản hướng dẫn của liên ngành, của Bộ Công an
vàcủa các ngành hữu quan. Vídụ như: Ngày 30/3/1993, liên ngành Tồ án Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã ra Thông tư số 03/TTLN hướng dẫn thực
hiện một số quy định của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù. Ngày 20/12/1993,
liên Bộ Nội vụ - Quốc phịng - Tài chí
nh - Giáo dục và đào tạo - Lao động,
Thương binh và xã hội đã ra Thông tư số 11/TTLB hướng dẫn việc giáo dục,
pháp luật, giáo dục cơng dân, dạy văn hố, dạy nghề, chế độ sinh hoạt, giải trí
cho phạm nhân. Ngày 20/12/1993, liên Bộ Nội vụ - Quốc phòng - Tài chí
nh Y tế - Lao động, Thương binh và xã hội đã ban hành Thông tư số 12 - TTLB
hướng dẫn thực hiện chế độ ăn, mặc, tổ chức phòng, chữa bệnh, phòng ngừa
tai nạn lao động nghề nghiệp cho phạm nhân. Ngày 20/12/1993, liên Bộ Nội
vụ - Quốc phịng - Tài chính đã ra Thơng tư số 09/TT/NV-QP-TC hướng dẫn
chế độ lao động vàsử dụng kết quả lao động của phạm nhân... Bên cạnh đó,
Bộ Cơng an cũng ban hành hàng loạt văn bản để hướng dẫn cụ thể việc thi
hành các văn bản của cấp trên, vídụ như Quyết định số 458/BNV(V19) ngày
13/12/1993 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc quản lý nhà nước về thi hành án
phạt tùtrong lực lượng Công an nhân dân; Quyết định số 07/BNV(X13) ngày
18/1/1994 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc thành lập bệnh xátại các trại tạm
giam, trại giam; Quyết định số 482/BNV(V26) ngày 10/8/1995 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ về việc ban hành Nội quy Trại giam loại I, Nội quy Trại giam loại
II, Nội quy Trại giam loại III...
16
Tóm lại, pháp luật về thi hành hì
nh phạt tùở nước ta hiện nay được thể
hiện trong Hiến pháp; các bộ luật như Bộ luật Hì
nh sự, Bộ luật Tố tụng hì
nh
sự; các Pháp lệnh; các Nghị định, Quyết định, Thơng tư của Chí
nh phủ, của
các bộ, ngành liên quan vàcủa Bộ Cơng an. Đây chính là cơ sở pháp lý của
hoạt động thi hành hì
nh phạt tù. Các quy định pháp luật này đang ngày càng
được hoàn thiện để đáp ứng kịp thời nhu cầu điều chỉnh của lĩnh vực hoạt
động cực kỳ phức tạp, nhạy cảm này. Thực tế, pháp luật thi hành hình phạt tù
đã làm cho tổ chức vàthi hành hì
nh phạt tù ở nước ta có những bước phát
triển mới về chất, làm thay đổi căn bản công tác quản lý, giam giữ, giáo dục
vàcải tạo phạm nhân trong những năm qua.
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỊNH THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ.
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thi hành hình phạt tù.
Thi hành hình phạt tù làmột trong những chế định quan trọng của thi
hành án hì
nh sự, do vậy, các nguyên tắc chung của thi hành án hình sự cũng là
nguyên tắc của thi hành hì
nh phạt tù. Tuy nhiên, thi hành hì
nh phạt tùvới tư
cách là một bộ phận riêng biệt trong ngành luật thi hành án nên nó vẫn có
những nguyên tắc đặc thù riêng. Hay nói cách khác, thi hành hình phạt tù bị
chi phối bởi các nguyên tắc chung của thi hành án hì
nh sự vàngun tắc đặc
thùriêng cótrong chế định thi hành hì
nh phạt tù.
Nguyên tắc của pháp luật thi hành hì
nh phạt tù chính là các quan điểm,
tư tưởng chỉ đạo được thể hiện trong các văn bản pháp luật về thi hành hì
nh
phạt tù, xác định và định hướng cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân được giao nhiệm vụ thi hành hì
nh phạt tùtrong việc thực hiện nội dung
bản án vàquyết định phạt tùcủa Toà án đối với người bị kết án.
Các nguyên tắc của pháp luật thi hành hì
nh phạt tù bao gồm: nguyên
tắc pháp chế xãhội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xãhội chủ nghĩa; ngun
tắc cơng bằng; ngun tắc phân hốtối đa và cá thể hoá; nguyên tắc kết hợp
17
thuyết phục với cưỡng chế; nguyên tắc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục
người bị kết án; nguyên tắc cải tạo, giáo dục bằng lao động cóích cho xãhội.
1.2.1.1. Nguyên tắc pháp chế xãhội chủ nghĩa.
Nguyên tắc pháp chế xãhội chủ nghĩa là nguyên tắc quan trọng và cơ
bản của quátrình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nói đến pháp chế là
nói đến sự tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để pháp luật từ phía các cơ Nhà nước,
nhân viên Nhà nước, các tổ chức xãhội vàmọi công dân. Nguyên tắc pháp
chế xãhội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại Điều 12 - Hiếp pháp 1992 và được
khẳng định là nguyên tắc cơ bản, quan trọng của Luật Hì
nh sự và Tố tụng
hì
nh sự.
Trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung vàthi hành hình phạt tù
nói riêng, nguyên tắc pháp chế xãhội chủ nghĩa cũng có vai trị là ngun tắc
cơ bản, xun suốt tồn bộ các hoạt động xây dựng cũng như áp dụng pháp
luật. Theo đó, ngun tắc pháp chế địi hỏi pháp luật về thi hành hì
nh phạt tù
phải được nhận thức vàthực hiện thống nhất, đầy đủ, đúng đắn, triệt để trên
tồn lãnh thổ Việt Nam. Điều này địi hỏi Nhà nước phải kịp thời thể chế hoá
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về giáo dục, cải tạo người bị
kết án tù, về cơ quan thi hành hình phạt tù; về thủ tục thi hành hì
nh phạt tù; về
chế độ giam giữ, giáo dục, sinh hoạt, lao động đối với người chấp hành hì
nh
phạt tù... thành pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành hình
phạt tù. Đồng thời phải xây dựng cơ chế pháp lý tạo sự thuận lợi cho hoạt
động kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của Viện Kiểm sát, hoạt động kiểm tra
việc thi hành bản án, quyết định phạt tù của Toàán vàcủa xãhội. Ngoài ra,
nguyên tắc pháp chế xãhội chủ nghĩa còn đòi hỏi các cơ quan, tổ chức thi
hành hình phạt tù, người bị kết án tù phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định của pháp luật về thi hành hình phạt tù vàphải chịu trách nhiệm về việc
18
đó. Mọi hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cánhân nào
trong lĩnh vực này cũng đều phải chịu trách nhiệm pháp lý.
1.2.1.2. Nguyên tắc nhân đạo xãhội chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực thi hành hì
nh phạt tù, nguyên tắc nhân đạo được thể
hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước mà đại diện là cơ quan, tổ chức thi
hành hì
nh phạt tù và người bị kết án tù; giữa người bị kết án tùvới cộng đồng
vàvới các thành viên khác trong xãhội. Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi các quy
phạm pháp luật về thi hành hì
nh phạt tùphải coi việc giáo dục, cải tạo phạm
nhân nhằm hoàn trả lại cho xãhội những con người lương thiện, sống cóích
làmục đích chính của mình. Khi tổ chức thi hành hình phạt tù, khơng được áp
dụng các biện pháp nhục hì
nh, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người bị
kết án. Mặt khác, các quy phạm pháp luật thi hành hì
nh phạt tù cũng cần phải
đảm bảo bảo vệ hài hồlợi ích của người bị kết án, các thành viên trong xã
hội vàcủa toàn xãhội. Pháp luật về thi hành hì
nh phạt tùhiện nay đã có nhiều
quy định thể hiện nguyên tắc nhân đạo xãhội chủ nghĩa như các quy định về
hỗn, miễn, giảm chấp hành hình phạt tù, quy định về đặc xá, đại xá...
1.2.1.3. Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc công bằng được thể hiện thông qua việc Nhà nước quy định
các quy phạm pháp luật về việc chấp hành hì
nh phạt đối với từng loại người
bị kết án theo bản án của Toàán. Việc phân chia trại giam thành trại giam loại
I, loại II, loại III với chế độ khác nhau làmột vídụ. Các quy phạm pháp luật
về thi hành hì
nh phạt tùcịn quy định rõtrách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
thi hành hì
nh phạt tùnói chung vàcác cán bộ, chiến sỹ của cơ quan, tổ chức
này nói riêng phải ln đối xử cơng bằng trong việc quản lý, giáo dục, cải tạo
người đang chấp hành hì
nh phạt tù theo đúng các quy định của pháp luật. Tuy
nhiên, cơng bằng khơng có nghĩa là cào bằng và càng khơng có nghĩa là
ngang nhau tuyệt đối. Việc áp dụng các chế độ nghiêm khắc khác nhau đối
19
với người phạm tội khác nhau tuỳ theo mức độ nguy hiểm của hành vi tội
phạm vànhân thân người phạm tội, xét cho cùng, làsự thể hiện sự công bằng
của pháp luật thi hành hình phạt tù.
1.2.1.4. Nguyên tắc phân hoátối đa và cá thể hoá.
Đây là một trong những ngun tắc rất quan trọng trong chí
nh sách
hì
nh sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội. Trong thi hành hình
phạt tù, ngun tắc phân hốtối đa và cá thể hốlàmột điều kiện quan trọng,
khơng thể thiếu được để đảm bảo tí
nh cơng bằng và nhân đạo cũng như đảm
bảo khả năng có thể giáo dục cải tạo người bị kết án tùtrở thành người lương
thiện. Nguyên tắc này địi hỏi pháp luật về thi hành hình phạt tùphải quy định
rõ ràng, cụ thể các loại chế độ giam giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo... những
người bị kết án tù dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xãhội của tội
phạm và các đặc điểm về nhân thân của những đối tượng đó. Pháp luật thi
hành hình phạt tù đã cố gắng phân loại một cách tối đa chế độ giam giữ, cải
tạo, áp dụng các chí
nh sách, các biện pháp khen thưởng, kỷ luật khác nhau sát
hợp với sự tiếp thu, giáo dục cải tạo của từng người bị kết án cụ thể. Bên cạnh
đó, phải giam phạm nhân nam riêng, phạm nhân nữ riêng, phạm nhân là
người chưa thành niên riêng; phạm nhân là người nước ngoài riêng...
1.2.1.5. Nguyên tắc kết hợp thuyết phục với cưỡng chế.
Nguyên tắc này làmột sự cụ thể hoánguyên tắc chung trong quản lý
Nhà nước, quản lýxãhội. Nguyên tắc kết hợp thuyết phục với cưỡng chế đòi
hỏi các biện pháp giáo dục, quản lý người bị kết án tùphải đảm bảo được sự
kết hợp một cách nhuần nhuyễn, đúng đắn giữa thuyết phục (giáo dục, cảm
hoá người phạm tội) và cưỡng chế (trừng trị) khi cần thiết. Tất nhiên, đối với
từng trường hợp cụ thể sự kết hợp giữa thuyết phục và cưỡng chế sẽ được áp
dụng với những mức độ vàliều lượng khác nhau. Nguyên tắc này cịn địi hỏi
các cơ quan, tổ chức thi hành hì
nh phạt tùtrong mọi trường hợp phải làm sao
20
sử dụng thuyết phục một cách tối đa và cưỡng chế ở mức tối thiểu. Để từ đó
đảm bảo hướng tới mục tiêu đạt được mục đích chính của hình phạt.
1.2.1.6. Nguyên tắc đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án.
Nguyên tắc này xuất phát từ lýluận Mác-Lênin về tội phạm, khơng có
người phạm tội bẩm sinh, chỉ có người phạm tội do hồn cảnh, điều kiện nhất
định. Vìthế khi hồn cảnh, điều kiện thay đổi, nhất định sẽ cải biến được
người phạm tội, giáo dục, cải tạo họ thành người lương thiện. Khi đặt ra mục
đích của hình phạt, Bộ luật Hì
nh sự 1999 cũng nhằm mục tiêu giáo dục họ trở
thành người có ích cho xãhội. Trong lĩnh vực thi hành hì
nh phạt tù, nguyên
tắc này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức thi hành hì
nh phạt tù cũng như Nhà nước
vàxãhội phải thừa nhận khả năng có thể cải tạo, giáo dục người bị kết án tù
trở thành người lương thiện. Từ đó khơng ngừng hồn thiện vànâng cao các
biện pháp tác động đến người bị kết án tù để khi ra tù, họ trở thành những con
người khơng cịn nguy hiểm, có thái độ tôn trọng pháp luật vàtôn trọng các
quy tắc của lối sống xãhội chủ nghĩa...
1.2.1.7. Nguyên tắc cải tạo, giáo dục bằng lao động cóích cho xãhội
Lao động là cơ sở tồn tại của mọi chế độ xãhội vàcóvai trịquan trọng
đối với sự phát triển vàhồn thiện con người. Đối với lĩnh vực thi hành hì
nh
phạt tù, lao động là một trong những biện pháp vô cùng quan trọng để tác
động đến người bị kết án nhằm giáo dục họ trở thành người cóí
ch cho xãhội.
Lao động là nghĩa vụ của người bị kết án tù. Thông qua lao động, người bị kết
án tùmới hiểu rõ được giátrị của những của cải vật chất màmình làm ra, mới
hiểu rõ được giá trị của sức lao động và tôn trọng sức lao động của người
khác. Ngoài ra, lao động cũng giúp họ cải thiện được đời sống cho chí
nh
mình vàtạo ra của cải vật chất cho trại giam cũng như tích luỹ một phần thu
nhập í
t ỏi cho cuộc sống của họ sau khi ra trại. Vìthế, trại giam phải cónhiệm
vụ tổ chức lao động cho người bị kết án tù, tạo điều kiện cho họ được lao
21
động một cách an tồn vàcóhiệu quả. Pháp luật về thi hành hì
nh phạt tùhiện
hành đã quy định rõ chế độ lao động, việc sử dụng thành quả lao động cũng
như các biện pháp khuyến khích vật chất vàtinh thần đối với những người bị
kết án tù có thành tích lao động.
1.2.2. Các căn cứ thi hành hình phạt tù
Căn cứ thi hành hì
nh phạt tù là điều kiện cần thiết, làtiền đề để cơ quan
thi hành hì
nh phạt tù đưa người bị kết án tùcóthời hạn, tù chung thân đi chấp
hành hình phạt tùtại trại giam. Theo Điều 2, Pháp lệnh thi hành án phạt tùthì
“căn cứ để thi hành án phạt tù làbản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực
pháp luật vàquyết định thi hành bản án, quyết định đó của Tồ án” [68].
1.2.2.1. Bản án, quyết định phạt tùcủa Tồ án đã có hiệu lực pháp luật
Bản án, quyết định phạt tù của Toà án đã có hiệu lực pháp luật làmột
trong các hì
nh thức pháp lý đánh dấu sự kết thúc của toàn bộ quátrì
nh khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hì
nh sự của các cơ quan có thẩm quyền. Tun
hì
nh phạt tùkhơng chỉ xác định bị cáo là người cótội và người đó phạm tội gì
mà cịn xác định rõ người phạm tội phải chịu hình phạt tùvới thời hạn làbao
nhiêu. Đối với hì
nh phạt tùcóthời hạn thi bản án, quyết định phạt tùcủa Toà
án cũng nêu rõ là mức án bao nhiêu năm. Nói cách khác, thơng qua việc xác
định sự thật khách quan, Toàán rút ra những kết luận về những vấn đề chủ
yếu của vụ án, từ đó ra những quyết định xử lý cụ thể trong bản án, quyết
định phạt tù. Tuy nhiên, không phải bất kỳ bản án vàquyết định phạt tù nào
của Toà án cũng được thi hành ngay màchỉ cónhững bản án, quyết định phạt
tù nào đã có hiệu lực pháp luật mới được mang ra thi hành.
Theo khoản 1 Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bao gồm:
- Những bản án vàquyết định của Tồ án sơ thẩm khơng bị kháng cáo,
kháng nghị theo trì
nh tự phúc thẩm.
22
- Những bản án vàquyết định của Toàán cấp phúc thẩm.
- Những quyết định của Toàán cấp giám đốc thẩm.
Các bản án vàquyết định phạt tù chỉ trở thành căn cứ pháp lý để thi
hành hình phạt tùkhi cịn cóhiệu lực thi hành. Đó chính là thời hạn bản án có
hiệu lực thi hành. Nếu hết thời hạn đó mà bản án khơng được thi hành thì
khơng cịn được thi hành nữa.
Về nguyên tắc, các bản án, quyết định của Tồ án đã có hiệu lực pháp
luật thìphải được thi hành nghiêm chỉnh, triệt để. Tuy vậy, trên thực tế, córất
nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng do nhiều nguyên nhân
chủ quan, khách quan mà không được đưa ra thi hành. Nếu trong một thời
gian dài, người bị kết án khơng cố tì
nh trốn tránh, khơng phạm tội mới, làm
ăn sinh sống lương thiện thìkhơng cần thiết phải bắt họ chấp hành hì
nh phạt
nữa. Theo Điều 55 Bộ luật Hì
nh sự thì người bị kết án phạt tù không buộc
phải chấp hành bản án, quyết định phạt tùnếu tí
nh từ ngày bản án cóhiệu lực
pháp luật đã qua những thời hạn sau đây:
- 5 năm đối với các trường hợp xử phạt tùtừ 3 năm trở xuống;
- 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tùtừ trên 3 năm đến 15 năm;
- 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tùtừ trên 15 năm đến 30 năm; [11]
Việc áp dụng thời hiệu đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân,
sau khi đã qua thời hạn 15 năm sẽ do Chánh án Toàán nhân dân tối cao quyết
định theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Trong
trường hợp khơng cho áp dụng thời hiệu thìtù chung thân sẽ được chuyển
thành tù 30 năm.
Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, pháhoại hồbì
nh, chống
lồi người vàtội phạm chiến tranh thìkhơng áp dụng thời hiệu thi hành bản án.
1.2.2.2. Quyết định thi hành án phạt tù
23
Quyết định thi hành án phạt tù là văn bản của Chánh án Toà án đã xét
xử sơ thẩm về việc đưa bản án hoặc quyết định phạt tùcủa Toà án đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành.
Nội dung của quyết định thi hành án phạt tù phải xác định rõ cơ quan
cónhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án và người phải chấp
hành án, mức phạt (tùchung thân hay cóthời hạn, thời hạn làbao lâu...)
Việc ra quyết định thi hành bản án hoặc quyết định của Tồ án đã có
hiệu lực pháp luật là thủ tục pháp lý bắt buộc. Nếu chưa có quyết định thi
hành án phạt tù thìGiám thị trại giam khơng được nhận người bị kết án vào
trại để chấp hành án. Vìthế, cóthể nói, quyết định thi hành án phạt tù là cơ sở
pháp lýlàm nảy sinh mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án phạt tù và người
bị kết án phạt tù. Cơ quan thi hành án phạt tùcótrách nhiệm tổ chức việc thi
hành hình phạt tù và người bị kết án tù có nghĩa vụ phải chấp hành hì
nh phạt
tại trại giam.
Thẩm quyền ra quyết định thi hành án phạt tù thuộc về Chánh án Toà
án đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Và trong thời hạn 15 ngày từ khi bản án hoặc
quyết định phạt tù của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật, Chánh án Toà án đã
xử sơ thẩm vụ án phải ra quyết định thi hành án gửi cơ quan Công an (cơ
quan cóthẩm quyền thi hành hì
nh phạt tù) để làm căn cứ đưa người bị kết án
vào chấp hành hì
nh phạt tại trại giam.
24
Chương II
THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ HIỆN NAY
2.1. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ
Theo quy định của pháp luật hiện hành thìquản lý nhà nước về thi hành
hì
nh phạt tùcónhững nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng vàhoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bao
gồm các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật về thi hành hì
nh phạt tù;
- Xác lập các kế hoạch, nhiệm vụ chung vàcụ thể để tổ chức thực hiện
các mặt công tác thi hành hì
nh phạt tù; xây dựng và quản lý hệ thống trại
giam; bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác giam giữ, cải tạo
phạm nhân; thực hiện các chí
nh sách của Nhà nước đối với người đang chấp
hành hì
nh phạt tù;
- Ban hành cơ chế điều hành, chỉ huy vàhuy động sức mạnh tổng hợp
của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xãhội, tổ chức kinh tế vàcơng dân cóliên
quan đến hoạt động thi hành hì
nh phạt tù một cách chặt chẽ, phù hợp vàcó
hiệu lực trên thực tế;
- Tổ chức cơng tác quản lývàáp dụng các biện pháp theo quy định của
pháp luật để bảo đảm cho mọi bản án, quyết định phạt tù của Tồ án đã có
hiệu lực pháp luật phải được thi hành kịp thời, nghiêm minh và đúng pháp
luật;
- Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra nhà nước về thi hành
hì
nh phạt tù;
- Tổ chức cơng tác hợp tác quốc tế, tiến hành sơ kết, tổng kết thực tiễn
cơng tác thi hành hình phạt tù;