Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tiểu luận triết học ảnh hưởng của nho giáo tới nền văn hóa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.45 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI
******************

TIỂU LUẬN
MÔN TRIẾT HỌC

Tên đề tài: Ảnh Hưởng Của Nho Giáo Tới Nền Văn Hóa Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Nga
Học viên thực hiện: Bùi Tuấn Anh
Lớp: 28KTMT11

HÀ NỘI, NĂM 2021


MỤC LỤC

Trang -2Tiểu luận môn Triết học

2


JHKN I. ML ĐKU


gọi là văn hóa tinh thần). Hệ thống văn hóa ấy tồn tại trong một mơi trường văn
hóa hợp thành từ hai nhân tố: khơng gian văn hóa và giao lưu tiếp biến văn hóa.
Trong hệ thống văn hóa ấy, Nho giáo là một bộ phận có tư cách lưỡng phân: vừa là
bộ phận của văn hóa tinh thần và có quan hệ tương tác mật thiết với các hoạt động
văn hóa tinh thần, vừa là bộ phận hợp thành chủ thể văn hóa và có quan hệ tương
tác mật thiết với các thuộc tính của chủ thể văn hóa.
Do dó chọn đề tài “Ảnh hưởng của nho giáo tới nền văn hóa Việt Nam”


làm đề tài bài tiểu luận mơn Triết học nhằm mục tiêu tìm hiểu nội dung, hình thức,
bản chất và yếu tố Nho giáo du nhập vào Việt Nam và nét tương đồng, khác biệt
giữa văn văn hóa Việt Hóa và Nho giáo.

Trang -4Tiểu luận mơn Triết học

4


PHẦN II. NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành và sự phát triển của Nho giáo
1.1. Lịch sử hình thành của Nho giáo
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và
tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo là một
học thuyết chính trị - đạo đức nổi tiếng của Trung Quốc thời cổ đại, trải qua hơn
1000 năm phát triển có lịch sử lâu đời nhất ở Trung Quốc. Nho giáo xuất hiện vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời Xuân Thu. Trường phái nho giáo
do Khổng Tử ( 551-479 tr.CN) là người sáng lập ra, ông là người mở ra chế độ
giáo dục tư thục đầu tư của Trung Quốc. Nho giáo được chia ra thành nhiều các
giai đoạn khác nhau: Nho Giáo Tiên Tần, Hán Nho, Ngụy Tấn Nho, Tống Nho,
Minh Nho và Thanh Nho. Cuộc cách mạng tư sản đầu thế kỷ XX đã làm sụp đổ
triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc, đồng thời chấm dứt vị trí chính
thống của Nho giáo trong đời sống xã hội.
1.2. Nội dung cơ bản và sự phát triển của Nho giáo
Trong quan điểm về thế giới, nhìn chung Nho giáo là một học thuyết duy
tâm. Tuy trong quan niệm của người sáng lập Nho giáo là Khổng Tử cũng đã chứa
đựng một số yếu tố tiến bộ nhưng do những biến đổi của thời cuộc, do những hạn
chế bởi lợi ích giai cấp và nhận thức khiến cho tư tưởng của ơng khơng tránh khỏi
có những yếu tố duy tâm, thần bí. Mạnh Tử đã kế thừa tư tưởng “Thiên mệnh” của
Khổng Tử và đẩy nó tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm khi khẳng định ý chí và

quyền uy của trời trong việc sáng tạo và chi phối vạn vật: “Chẳng có việc gì xảy ra
mà khơng do mệnh trời. Mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy”.
Tư tưởng này của Khổng Tử và Mạnh Tử đến đời Hán được Đổng Trọng Thư kết
hợp với thần học, “sấm vĩ”, quan điểm Âm dương - ngũ hành đã hình thành nên
một hệ thống triết học mang tính chất duy tâm thần bí rõ rệt với các luận đề “thiên
nhân hợp nhất”, “thiên nhân cảm ứng”, “vương quyền thần thụ” “thiên bất biến đạo
Trang -5Tiểu luận môn Triết học

5


diệc bất biến” cho tất cả đều là do trời định. Từ thời Tống trở đi, với sự kết hợp tư
tưởng của Phật giáo và Đạo gia, đồng thời lấy Kinh Dịch làm cơ sở chủ đạo, quan
điểm của Nho gia về thế giới trở nên khái quát và trừu tượng hơn, mang tính triết
học nhiều hơn với các nguyên lý và các phạm trù như đạo và khí, lý và khí, trong
đó lý là cái tuyệt đối vĩnh viễn không biến đổi, là bản thể của thế giới vạn vật, chi
phối khí; cịn khí là cái cụ thể, hữu hình, biểu hiện của lý và chịu sự chi phối của
lý.
Về tư tưởng chính trị - xã hội, Nho giáo, đặc biệt là Nho Khổng - Mạnh đã
nêu lên một xã hội lý tưởng như thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, xem đó như là
mục tiêu phấn đấu của mình. Để đạt tới xã hội đó, Nho giáo chủ trương “nhân trị”,
“đức trị” nghĩa là lấy đạo đức để giáo hóa con người Bởi lẽ, nếu người cầm quyền
“dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như
vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn can tâm
tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận từ gốc từ mặt tư tưởng” và “dựa vào
đức hạnh khiến người khác phục thì người ta chịu tâm phục, tức là phục mà trong
lịng thật tâm thật ý”. Khơng những thế, nhà cầm quyền còn phải chăm lo cho dân,
khơng để dân phải đói khổ, phải được lịng dân, bởi: “Muốn được thiên hạ có đạo
lý nên theo là: có được dân là có được thiên hạ”.
Về mặt đạo đức - luân lí, Nho giáo chủ trương con người ln phải có năm

đức tính cơ bản (ngũ thường): nhân, nghĩa, lễ, trí, tín để có thể xử lý tốt quan hệ
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bạn bè. Trong đó, Nho giáo đặt lên
hàng đầu đức nhân, tất cả các đức khác cũng nhằm thực hiện đức nhân. Trong quan
niệm của Nho giáo Khổng Mạnh, những mối quan hệ giữa vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ và các hành vi ứng xử của con người trong xã hội là có tính hai chiều,
chứ khơng mang tính khắt khe một chiều của bề dưới đối với bề trên. Đến đời Hán,
Đổng Trọng Thư đã hệ thống hóa các phạm trù đạo đức thể hiện những mối quan
hệ cơ bản giữa người với người trong xã hội, trở thành nội dung, tiêu chuẩn cho sự
giáo hóa đạo đức phong kiến. Ơng đặc biệt nhấn mạnh ba mối quan hệ cơ bản nhất
trong xã hội: “Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương” (tam
Trang -6Tiểu luận môn Triết học

6


cương) và tuyệt đối hóa một chiều những chuẩn mực đạo đức và các mối quan hệ
này. Vào thời Tống, khi chế độ phong kiến trung ương được củng cố thêm, cái
được gọi là lý lại được họ vận dụng vào xã hội để chỉ cái lý trong quan hệ vua tơi,
cha con, vợ chồng, cũng chính là những quy phạm đạo đức phong kiến, tạo ra
những chuẩn mực vô cùng khắc nghiệt đối với con người.
2. Những điều kiện cho sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
2.1. Điều kiện địa lý, lịch sử
Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, về hướng Bắc, cả
trên đất liền và biển, Việt Nam đều tiếp giáp Trung Quốc, giữ vai trò là cửa ngõ,
thuận lợi nhất cho Trung Quốc nếu muốn xuống phía Nam. Xuất phát từ vị trí địa
lý đó, từ xa xưa Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra sự giao lưu kinh tế - văn hoá
giữa các tộc người thuộc hai quốc gia trong một khơng gian có khơng ít tương
đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa. Là sản phẩm của Trung Quốc cổ đại, Nho giáo
được truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường giao lưu văn hóa bình
thường mà thơng qua con đường xâm lược của chính quyền phong kiến nhà Hán

(110 TCN - 39 SCN). Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, qua các thời điểm khác
nhau dưới thời Bắc thuộc, giai cấp phong kiến thống trị phương Bắc đã truyền bá
Nho giáo vào Việt Nam, xem đó là cơng cụ tinh thần để thống trị và đồng hóa
người Việt. Đầu thế kỷ XV, sự xâm lăng của nhà Minh trên đất nước ta với những
chính sách cai trị tàn bạo, xét ở một phương diện nào đó, đã củng cố cho sự phát
triển sâu rộng của Nho giáo ở Việt Nam. Bên cạnh con đường của sự xâm lược, các
yếu tố văn hóa Trung Hoa trong đó có tư tưởng Nho giáo cũng tràn vào đất phương
Nam theo dấu chân của các đoàn thương gia. Đồng thời, hoạt động đối ngoại của
các sứ giả triều đình trong mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc
trong lịch sử đã tạo cơ hội để người Việt hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho
giáo Trung Quốc, tiếp nhận kinh điển Nho giáo.

Trang -7Tiểu luận môn Triết học

7


2.2. Điều kiện chính trị
Các triều đại phong kiến Việt Nam khi đã thiết lập bộ máy chính quyền của
mình với sự tập trung cao độ quyền lực vào một dịng họ thống trị, đứng đầu là một
ơng vua thì việc tìm được một hệ tư tưởng có khả năng phản ánh lợi ích, địa vị
thống trị của triều đại mình, đồng thời giúp đỡ cho hoạt động quản lý xã hội, cai trị
đất nước của vương triều là một điều hết sức thiết yếu. Cùng với Nho giáo, Phật
giáo và Đạo giáo cũng sớm du nhập Việt Nam và tạo ra ảnh hưởng sâu rộng trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo trong bản chất khơng phải là
một đạo trị nước mà chỉ có Nho giáo ở góc độ một học thuyết chính trị - đạo đức,
chủ trương quyền hành phải tập trung vào thiên tử, bảo vệ quyền lợi của dòng họ
thống trị và các địa vị tơn q của nó, đồng thời đưa ra cái gọi là “tam cương”,
“ngũ thường” như là những chuẩn mực cho hành vi ứng xử của con người đã tỏ ra
là một công cụ hữu hiệu giúp các triều đại củng cố sự thống trị giai cấp, ổn định

trật tự xã hội nói chung, đáp ứng được yêu cầu của giai cấp phong kiến thống trị.
Do đó, các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bước tạo điều kiện cho Nho giáo
phát triển, biến nó thành ý thức hệ vững chắc để bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị. Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam gắn với xu thế đi lên
thống nhất của chế độ phong kiến dân tộc.
2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Nền kinh tế nước ta trong xã hội Việt Nam trước đây là một nền kinh tế
nơng nghiệp lúa nước mang tính lạc hậu, khép kín, ổn định. Chính cơ sở kinh tế ấy
khiến cho con người ta có sự gắn kết cộng đồng hơn, hoà nhập vào thiên nhiên,
chịu ảnh hưởng của thiên nhiên và sùng bái thiên nhiên (trời, đất), khiến con người
trong các xã hội ấy tôn trọng tuổi tác, tôn trọng những người có kinh nghiệm, tơn
trọng trật tự trong gia đình và xã hội, chú trọng sự hài hồ và hồ hợp… Trong nền
sản xuất tiểu nơng nghiệp ấy, người nông dân tiến hành canh tác với kỹ thuật thô
sơ và lối làm ăn riêng lẻ, đồng thời mỗi gia đình trở thành một đơn vị sản xuất
hồn chỉnh và vai trị của người chủ gia đình hết sức được đề cao. Nền sản xuất ấy
Trang -8Tiểu luận môn Triết học

8


trong xã hội phong kiến đã tồn tại trên một chế độ ruộng công, tạo ra các làng xã tự
trị có tính chất như một cơng xã nơng thơn. Cùng với quan hệ đẳng cấp của xã hội
phong kiến, quan hệ gia trưởng phụ quyền, thị tộc góp phần làm tăng thêm tơn ti
trật tự của gia đình, làng xã. Đó chính là mảnh đất thuận lợi nhất để Nho giáo tồn
tại và phát triển ở Việt Nam.
2.4. Điều kiện văn hóa - giáo dục
Sau thời Bắc thuộc, Nho giáo du nhập Việt Nam gắn với nhu cầu phát triển
văn hóa - giáo dục của các triều đại phong kiến nước nhà. Để nắm quyền quản lý
đất nước, các triều đại Lý - Trần đã quan tâm đến việc nâng cao tri thức. Đồng
thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước phong kiến, nên việc bổ nhiệm

quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm tướng” và “thủ sĩ” không đáp ứng
được, mà cần phải có một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới để bổ
sung vào đó. Điều này chỉ thực hiện được bằng việc phát triển một nền giáo dục
mới, với chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài mà lúc này, chỉ có Nho giáo, với hệ
thống lý thuyết đầy đủ về giáo dục và khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm
vụ lịch sử đó. Do vậy, từ cuối thời Trần, số người tiến thân bằng con đường cử
nghiệp ngày càng nhiều, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước. Từ thời Lê đến thời
Nguyễn, cho dù thời cuộc biến động, chủ trương chung của nhà nước phong kiến
vẫn là mở mang, phát triển giáo dục Nho học, tuyển lựa nhân tài cho đất nước.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến và
việc bãi bỏ giáo dục, khoa cử Nho học, Nho giáo cũng mất đi vị trí và vai trị của
mình. Sự tồn tại của Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam gắn bó không thể
tách rời với việc giáo dục, khoa cử của nhà nước phong kiến.
3. Quá trình du nhập của nho giáo nền văn hóa Việt Nam
3.1. Định nghĩa du nhập và văn hóa
Q trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam trong lịch sử đã đóng góp
nhất định vào tiến trình giao lưu, tiếp nhận và tác động văn hóa giữa Việt Nam và
Trang -9Tiểu luận mơn Triết học

9


Trung Hoa. Trong q trình đó, Nho giáo đã từng bước hịa quyện vào truyền
thống văn hóa vốn có của dân tộc, bổ sung và làm cho diện mạo văn hóa Việt Nam
có thêm những sắc thái mới. Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận
hướng dẫn tư duy và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một
sự thực khách quan của các thời đại, của các dân tộc.
Du nhập là khái niệm được Việt hóa từ tiếng Trung Quốc dùng để chỉ sự đưa
vào của một yếu tố từ một quốc gia, một nền văn hóa bên ngồi vào khu vực bản
địa bằng một hành vi của con người. Về mặt văn hóa, bản chất của sự du nhập

chính là mối liên hệ giữa yếu tố truyền bá văn hóa và yếu tố tiếp nhận văn hóa, mối
liên hệ này được hiểu trong khái niệm về sự tiếp biến văn hóa. Đó là “sự tiếp xúc
giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau và kết quả là những thay đổi về văn hóa
trong mỗi nhóm”. Trong q trình tiếp xúc giữa mơ hình văn hóa bản địa và văn
hóa bên ngồi, diễn ra sự chuyển hóa hay kết hợp giữa các giá trị văn hóa nội sinh
với các giá trị văn hóa ngoại sinh, trong đó có những giá trị bị khước từ, có những
giá trị được vay mượn, có những giá trị được cải biến và cũng có những giá trị
được sáng tạo. Bên cạnh những giải thích quan trọng từ lý luận tiếp biến văn hóa,
sự biến đổi của một yếu tố văn hóa, tơn giáo, tư tưởng từ bên ngoài trở thành yếu
tố bản địa hoặc từ nguyên gốc chuyển thành tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
cịn được giải thích thơng qua lý luận về sự chuyển đổi. Theo đó, sự chuyển đổi là
một q trình chứ khơng phải một sự kiện, q trình đó phải trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, được xem xét trong những mối tương quan về văn hóa, xã hội. Sự
chuyển đổi này không chỉ là sự di chuyển từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác mà nó bao hàm nhiều sự thay đổi vi
diệu trong sự thâm nhập, hịa quyện tư tưởng, văn hóa, niềm tin giữa các chủ thể,
các nhóm người. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam được xem xét trong một quá
trình lâu dài với nhiều giai đoạn chuyển đổi khác nhau. Quá trình này thể hiện mối
liên hệ giữa chủ thể truyền bá và chủ thể tiếp nhận Nho giáo, tạo thành hai quá
trình - truyền bá và tiếp nhận - diễn ra song song nhưng không đồng nhất, hai quá
Trang -10Tiểu luận môn Triết học

10


trình đó khác nhau về mục đích, cách thức, nội dung, kết quả... ở từng giai đoạn
nhất định.
Định nghĩa văn hóa: Từ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa với nhiều phạm vi
khác nhau trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thơng dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ

trình độ văn minh của một giai đoạn lịch sử (văn hóa Đơng Sơn).
Định nghĩa văn hóa trong các từ điển hầu hết mở đầu bằng câu: “Văn hóa là
tập hợp của các giá trị…” ủy ban UNESCO của liên hợp quốc thì xếp văn hóa bên
cạnh khoa học và giáo dục, tức đặt hai lĩnh vực này ra ngồi khái niệm văn hóa, và
đã định nghĩa văn hóa như sau: “ Văn hóa là một phức thể, tổng thể các đặc trưng –
diện mạo tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… Khắc họa lên bản sắc một cộng
đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội. Văn hóa khơng chỉ bao
gồm nghệ thuật văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng …
3.2. Q trình phát triển của Nho giáo Việt Nam
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt Nam từ lâu và đã có
vai trò đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu ấy được cải
biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu cầu của đất nước
và đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam.
Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời nó với truyền thống Việt
Nam.
a. Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam
Giai đoạn đầu tiên Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam tương ứng với
thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử dân tộc. Nho giáo được truyền vào Việt Nam với
mục đích thống trị và đồng hóa người Việt của các triều đại Trung Quốc. Lực
lượng truyền bá Nho giáo lúc này chủ yếu là chính quyền đơ hộ, các viên quan cai
trị như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp... Bên cạnh đó, các nho sĩ di cư từ Trung

Trang -11Tiểu luận môn Triết học

11


Quốc sang Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau cũng tham gia vào quá trình truyền
bá Nho giáo và văn hóa Hán ở Giao Châu bấy giờ.

Sau khi xâm lược nước ta, cùng với việc chia lại khu vực hành chính và tổ
chức bộ máy cai trị trên vùng đất mới chiếm được theo chế độ quận huyện của
Trung Quốc, lực lượng đô hộ thực hiện một loạt các chính sách, biện pháp nhằm
đồng hóa nhân dân ta mà theo đó Nho giáo được truyền bá vào:
− Thứ nhất, bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán theo người

Trung Quốc;
− Thứ hai, phổ biến tiếng Hán và chữ Hán trong nhân dân nhằm thay

đổi ngôn ngữ, chữ viết của người Việt;
− Thứ ba, mở trường dạy học để truyền bá Nho giáo nhằm đồng hóa dân

tộc ta về tư tưởng tinh thần.
b. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam
Xuất phát từ nhu cầu củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự của xã
hội phong kiến, nhu cầu phát triển văn hóa giáo dục, từ thời Lý - Trần, nhà nước
phong kiến đã chủ động tiếp nhận và sử dụng Nho giáo trong quản lý đất nước.
Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào Việt Nam chủ yếu thông qua các
hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách; Nhân bản sách; Những luồng người
nhập cư.
Về cách thức Nho giáo được tiếp nhận ở Việt Nam:
− Thứ nhất, các vị vua thời Lý - Trần đã cho mở mang giáo dục Nho

giáo, xem trọng khoa cử Nho học và từng bước đưa nó trở thành cơng
cụ chính để tăng cường sự thống trị của giai cấp phong kiến, tạo nên
sức mạnh cho bộ máy nhà nước;
− Thứ hai, Nho giáo được phổ biến và gây ảnh hưởng trong xã hội cùng

với sự mở rộng và vị thế ngày càng tăng của tầng lớp nho sĩ;


Trang -12Tiểu luận môn Triết học

12


− Thứ ba, sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn

này cịn thơng qua đóng góp của của các tăng sĩ - những người có ảnh
hưởng lớn trong triều đình và xã hội bấy giờ.
Sự ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục đã tác động trực tiếp
vào sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc, tạo nên những bậc danh nho, danh
tướng lẫy lừng, những người có đóng góp lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam như
Lê Văn Hưu, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Lê Bá Quát,
Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật,
Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư...
c. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tư tưởng chính thống của nhà
nước phong kiến Việt Nam
Nhằm củng cố và tăng cường chế độ tập quyền phong kiến trung ương,
chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự xã hội, từ thời Lê sơ trở đi, giai cấp
cầm quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó là cơ sở lý luận để xây dựng đất
nước, làm bệ đỡ tư tưởng bảo vệ lợi ích của vương triều. Nho giáo trong giai đoạn
này được truyền bá vào nước ta thông qua nhiều hoạt động: hoạt động chính trị,
ngoại giao hai nước, trao đổi ấn phẩm, dịch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc với
những người di cư. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, nhà nước phong kiến đã tiến hành
rất nhiều biện pháp nhằm phổ biến Nho giáo trong nhân dân, làm cho nó trở thành
tư tưởng chi phối sâu sắc toàn diện xã hội:
− Thứ nhất, giai cấp thống trị thời kỳ này hết sức chú trọng mở mang

giáo dục và khoa cử Nho học;
− Thứ hai, thời kỳ này, nhà nước phong kiến cịn ban hành các văn bản


chính trị - xã hội dựa trên hệ thống quan điểm Nho giáo;
− Thứ ba, nhằm đề cao Nho giáo, triều đình cịn thi hành những biện

pháp hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Thơng qua các chính sách, biện
pháp đó, Nho giáo đã từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực xã hội, đi

Trang -13Tiểu luận môn Triết học

13


sâu vào các thiết chế làng xã, tác động lớn đến thế giới quan, nhân
sinh quan của những người theo học đạo nho.
Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của những nhà nho xuất sắc như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Q Đơn, Ngơ Thì Nhậm, Lê
Thánh Tông và Minh Mệnh... những người với tài năng, trí tuệ và bản lĩnh của
mình đã có những đóng góp to lớn, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nước
nhà.
4. Vai trò của nho giáo trong nền văn hóa Việt Nam
4.1. Vai trị của Nho Giáo trong hệ tư tưởng Việt Nam
 Nho Giáo và gia đình.
Ở những nước châu Á theo Nho giáo, chúng ta thấy những đóng góp lớn đối
với q trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những người mà xã hội
địi hỏi. Gia đình ni dưỡng một cuộc sống tình cảm giữa các thành viên và giữa
gia đình với xã hội. Các nước nói trên đã giữ lại mối quan hệ cổ truyền trong gia
đình để ràng buộc con người vào trật tự xã hội. Nó đã củng cố thêm mối quan hệ
tính chất giữa Nhà nước và công dân, giữa chủ và thợ. Người chủ và lợi ích của
bản thân đã nhân danh gia đình chăm lo đến lợi ích của cơng nhân, người cơng
nhân cũng với tình cảm của gia đình, coi xí nghiệp như gia đình của mình, coi chủ

xí nghiệp như chủ gia đình. Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp và lợi ích của họ
phụ thuộc vào mức độ họ đóng góp với xí nghiệp. Truyền thống Nho giáo trong gia
đình ở các nước nói trên có tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã
hội như thế.
Ở Việt Nam, vai trị của gia đình trong sự nghiệp phát triển của đất nước và
cũng có những quan điểm riêng về di sản Nho giáo trong gia đình Việt Nam.
Được ví như một quốc gia thu nhỏ, Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí
quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao tiếp
của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ thuộc vào
danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tố bảo thủ, mất
Trang -14Tiểu luận môn Triết học

14


dân chủ thì cho đến nay, vẫn cịn có giá trị. Do đó, kế thừa những tư tưởng tích cực
của Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam hiện nay
nhằm thực hiện thành công xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, là việc làm cần thiết.
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông nói
chung và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, ln xem xét con người trong tổng hòa
các mối quan hệ xã hội. Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người cá
nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các mối
quan hệ xã hội đó giúp Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm
mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua - tôi, bạn
- bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ
gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ gia đình được
củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, cịn các quan hệ xã hội thì
được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan hệ đó là

những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy
phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ trên và
các phương thức ứng xử hội tương ứng với nó, theo Nho giáo, là cái trời đã định
sẵn cho con người. Đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh - em.
Trong gia đình thì vợ - chồng phải hịa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy, là cha con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm gương cho
con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn sinh thành
dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì phải biết đồn
kết, thương u đùm bọc lẫn nhau, là anh chị thì phải biết nhường nhịn, thương
yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh chị. Trong quan hệ xã hội, Nho
giáo địi hỏi trước hết phải có lịng trung thành trong quan hệ vua tôi và trên dưới.
Người dưới phục vụ người trên phải lấy chữ trung làm đầu. Kẻ trên đối xử với kẻ
dưới phải lấy chữ nhân làm đầu, phải biết giữ lễ và phải có lịng tín thật. Xét chung
Trang -15Tiểu luận mơn Triết học

15


trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân phải lấy mình làm mốc mà
yêu cầu đối với người. Cái gì mình muốn thì cũng làm hết lịng cho người khác và
ngược lại, cái gì mình ghét thì cũng đừng đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội đều
có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo đảm sự
ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải làm tốt vai trị của mình. Vai
trị đó được xác định bởi danh phận của mỗi người do xã hội quy định. Đó là phận
làm vua, phận làm tôi, phận làm cha, phận làm con.... Danh phận của mỗi người
quy định cách ứng xử của họ. Cách ứng xử theo danh phận Nho giáo gọi là lễ.
Theo Nho giáo, nếu trong xã hội mỗi người đều làm tốt bổn phận của mình thì xã
hội sẽ thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi người ai cũng được an cư lạc nghiệp.
Khi đó tất cả những người già cả, trẻ nhỏ và những người cô quả sẽ được mọi

thành viên trong xã hội quan tâm giúp đỡ. Cảnh tranh giành và chém giết nhau vì
cái lợi sẽ khơng cịn. Để làm được điều đó, Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh tới vai trị
của gia đình.
Nho giáo cho rằng, gia đình chình là một cõi nước nhỏ. Vì thế, nếu "một nhà
nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có lễ
nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn". Do đó, một xã hội muốn
thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hịa thuận. Gia đình hịa thuận
là gia đình mà mọi thành viên ln quan tâm đến nhau, chăm lo cho nhau. Trong
gia đình đó, vợ chồng sống hịa thuận thương u nhau, cùng nhau chăm lo nuôi
dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ phải ln giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng
như tác phong làm việc của mình để làm tấm gương cho con cái noi theo. Ngược
lại, con cái phải ln hiếu kính với ơng bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc
ơng bà, cha mẹ, biết làm cho ơng bà, cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì
khiến cho ơng bà, cha mẹ phải tủi hổ với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hồ
thuận cịn là một gia đình mà anh em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương
yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em ngã thì chị nâng.
Trang -16Tiểu luận mơn Triết học

16


Để làm được điều đó, Nho giáo địi hỏi mỗi người trong gia đình phải biết
giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con người
trong xã hội: "Chim anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc lồi chim, con tinh
tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc lồi cầm thú. Làm người mà khơng có lễ thì
tuy biết nói đấy nhưng có khác gì lồi cầm thú? Chỉ có lồi cầm thú là khơng có
lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy việc làm của bậc thánh nhân là lấy
lễ dạy người khiến người ta ai cũng biết lễ để tự phân biệt mình với cầm thú"
(Kinh Lễ, Khúc lễ thượng). Nhờ có lễ, con người mới có thể biết được như thế nào
là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với anh em thân thích, là bạn

hiền của bằng hữu, là nhân với người chung quanh, là tín thực với thân thuộc. Theo
lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì "Khi ở trước mặt cha mẹ ruột hoặc cha mẹ
chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thối phải chu tồn thận trọng, lên
xuống ra vào phải cung kính, khơng dám ho hoẹ, đằng hắng hay ngáp dài, không
được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc dọc, không dám phun nước bọt chùi
nước mũi… Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì, mình vẫn phải vui vẻ hồ nhã dùng lời
nói ơn hồ mà can gián. Nếu can mà (cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái
độ hồ nhã cung kính hơn, đợi cha mẹ nguôi ngoai rồi lại can gián. Nếu cha mẹ
không nghe để đến nổi phạm lỗi lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ơn
hịa khun can. Nếu cha mẹ nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn khơng dám
giận ốn mà vẫn phải kính trọng hiếu thuận với cha mẹ" (Kinh Lễ, Chương XII).
Ngược lại, ngay từ khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ "cần thiết phải dạy nó
biết sử dụng tay phải, con trai phải biết thưa dạ, con gái phải biết nhu hòa… Khi
con lên sáu tuổi, hãy dạy chúng về số học và đếm số… Tám tuổi, dạy chúng khi ra
vào hay khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo sau bậc trưởng thượng, bắt đầu
dạy cho chúng biết nhường nhịn... Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm sách vở
khác… bắt đầu hướng dẫn chúng về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ…
Hai mươi tuổi là làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ… dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ"
(Kinh Lễ, Chương XII). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia đình
hồ thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm chính trị
Trang -17Tiểu luận môn Triết học

17


rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà hịa thuận
thì căn nhà to cũng sẽ hịa thuận. Vì thế, làm chính trị khơng cứ là phải ra làm
quan.
Gia đình chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự phát
triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phịng chống có hiệu quả nhất mọi tệ nạn xã

hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình mới cịn là
nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền thống văn
hố của dân tộc. Ngồi ra, đây cịn là nơi cung cấp những cơng dân mới có đức, có
tài cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Mơ hình gia đình vợ chồng hồ thuận, cha
từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự
xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà không
cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng bảo thủ,
mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị ln lý tích cực của Nho giáo về gia
đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất nước là điều
nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những tinh hoa của gia đình cũ kết hợp
với những chuẩn mực đạo đức mới của xã hội mới. Những tinh hoa đó, trước hết,
là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc
nhau… của Nho giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hồ bình của Nho giáo cũng là
lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử, song
một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra sức
phấn đấu cho một thế giới hồ bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên tồn thế
giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh,
chống lại nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa các tư tưởng
nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho giáo là một việc
làm hết sức cần thiết.
 Nho Giáo trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Trang -18Tiểu luận môn Triết học

18


Nho giáo địi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn trong các
quan hệ xã hội. Trước hết, là 5 mối quan hệ gọi là Ngũ luân: Vua tôi, cha con,

chồng vợ, anh em, bạn bè.
Những nước châu Á theo Nho giáo đã khai thác những quan điểm trong Ngũ
luân để nâng cao tình cảm và trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình, đối
với xí nghiệp, đối với nơi cơng tác, đối với tổ quốc và xã hội. Sự khai thác Nho
giáo như thế đã có tác dụng lớn là nâng cao tình cảm và ý chí của mọi người trên
cương vị và trách nhiệm cụ thể của mình.
Nhưng những nhu cầu về quyền tự do của cá nhân và đời sống riêng tư, về ý
thức dân chủ của con người đang trở thành những vấn đề mà chúng tôi nghĩ rằng
các nước theo Nho giáo cần vượt qua quan hệ Ngũ luân để giải quyết. Ở Việt Nam,
sự nghiệp cách mạng đưa con người vượt ra khỏi phạm vi của gia đình để cùng lo
lắng chung đến công việc của tổ quốc, với nhiều tình cảm rộng lớn đối với cả nhân
loại bị áp bức. Qua hai cuộc kháng chiến , nhân dân Việt Nam đó đặt lợi ích của tổ
quốc lên trên hết, sẳn sàng hy sinh cả tính mạng và hạnh phúc. Nhưng con người
vẫn là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã hội, của mỗi tập thể cũng như của
mỗi cá nhân. Quan hệ giữa người và người ở Việt Nam không thể chỉ giới hạn
trong Ngũ luân. Vấn đề của chúng ta là xây dựng mối quan hệ biện chứng giữa cá
nhân và xã hội. “Một người lo cho tất cả, tất cả lo cho một người”. Câu nói đó vẫn
là mục tiêu phấn đấu trên con đường xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
 Nho Giáo và những phẩm chất cơ bản của con người (ngũ thường).

Ngũ thường trong Nho giáo bao gồm 5 đức hạnh nhằm phục vụ 5 mối quan
hệ là Ngũ luân. Ngũ luân và Ngũ thường gọi tắt là Luân thường, đó là lý tưởng đạo
đức của người theo Nho giáo. Ngày nay, lý tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam
là: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thay cho Ngũ thường của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hồ Chí
Minh cũng nêu lên “Ngũ thường” ở Việt Nam là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Ngũ thường này phản ánh tình cảm, nghĩa vụ, nhận thức, khí phách và đạo đức của
Trang -19Tiểu luận mơn Triết học

19



nhân dân Việt Nam trên con đường bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Nó tiếp tục cổ vũ
tinh thần của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hơm nay.
Nho giáo đã từng đóng góp một vai trị to lớn trong lịch sử Việt Nam và
chưa hết tác dụng của nó.
Chúng ta tiếp tục học tập thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc vừa
khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo, vừa lên án những nét tiêu cực của
nó. Người đã nhanh chóng cải biến nhiều khái niệm của Nho giáo để những khái
niệm ấy chứa đựng một nội dung mới trong hình thức cũ. Trong q trình cơng
nghiệp hố và hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần xác định những quan điểm lý
luận đúng đắn trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, trong gia đình và xã hội,
cùng những phương hướng tu dưỡng cá nhân trên cơ sở phát huy và đổi mới
truyền thống dân tộc trong đó có những nhân tố tích cực của Nho giáo.
4.2. Vai trị của Nho Giáo trong ngơn ngữ
Vai trị của Nho Giáo trong ngôn ngữ trước hết thể hiện ở vai trò của chữ
Hán, sau nữa là việc dựa trên truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho
người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để
sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Người Việt Nam sử dụng chính những con chữ Hán để ghi chép lại các kinh
nghiệm trong tập quán lao động, sinh hoạt được hình thành từ xa xưa. Cứ như vậy,
chữ Hán vơ tình trở thành một người bạn đồng hành với đời sống lao động, sinh
hoạt văn hoá của người dân nước Việt. Thời gian về sau, chữ Hán khơng chỉ có vai
trị trong những văn bản chính thức, trong những ghi chép thư tịch mà hệ thống văn
tự này đã trở nên gần gũi với đời sống các cư dân hơn, khi nó được dùng để ghi gia
phả dịng họ hay những sự kiện của một khu vực nhỏ. Tại nhiều ngôi đình ở Việt
Nam, bên cạnh những đồ thờ, bức tượng, đồ vật mang tính chất tín ngưỡng thì
những bức hồnh phi, đại tự hay những câu đối chữ Hán là không thể thiếu. Và
chữ Hán lúc này đối với cư dân Việt không đơn thuần chỉ là hệ thống văn tự.


Trang -20Tiểu luận môn Triết học

20


Xu thế tách rời âm Hán gốc ở Việt Nam thời gian này không chỉ là kết quả
của sự độc lập trong văn hố người Việt, mà nó cịn là tiền đề cho sự ra đời của
một hệ thống chữ viết mới ở Việt Nam, đây cũng là một sáng tạo văn hoá lớn của
những học sĩ phong kiến người Việt. Lúc này, tuy chữ Hán là hệ thống chữ viết duy
nhất ở Việt Nam, nhưng nó vẫn chưa đủ để ghi chép tất cả những âm của tiếng
Việt. Đó chính là hạn chế lớn của chữ Hán, bởi văn hố truyền thống của người
Việt có một q trình hình thành và phát triển từ lâu đời với những giá trị khơng
thể phủ nhận. Ví dụ như trong âm Hán chữ huyết (nghĩa là máu) ghép lại với chữ
khẩu, được đọc là ht, một âm khơng có trong hệ thống chữ Hán mà chỉ người
Việt mới có. Cứ như vậy, những con chữ Nôm được các học sĩ Việt Nam sáng tạo
ra trên cơ sở chữ Hán, để có thể ghi được những âm mà tiếng Hán không tồn tại.
Thành tựu ấy được các tầng lớp Nho sĩ người Việt sáng tạo từ những con chữ Hán
gốc. Có thể nói, chữ Nôm không chỉ là một thành tựu trong học thuật từ xưa của
người Vệt Nam. Chữ Nơm cịn là một biểu tượng bất diệt cho tinh thần dân tộc
được hình thành từ mn đời, được hun đúc qua nhiều thế hệ và kết tinh trong tâm
hồn của giới trí thức Việt Nam. Nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của hệ
thống chữ Hán trong việc tạo lập ra chữ Nơm. Ngồi việc đóng vai trị là ngun
liệu cho kết cấu của chữ Nơm. Văn tự Hán cịn tạo cho những tầng lớp Nho sĩ
người Việt một nền tảng sơ khai về quan niệm chữ viết, điều kiện quan trọng cho
q trình hình thành chữ Nơm. Cịn chữ Nơm, sau thời gian đầu chập chững với
những quy tắc, kết cấu, dần dần đó đạt được một sự thống nhất nhất định và trở
thành phương tiện ghi chép mới.
Với nền tảng là một kho tàng văn hoá vốn phong phú, lại thêm quá trình
giao lưu với những nền văn minh bên ngồi, chữ Nơm có được một mơi trường hết
sức thuận lợi cho việc hoàn thiện và phổ biến rộng rãi. Lúc này, bên cạnh những

trước tác nổi tiếng được ghi bằng chữ Hán, những thư tịch của Việt Nam lại có sự
góp mặt của các tác phẩm chữ Nơm, và chỉ trong một thời gian không dài, chữ
Nôm đã xác định được chỗ đứng vững chắc trong đời sống sinh hoạt và hoạt động
văn hoá của người dân nước Việt. Thời gian trôi đi, loại văn tự này cũng có số
Trang -21Tiểu luận mơn Triết học

21


phận với những biến đổi trong quá trình tồn tại, và đó cũng chính là một trong
những biểu hiện của văn hố nước nhà.
4.3. Vai trị của Nho Giáo trong văn học nghệ thuật
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, văn học chữ Hán chiếm một vị trí
đáng kể. Trong văn học chữ Hán, thơ chữ Hán là một bộ phận quan trọng nhất,
phát triển mạnh nhất.
Văn học chữ Hán đã đóng góp cho nền văn học nước nhà một số lượng tác
phẩm đồ sộ. Trong đó phải kể đến “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với 133 bài thơ viết bằng chữ Hán Từ bài mở đầu cho đến bài thơ cuối, mỗi bài
khắc hoạ một tâm trạng, một hoàn cảnh sáng tác khác nhau, tập thơ đó mang đến
cho người đọc những cảm nhận về hành trình vơ cùng gian nan, cực khổ qua các
nhà tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
5. Ảnh hưởng của Nho giáo tới văn hóa Việt Nam.
5.1. Truyền thống văn hóa Việt Nam tiếp thu từ Nho giáo

Nét độc đáo của văn hoá Việt Nam là khi tiếp thu từ Nho giáo được thừa
hưởng giá trị cốt lõi và từ những giá trị cốt lỗi đó Việt Nam đã điều chỉnh lại theo
cách của mình.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để
khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và
quản lý đất nước.

Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã
học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử
để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt
Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào
thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho)
làm văn tự chính thức trong giao dịch hành chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời
Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương. Thời
Trang -22Tiểu luận môn Triết học

22


Tây Sơn vua Quang Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nơm trong lĩnh vực hành
chính và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp
với truyền thống của văn hố dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách
hiểu thì đã khác nhiều”.
a. Về chữ Trung và Hiếu:

Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa Vua và
đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc ln là cái quyết định, được đặt lên trên
hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở
tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung
quân” gắn liền với “Ái quốc”. Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con
tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất
của Nho giáo trong cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường
phát triển mới của thời đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới
hồn tồn: Khơng phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với
nội dung được mở rộng đến vơ cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ khơng cịn hạn hẹp
như khái niệm của Nho giáo xưa kia.

Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ cịn con
khơng được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vơ hậu vi đại”. Tức là: Có ba tội bất hiếu,
tội khơng có con nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dịng dõi Nho gia như Hồ Chí
Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc, người tạm
thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm đường cứu
nước. Người khơng lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như vậy,
chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngồi khn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với
chữ Trung là một, và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như
lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã được mở
rộng, gắn liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc,
Trang -23Tiểu luận môn Triết học

23


vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất thân từ dòng dõi Nho gia
nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc nghiệt của Nho gia, hiến trọn đời
mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
b. Trọng dụng người tài:

Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng
người hiền tài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay
từ những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đã có một tầm
nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Ngưới thấu
hiểu vai trị của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất
nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên

bố độc lập 4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống
nạn thất học.
Người khun bảo thầy trị ngành giáo dục “Dù khó khăn gian khổ đến đâu,
cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”…
Suốt cuộc đời mình lúc nào Người cũng hết mực chăm lo thế hệ tương lai
của đất nước. Trước lúc phải đi xa, Bác vẫn không quên dặn dò chu đáo trong di
chúc của Người: ‘‘…Bồi dưỡng cách mạng đời sau là việc làm rất quan trọng và
cần thiết. Đảng phải chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho họ để họ trở
thành…vừa hồng vừa chuyên…’’
Vì vậy việc coi trọng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một
trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan
tâm.
Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các địa phương, đã lập ra các quỹ
học bổng , quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp đở học sinh, sinh viên
nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng người hiền tài
trong xã hội ngày nay.
Trang -24Tiểu luận môn Triết học

24


Đó khơng chỉ là quy luật mn đời đúng với từng dân tộc,từng quốc gia,mà
cịn ln ln mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ
chức, thậm chí đúng cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà
chúng ta đã biết Bình Dương xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt,
nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển. Từ khi có chủ trương
“Chiêu hiền đãi sĩ”, “Trãi chiếu hoa mời gọi đầu tư”đã trở thành một tỉnh công
nghiệp phát triển giàu và mạnh.
c. Chữ Nhân, Lễ ,trí, dũng.


Trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chử Nhân chính là lịng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người: “Mình muốn lập thân thì
cũng giúp cho người khác lập thân; Mình muốn thành đạt thì cũng giúp cho người
thành đạt, những gì mình khơng muốn thì chớ đem đối xử với người” (kỷ sở bất
dục, vật thị ư nhân)…
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm
đắc và nó trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội
ngày nay nó vẫn được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì
mọi người, mọi người vì mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn
hoá, phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn
hố “Ơngbà, cha mẹ mẫu mực con cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân
tương ái trong xã hội như “ Lá lành đùm lá rách”… Đó chính là biểu hiện tốt đẹp
của chữ Nhân trong cả phạm vi rộng và hẹp của xã hội ngày nay.
Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị
phải có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng…
Chữ Nhân phải gắn liền với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình
để trị nước, muốn đạt được đức Nhân thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ.
Theo Khổng Tử Lễ chính là những quy phạm, những nguyên tắc đạo đức của nhà
Chu: Vua cho ra vua, tôi cho tôi, cha cho ra cha, con cho ra con…phải dùng lễ để
khôi phục trật tự, phép tắc luân lý xã, khiến mọi người phải trở về đạo và nhân, trở
thành chính danh. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết không thể tách rời
Trang -25Tiểu luận môn Triết học

25


×