Tải bản đầy đủ (.pdf) (215 trang)

Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở thành phố hồ chí minh trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.26 MB, 215 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

NGUYỄN NGỌC THƢ

QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

NGUYỄN NGỌC THƢ

QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TRONGTHỜI KỲ ĐỔI MỚI
Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.80.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


PGS.TS. TRỊNH DỖN CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của PGS.TS. Trịnh Dỗn Chính. Tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về kết quả nghiên cứu của cơng trình khoa học này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 02 tháng 02 năm 2018
Tác giả

NGUYỄN NGỌC THƢ


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ QUAN HỆ GIỮA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ....................................... 11
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ,
VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ ...................................... 11
1.1.1. Quan điểm về kinh tế và phát triển kinh tế ............................................................ 11
1.1.2. Quan điểm về v n h a và ph t triển v n h a ......................................................... 19
1.2. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ .................................................. 38
1.2.1. Quan điểm về vai trò của phát triển kinh tế với phát triển v n h a ....................... 42
1.2.2. Quan điểm về vai trò của phát triển v n h a đối với phát triển kinh tế ................ 47
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................................ 59

Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ THỰC TRẠNG CỦA QUAN HỆ GIỮA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HĨA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH ........................................................................................................................................ 61
2.1. KHÁI QT CÁC GIAI ĐOẠN, NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................. 61
2.1.1. C c giai đoạn và nội dung đổi mới chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh............... 61
2.1.2. Đặc điểm của qu trình đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh ................................. 84
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ................. 97
2.2.1. Thực trạng t c động của phát triển kinh tế đến phát triển v n h a ở Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới ................................................................................. 97
2.2.2. Thực trạng t c động của phát triển v n h a đến phát triển kinh tế ở Thành
phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới .................................................................... 106
2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của sự t c động qua lại giữa phát triển kinh tế
với phát triển v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.................. ... 119
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................................. 135


Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUAN HỆ GIỮA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI .............................................................. .137
3.1. NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN THỰC HIỆN QUAN HỆ GIỮA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ............................................................................ 137
3.1.1. Phát triển kinh tế với phát triển v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
kỳ đổi mới phải xuất phát từ mục tiêu chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố ...................................................................................................................... 138
3.1.2. Phát triển kinh tế với phát triển v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới trên cơ sở phát triển đồng bộ, hài hịa, có trọng tâm, trọng điểm
giữa c c lĩnh vực, các yếu tố trong xã hội của Thành phố ............................. ..... 141

3.1.3. Phát triển kinh tế với phát triển v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
kỳ đổi mới dựa trên điều kiện và tiềm n ng riêng của Thành phố ................................ 145
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN QUAN HỆ GIỮA PHÁT
TRIỂN KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ................................................................. 151
3.2.1. Nâng cao nhận thức của Đảng bộ chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh về tầm quan trọng của quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển
v n h a ........................................................................................................................... 152
3.2.2. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và kiện tồn hệ thống chính trị để thúc
đẩy phát triển kinh tế với phát triển v n h a ............................................................... 156
3.2.3. Thực hiện phát triển kinh tế với phát triển v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới một c ch đồng bộ, hài hòa và chặt chẽ ....................................... 169
3.2.4. Gắn phát triển kinh tế với bảo tồn các giá trị v n h a truyền thống ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ tồn cầu hóa và hội nhập............. ....... 183
3.2.5. Quan tâm đặc biệt và đổi mới c n bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, gắn
với nâng cao chất lƣợng nguồn lực, tạo động lực cho phát triển kinh tế với phát
triển v n h a bền vững .................................................................................. 189
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................................. 197
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 199
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 202
NHỮNG CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... ... ...210


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển của nhân loại đã khẳng định, bất cứ một quốc gia, dân tộc
nào, muốn phát triển xã hội bền vững phải có sự phát triển thống nhất, đồng bộ và

hài hòa giữa các mặt, các yếu tố, c c lĩnh vực của đời sống xã hội, nhƣ: kinh tế, v n
hóa, chính trị, đạo đức, pháp luật và các yếu tố tinh thần kh c... Trong đ kinh tế và
v n h a là hai yếu tố đ ng vai trò quan trọng, xuyên suốt và quyết định nhất với con
ngƣời và xã hội. Phát triển kinh tế là để thỏa mãn nhu cầu đời sống vật chất của con
ngƣời; còn phát triển v n h a là để thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt và hƣởng thụ đời
sống tinh thần, tạo nền tảng tinh thần cho xã hội. Vấn đề này đã đƣợc các nhà kinh
điển của triết học Mác - Lênin, trên cơ sở phê ph n c c quan điểm khác nhau về xã
hội, đồng thời kế thừa tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, khái qt thành
vấn đề có tính quy luật, khẳng định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội nhƣ
một cơ thể sống với các thành tố: cơ sở hạ tầng, kiến trúc thƣợng tầng; lực lƣợng sản
xuất, quan hệ sản xuất, tồn tại xã hội và ý thức xã hội; hay các yếu tố kinh tế, v n
hóa, chính trị, đạo đức, pháp luật... Các yếu tố này tuy có vị trí, vai trị riêng nhƣng
chúng lại liên hệ, t c động với nhau làm cho xã hội luôn vận động và không ngừng
phát triển nhƣ một quá trình lịch sử tự nhiên.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa M c - Lênin về sự phát triển
kinh tế, v n h a, xã hội vào thực tiễn xây dựng, phát triển đất nƣớc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln x c định phát triển kinh tế với phát triển v n h a là hai yếu tố cốt
lõi, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và v n h a. Vì sao
khơng nói phát triển v n hóa và kinh tế? Tục ngữ c câu: có thực mới vực được
đạo, vì thế kinh tế phải đi trƣớc, phải phát triển kinh tế và phát triển v n h a để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta” [93, tr.59].
Thấm nhuần tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển xã hội Việt
Nam hài hòa và bền vững giữa các thành tố kinh tế, v n h a, chính trị, tƣ tƣởng, đạo
đức, pháp luật,... trong Nghị quyết của các kỳ đại hội Đảng, Đảng Cộng sản Việt
Nam ln x c định: “Ổn định tình hình kinh tế - xã hội: từng bƣớc cải thiện đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân” [46, tr.95]. “Kết hợp hài hòa giữa phát
triển kinh tế với phát triển v n h a... giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân dân...” [46, tr.203]; “T ng trƣởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển v n h a” [46, tr.47]; “bảo đảm sự hài hòa giữa t ng

trƣởng kinh tế với phát triển v n h a, ph t triển con ngƣời, thực hiện tiến bộ,


2

công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trƣờng, phát triển xã hội
bền vững” [47, tr.104].
Với quan điểm nhất quán, xuyên suốt và với sự vận dụng sáng tạo tƣ tƣởng về
phát triển xã hội Việt Nam hài hòa và bền vững của Đảng và Nhà nƣớc ta, trong
những n m qua bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế giới, khu vực có
những diễn biến phức tạp; kinh tế thế giới khủng hoảng và phục hồi chậm, khủng
hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nƣớc; cạnh tranh nhiều mặt ngày càng quyết liệt
giữa c c nƣớc lớn tại khu vực, nhƣng nƣớc ta vẫn đạt đƣợc những thành tựu to lớn
trên nhiều mặt. Điều đ đã đƣợc V n kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nƣớc ta đã tho t khỏi tình trạng kém phát
triển... Hầu hết c c ngành, c c lĩnh vực của nền kinh tế đều c bƣớc phát triển khá,
cơ cấu kinh tế cũng c sự chuyển dịch tích cực. Song song với sự phát triển kinh tế,
v n h a xã hội cũng đƣợc quan tâm và phát triển đúng mức. Hoạt động v n h a, v n
nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng đƣợc mở rộng, từng bƣớc đ p ứng nhu
cầu hƣởng thụ v n h a ngày càng cao của nhân dân. Cơng tác dân số, kế hoạch hóa
gia đình, ch m s c và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân, bình đẳng giới và tiến bộ của
phụ nữ đã c kết quả khả quan. Trẻ em, ngƣời già, và đồng bào dân tộc đã đƣợc
quan tâm nhiều... Lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại đƣợc t ng cƣờng v.v...,
công t c đối ngoại và hội nhập quốc tế đƣợc đẩy mạnh v.v...” [46, tr.151,152,153].
Đặc biệt, khi đ nh gi thành quả 30 n m đổi mới của đất nƣớc, Đại hội Đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ XII khẳng định: “Đất nƣớc ta khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nƣớc đang ph t triển có thu nhập
trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quóc tế. Kinh
tế t ng trƣởng khá, nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa từng bƣớc
hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh đƣợc t ng

cƣờng. V n h a - xã hội c bƣớc phát triển; bộ mặt đất nƣớc và đời sống của nhân
dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đƣợc phát huy và ngày càng mở
rộng. Đại đoàn kết dân tộc đƣợc củng cố và t ng cƣờng...” [47, tr.65, 66]
Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc về kinh tế - xã hội, trong những n m qua
nƣớc ta cũng còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém: “Kinh tế phát triển chƣa bền vững,
chất lƣợng hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa chậm, chế độ phân phối cịn nhiều bất
hợp lý, phân hóa giàu nghèo trong xã hội t ng lên. Những hạn chế trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, v n h a, xã hội, bảo vệ môi trƣờng chậm
khắc phục; tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy


3

tho i đạo đức, lối sống chƣa đƣợc ng n chặn và đẩy lùi. Thể chế kinh tế thị trƣờng,
chất lƣợng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát
triển. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chƣa đƣợc
ph t huy đầy đủ...”[46, tr.178-179].” Trong 10 n m gần đây, kinh tế vĩ mô c lúc
thiếu ổn định, tốc độ t ng trƣởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lƣợng,
hiệu quả, n ng suất lao đông xã hội và n ng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, v n h a, xã hội và môi trƣờng. Nhiều
vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chƣa đƣợc
nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; cịn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ
mất ổn định xã hội” [57, tr.67].
Chính vì vậy, muốn phát triển xã hội bền vững, vấn đề đặt ra vừa có tính cấp
thiết vừa c tính lâu dài đối với nƣớc ta là phải phát triển đồng bộ, hài hòa giữa các
yếu tố cấu thành nên xã hội, trong đ mục tiêu phát triển kinh tế và phát triển v n
hóa là trọng tâm và quyết định nhất cho sự phát triển xã hội.
Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, tùy theo điều kiện lịch sử và đặc
điểm địa lý của mình mà có cách thức phát triển khác nhau, song sự hình thành nên

các trung tâm lớn và c c trung tâm này đ ng vai trò là trụ cột và là chất xúc tác
mạnh mẽ đối với sự phát triển chung là điều mang tính phổ biến. Các trung tâm lớn
này càng phát huy vị thế của mình thì càng thúc đẩy sự phát triển của toàn vùng và
toàn quốc. Sự phát triển của nƣớc ta cũng nằm trong quy luật chung đ , trong đ ,
Thành phố Hồ Chí Minh là đơ thị lớn nhất cả nƣớc, một trung tâm lớn về kinh tế,
v n h a, khoa học, công nghệ, đầu mối giao thơng quốc tế có vị trí quan trọng của cả
nƣớc. Với vai trò là đòn bẩy của nền kinh tế đất nƣớc, và là đầu tàu của vùng kinh tế
trọng điểm phía nam, sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh đã ảnh hƣởng mạnh
mẽ đến sự phát triển của cả Đông Nam Bộ và của nƣớc ta. Trong giai đoạn hiện nay,
quá trình mở cửa, hội nhập là xu hƣớng tất yếu của toàn cầu h a đã tạo ra một thế
giới phẳng, dẫn đến sự giao thoa khá sâu rộng về kinh tế và v n h a, tạo điều kiện
cho nền kinh tế ở Thành phố Hồ Chí Minh c điều kiện phát triển và đạt đƣợc những
thành tựu to lớn, đ ng g p một tỉ trọng lớn vào nền kinh tế quốc dân: “quy mô kinh
tế n m 2010 bằng 1.7 lần n m 2005, GDP bình quân đầu ngƣời n m 2010 đạt 2843
USD bằng 1.68 lần n m 2005” [52, tr.13]. Đ c biệt, “Tổng sản phẩm nội địa t ng
bình quân 9,6%/n m, t ng dần trong 3 n m cuối nhiệm kỳ, chiếm tỉ trọng 21,5%
GDP quốc gia; thu nhập bình qn đầu ngƣời trên 5.500 đơ la Mỹ, gấp hơn 2,5 lần
so với cả nƣớc; đ ng g p hơn 30% thu ngân s ch nhà nƣớc, t ng gấp 2 lần giai
đoạn 2006 - 2010” [53, tr.52]. Với quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố


4

Hồ Chí Minh lần thứ X nhiệm kỳ 2015 - 2020 là: “gắn t ng trƣởng kinh tế với phát
triển v n h a, xây dựng con ngƣời, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi
trƣờng; nâng cao phúc lợi xã hội và chất lƣợng sống của nhân dân. Xây dựng
Thành phố Hồ Chí Minh có chất lƣợng sống tốt, v n minh, hiện đại, nghĩa tình; c
vai trị động lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại h a đất nƣớc; sớm trở
thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, thƣơng mại, khoa học - công nghệ
của khu vực Đông Nan Á” [53, tr.33].

Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển về kinh tế là sự truyền bá, xâm nhập, thẩm
thấu v n h a của tất cả c c nƣớc đang c quan hệ, đầu tƣ với Việt Nam ở Thành phố
Hồ Chí Minh; và sự xâm nhập v n h a thông qua con đƣờng giao lƣu v n h a, du
lịch trong thời kỳ mở cửa và hợp t c. Đặc biệt, sự t c động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng công nghiêp 4.0 vừa là thời cơ để hội nhập sâu rộng, qua đ thúc đẩy kinh tế
phát triển và đa dạng các loại hình v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 làm cho chúng ta kh ng n chặn và đẩy lùi các loại
hình phản v n h a, nhƣ: phim, ảnh, ca nhạc đồi trụy, phản cách mạng, lối sống
phƣơng Tây vv... qua cổng thơng tin. Vì vậy, những giá trị v n h a truyền thống Việt
Nam và Thành phố Hồ Chí Minh đứng trƣớc nguy cơ bị xói mịn, mất dần đi bản sắc
v n h a dân tộc và những đặc điểm riêng có của v n h a ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong đ , đặc biệt quan ngại đến thế hệ thanh, thiếu niên, đang bị ảnh hƣởng và hấp
thụ rất nhanh lối sống ngoại lai, đ nh mất niềm tin, phai nhạt lý tƣởng về mục tiêu
và chế độ xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Th i độ hành xử với nhau bằng bạo
lực càng gia t ng đ ng lo ngại ở lớp trẻ. Tệ nạn xã hội, tham ô, hối lộ, chạy quyền,
chạy chức, trộm cắp, cƣớp giật, ma túy, mê tín dị đoan c chiều hƣớng gia t ng. Sự
cạnh tranh thiếu lành mạnh trong sản xuất kinh doanh, sản xuất hàng gian, hàng giả,
hàng kém chất lƣợng ngày càng phổ biến. Phong cách, lối sống, và một số mặt v n
hóa nghệ thuật lai c ng ảnh hƣởng đến thuần phong mỹ tục, lối sống tốt đẹp của
ngƣời Thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy “ph t triển v n h a chƣa tƣơng xứng với vị
trí tiềm n ng của Thành phố, chƣa thể hiện tốt vai trò nền tảng tinh thần xã hội” [52,
tr.34]. Tất cả những điều đ đang đặt ra thách thức lớn cho Thành phố Hồ Chí Minh
là trong qu trình đổi mới, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phải phát triển nền kinh tế và v n h a của Thành phố thực sự ổn định, hài hòa
và bền vững, đ là cơ sở cho phát triển nhanh, vì mục tiêu xây dựng Thành phố thực
sự trở thành một trung tâm kinh tế lớn. Đồng thời, phát triển kinh tế trong thời kỳ
toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập để phát triển, và trƣớc sự t c động mạnh mẽ của
cuộc cách mạng 4.0 đã làm thay đổi c n bản tƣ duy về c ch nghĩ, c ch làm theo lối



5

sống truyền thống, một vấn đề đặt ra hết sức quan trọng là phải bảo tồn, giữ gìn và
phát triển bản sắc v n h a dân tộc - cội nguồn tạo nên sức mạnh nội sinh của dân tộc
Việt Nam trong suốt 4000 n m lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc. Vì vậy, trong giai
đoạn hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh phải cùng cả nƣớc: “xây dựng nền v n h a
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân v n, dân chủ tiến bộ, làm cho v n h a gắn kết
chặt chẽ, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, tạo thành sức mạnh nội sinh quan
trọng của sự phát triển” [46, tr.75-76].
Từ những phân tích trên, tác giả thấy, để “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
có chất lƣợng sống tốt, v n minh, hiện đại, nghĩa tình; c vai trị động lực trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại h a đất nƣớc; sớm trở thành một trung tâm lớn
về kinh tế, tài chính, thƣơng mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á”
(53, tr.33), thì phải phát triển đồng bộ, hài hịa tất cả các yếu tố trong xã hội, nhƣ:
kinh tế, chính trị, v n h a, đạo đức, pháp luật và các yếu tố tinh thần khác. Trong
đ , Thành phố phải đặc biệt quan tâm đến phát triển kinh tế và phát triển v n h a
để tạo nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần cho xã hội. Đây là vấn đề, vừa mang
tính quy luật vừa mang tính cấp thiết của Thành phố hiện nay. Vì vậy, tác giả đã
chọn vấn đề “Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới” làm đề tài luận n tiến sỹ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển v n h a là một đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, và nhiều nhà chính trị trong nƣớc
và nƣớc ngồi, dƣới các hình thức, g c độ và khía cạnh khác nhau. Tựu chung lại
các cơng trình nghiên cứu theo c c hƣớng nhƣ sau:
Ở nƣớc ngoài, Trƣớc hết, ở Liên Xơ c c c cơng trình “Tự nhiên - văn minh
con người” (1996) của V.P. Tugarrinov; “Những vấn đề triết học của văn hóa”
(1997) của Actannốpxki, S.N. Lêningr t; “Tính kế thừa trong sự phát triển văn hóa
trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội” (1997) của Cairan V.I. M txcơva; “Triết học

văn hóa” (1975) của Migơlatep A.A. M txcơva; “Cơ sở lý luận văn hóa Mác Lênin” (1976) của Annônđốp A.I (Chủ biên), M txcơva.
Ở phƣơng Tây cũng xuất hiện nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế, về v n
h a, dƣới c c g c độ kh c nhau, nhƣng đều c điểm chung là khẳng định vai trị
quan trọng khơng thể thiếu đƣợc của kinh tế và v n h a trong đời sống con ngƣời và
trong sự phát triển của xã hội. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Tạo dựng nền văn minh
mới chính trị của làn sóng thứ ba” (1996) của Alvin Toffler và Heidi Toffler,


6

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Văn hóa là hình thái tồn diện của hệ thống
thể chế (kinh tế, chính trị, gia đình, giáo dục, tín ngưỡng và giải trí mà con người
cùng có chung trong xã hội” do J.H. Fitcher viết - Trần V n Đĩnh dịch (1972),
“Xã hội học văn hóa”, Nxb. Hiện đại - SG; “Sự va chạm của các nền văn minh”
(2003) của Sannuel Huntintons, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ở châu Á, đặc biệt là Trung Quốc c c c cơng trình nghiên cứu của Lƣu Đôn
(1977), “Thử bàn về quy luật đặc thù của phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường”; “Cải cách thể chế văn hóa” (1996) của Khang Thúc Chiêu (chủ biên); ở
Hàn Quốc có cơng trình nghiên cứu của Kyong Dong Kim (2000) “Văn hóa trong sự
phát triển của tư bản chủ nghĩa ở khu vực Đông Nam Á”.
Ở Việt Nam, vấn đề kinh tế và phát triển kinh tế, v n h a và sự phát triển v n
hóa, quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển v n h a đƣợc Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm. Điều này thể hiện rất rõ và đầy đủ trong
các chỉ thị, các bài nói chuyện, bài phát biểu của Hồ Chí Minh, c c v n kiện của
Đảng qua các kỳ đại hội. Ngoài ra, nhiều hội thảo khoa học, nhiều cơng trình nghiên
cứu, nhiều cuốn sách, nhiều luận án tiến sĩ và thạc sĩ, nhiều bài viết trên các tạp chí
lý luận và khoa học, trên c c phƣơng tiện thơng tin đại chúng và báo chí. Cụ thể phải
kể đến một số cơng trình nghiên cứu theo ba hƣớng chính nhƣ sau:
Hướng thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về kinh tế và phát triển kinh tế.
C c cơng trình này đã kh i qu t lên thực trạng kinh tế, phát triển kinh tế và t ng

trƣởng kinh tế ở nƣớc ta so sánh với sự phát triển kinh tế của một số nƣớc khác.
Đồng thời các tác giả cịn tìm ra những ngun nhân, rút ra những bài học, từ đ đƣa
ra những phƣơng hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp giúp cho sự phát triển kinh tế nƣớc ta
đƣợc bền vững. Những cơng trình đ là: “Kinh tế phát triển” (Nxb. Lao động, Hà
Nội, 2003) của PGS.TS Phan Thúc Huân; “Lựa chọn để t ng trƣởng bền vững”
(Nxb. Tri thức, 2010) do TS. Nguyễn Đức Thành (chủ biên); “T ng trƣởng kinh tế
Việt Nam - Những rào cản phải vƣợt qua” (Nxb. Lý luận chính trị, 2005) do GS.TS.
Nguyễn V n Thƣờng (chủ biên); “Hƣớng tới sự phát triển của đất nƣớc - Một số vấn
đề lý thuyết và ứng dụng” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) do GS.TS. Ngơ
Dỗn Vĩnh chủ biên; “Một số vấn để triết học trong sự phát triển kinh tế Việt Nam”
(Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003) của tác giả Thế Đạt; “Tốc độ và chiến lƣợc t ng
trƣờng kinh tế ở Việt Nam” (Nxb. Đại học kinh tế quốc dân, 2006) do GS.TS.
Nguyễn V n Nam, GS.TS. Trần Thọ Đạt chủ biên; “Việt Nam - tầm nhìn 2020”
(Nxb. Thanh niên, 2010) của TS. Trần Xuân Kiên; “Kinh tế Việt Nam 2008 - 2015


7

(Những kiến nghị gia tốc tốc lực phát triển lên trên 12% - 15% GDP/n m” ) (Nxb.
Hải Phòng, 2008) của TSKT. Lê Khoa.
Hướng thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về v n h a và ph t triển v n h a, tiêu
biểu nhƣ: “Văn hóa - Mục tiêu và động lực phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch
Đằng; “Văn hóa và con người” (Nxb. V n h a thông tin, 2006) của Nguyễn Trần
Bạt; “Bản sắc văn hóa Việt Nam” (Nxb. V n học, 2002) của PGS. Phan Ngọc; “Bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc - Vai trị của nghiên cứu và giáo dục”
(Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999); “Sự hình thành về cơ bản hệ thống tư tưởng
yêu nước Việt Nam” (2001) và “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(2000) của GS. Trần V n Giàu; “Văn hóa Việt Nam - truyền thống và hiện đại” của
Viện Thông tin Khoa học xã hội (2000); “Giá trị truyền thống và những thách thức
tồn cầu hóa” do GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn và PGS.TS. Nguyễn V n Huyên

(đồng chủ biên, 2002); “Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế” của Phạm Duy Đức, (Nxb. V n h a - Thông tin và Viện V n
hóa, Hà Nội, 2006); Đề tài “Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” của Trần Chí Mỹ, (Luận án tiến sỹ, Học viện
Chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002). Các cơng trình nghiên
cứu trên đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về khái niệm về v n h a, sự phát triển v n
hóa, vị trí vai trị của v n h a với con ngƣời, với dân tộc và với truyền thống bản sắc
v n h a Việt Nam...
Hướng thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển v n h a trong sự phát triển chung của xã hội, nhƣ: “Những lợi ích
kinh tế - xã hội tác động đến lịng tin của nông dân và con đường xã hội chủ
nghĩa” đ ng trên Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 2 - 1992; “Những vấn đề đạo
đức trong kinh tế thị trường” (Viện thông tin KHXH, Hà Nội, xuất bản n m
1996); “Văn hóa với sự phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (của Lê Quang Thiêm, chủ biên n m 1998); “Văn hóa trong sự phát triển
kinh tế - xã hội” (2006) của TS. Lê Thanh Sinh; “Văn hóa - Mục tiêu, động lực
phát triển xã hội” (2000) của Trần Bạch Đằng; “Về mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế cao, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển bền vững đến năm
2020” (của tác giả PGS.TS.Nguyễn Thƣờng Lạng, Đại học kinh tế quốc dân);
Đề tài KX - 07-13 “Về một số động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội hiện
nay” (do GS Lê Hữu Tầng chủ biên); “V n h a vì sự phát triển” (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998) của GS. Phạm Xuân Nam; “Văn hóa và phát triển”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 2002) của GS.TS. Đỗ Huy; “Tăng trưởng kinh tế


8

và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010)
do GS.TS. Hồng Đức Thân, TS. Đinh Quang Ty (chủ biên); “Vai trò của văn hóa
trong q trình phát triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi

mới” của Đào Hải Hậu, (Luận án tiến sỹ triết học, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh, Trƣờng đại học Khoa học Xã hội và Nhân v n, 2014)...
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, là một Thành phố lớn, một trung tâm kinh tế,
chính trị, v n h a - xã hội. Hàng n m Thành phố đ ng g p 1/3 thu nhập GDP của cả
nƣớc, v n h a c ảnh hƣởng sâu sắc đến phát triển v n h a của dân tộc... Vì vậy,
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển
của Việt Nam. Chính vì thế, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đƣợc Đảng, Nhà nƣớc,
Đảng bộ và chính quyền Thành phố cũng nhƣ c c học giả, các nhà khoa học đặc biệt
quan tâm, trong đ x c định lấy phát triển kinh tế và phát triển v n h a là vấn đề
trung tâm, xuyên suốt cho sự phát triển bền vững ở Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và cả nƣớc n i chung. Quan điểm đ đƣợc thể hiện rõ nét trong các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng bộ Thành phố qua các kỳ đại hội, hội nghị trung ƣơng, nghị
quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố từ lần I đến lần thứ X. Đặc biệt qua
các cơng trình nghiên cứu, các tác phẩm giá trị phải kể đến nhƣ:“Sài Gịn - Thành
phố Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển 1698 - 1998”của Hồ Hữu Nhật
chủ biên (1999); “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh” của Trần V n Giàu,
Trần Bạch Đằng (Chủ biên, 1998); “Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và
phát triển” của Phan Xuân Biên và Trần Nhu (chủ biên, 2005); “Sài Gòn - Thành
phố Hồ Chí Minh con người và văn hóa trên đường phát triển” của nhiều tác giả
(2002); “Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX những vấn đề lịch sử - văn
hóa” của Nguyễn Thế Nghĩa, Lê Hồng Liêm (chủ biên, 2000); “Xây dựng văn hóa
đơ thị trong q trình đơ thị hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh” do Phan Xuân Biên
(chủ biên, 2007): “Văn hóa ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh” do Nguyễn
Minh Hịa (chủ biên, 2007); “Vai trị của văn hóa trong q trình đổi mới và phát
triển kinh tế - xã hội ở Thành phố Hồ Chí minh” của Đào Hải Hậu, (Tạp chí Khoa
học Xã hội, số 1(161) -2012), vv...
Nhìn chung, c c đề tài, các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập khá
sâu sắc các khía cạnh kinh tế và phát triển kinh tế; v n h a và ph t triển v n h a;
quan hệ giữa t ng trƣởng kinh tế với phát triển v n h a trong sự phát triển chung của
xã hội, đ nh gi đƣợc các thành tựu mà Đảng và nhân dân Việt Nam, Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt đƣợc trong bảo vệ, xây dựng,
phát triển Tổ quốc nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh n i riêng. Đồng thời, chỉ


9

ra đƣợc những thực trạng, nguyên nhân dẫn đến yếu kém và đã đƣa ra một số nhiệm
vụ, giải pháp khắc phục. Đây là những đ ng g p quan trọng cần thiết, cần kế thừa để
phát triển trong đề tài “Quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển v n h a ở
Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới”. Tuy vậy, một số đề tài chỉ đề cập
đến một khía cạnh của quan hệ giữa phát triển kinh tế và v n h a, kinh tế với tri thức
nhƣ Đạo đức trong kinh tế thị trƣờng, hoặc giữ vững bản sắc v n h a trong phát
triển kinh tế; c đề tài đề cập đến phát triển kinh tế mà xem nhẹ phát triển v n h a...
và c đề tài đề cập đến phát triển v n h a và ph t triển kinh tế một cách thiếu đồng
bộ. Tuy nhiên, những công trình trên vẫn là những tài liệu quý báu và bổ ích để tác
giả kế thừa trong luận án của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án:
Từ g c độ triết học, trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận chung về quan
hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, luận án nhằm đ nh gi thực trạng,
tìm ra nguyên nhân; từ đ đề xuất những phƣơng hƣớng cơ bản và những giải pháp
chủ yếu nhằm giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa
ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ của luận án:
Một là: Trình bày, phân tích những vấn đề lý luận chung về quan hệ giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa.
Hai là: Phân tích nội dung thực chất về quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa và những nhân tố t c động đến quan hệ giữa phát triển
kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Ba là: Làm rõ thực trạng trong việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh

tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, đề xuất
những phƣơng hƣớng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt quan
hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án tập trung nghiên
cứu về quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phƣơng ph p luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phát triển kinh tế và phát triển v n h a để nghiên cứu và trình bày luận án.


10

Đồng thời luận án sử dụng tổng hợp c c phƣơng ph p nghiên cứu cụ thể nhƣ
lôgich và lịch sử; phân tích và tổng hợp; khái qt hóa, trừu tƣợng h a; phƣơng ph p
hệ thống - cấu trúc; phƣơng ph p thống kê... để nghiên cứu và trình bày luận án.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, từ việc làm rõ những vấn đề lý luận chung về kinh tế và văn hóa,
quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, luận n đã chỉ ra
nội dung của quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới là vấn đề tất yếu có tính quy luật của sự phát
triển xã hội.
Hai là, luận án trình bày, phân tích nội dung và tính đặc thù của quan hệ giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, để đ nh gi
thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, qua đ luận án đề xuất những phƣơng hƣớng cơ
bản và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi mới.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án

Về ý nghĩa khoa học, luận n đã g p phần trình bày, phân tích làm sáng tỏ một
cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về kinh tế và v n h a, quan hệ t c động
qua lại giữa phát triển kinh tế với phát triển v n h a trong sự phát triển xã hội nói
chung và ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Về ý nghĩa thực tiễn, những phƣơng hƣớng cơ bản và những giải pháp chủ
yếu nhằm giải quyết tốt quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với phát triển
văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi mới mà luận n đƣa ra c ý nghĩa
thiết thực góp phần giúp cho Đảng bộ và chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh,
các nhà kinh tế, c c nhà đầu tƣ tham khảo trong việc hoạch định chủ trƣơng đƣa ra
cơ chế, chính sách nhằm phát triển hài hịa, bền vững giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, đ p ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
7. Kết cấu cơ bản của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận n đƣợc
kết cấu thành 3 chƣơng, 6 tiết.


11

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂNKINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ, VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG LỊCH SỬ
1.1.1. Quan điểm về kinh tế và phát triển kinh tế
Quan điểm về kinh tế
Lịch sử phát triển của con ngƣời là lịch sử của qu trình lao động sáng tạo ra của cải
vật chất và của cải tinh thần, nhằm phục vụ cho nhu cầu sống, hƣởng thụ và phát triển của
chính con ngƣời. Thơng qua q trình hoạt động thực tiễn, con ngƣời ngày càng phát
triển và hồn thiện cả về sức lực, trí tuệ và nhân cách.

Trong các hoạt động của con ngƣời, hoạt động sản xuất vật chất hay hoạt động kinh
tế là một trong những hoạt động đầu tiên, chiếm vị trí quan trọng bậc nhất, trực tiếp quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của con ngƣời và quyết định đến tất cả các hoạt động
khác của xã hội. Khơng có hoạt động kinh tế thì khơng có hoạt động khác. Bởi, hoạt động
kinh tế đã tạo ra điều kiện và phƣơng tiện cho con ngƣời sinh sống, tồn tại và phát triển.
Điều này đã đƣợc c c nhà tƣ tƣởng và đặc biệt là các nhà sáng lập ra chủ nghĩa M c
khẳng định rằng: “Phƣơng thức sản xuất vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần n i chung” [20, tr.13]. Phƣơng thức sản xuất vật chất phù hợp,
tạo ra n ng suất, chất lƣợng hiệu quả sản xuất cao, của cải vật chất nhiều làm cho kinh tế
phát triển. Chính sự phát triển kinh tế làm cho gia đình đƣợc ấm no hạnh phúc, đất nƣớc
đƣợc giàu đẹp và hùng cƣờng. Vì vậy, kinh tế và ph t triển kinh tế luôn là một trong
những tiêu chuẩn đầu tiên để đ nh gi mức sống, thu nhập của mỗi gia đình, cộng đồng
ngƣời, một quốc gia dân tộc phát triển hay không phát triển, giàu mạnh hay lạc hậu yếu
kém. Kinh tế là phạm trù kinh tế học ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển
của con ngƣời. Song chỉ khi xã hội loài ngƣời phát triển đến một giai đoạn lịch sử nhất
định, khi đ con ngƣời mới đủ tri thức và đƣa ra những khái niệm về chúng. “Kinh tế” và
“ph t triển kinh tế” luôn trở thành đề tài mang tính thời sự của mọi thời đại, mọi chế độ
xã hội, mọi quốc gia dân tộc, mọi c nhân gia đình.
Ở phương Đơng, thuật ngữ “kinh tế” xuất hiện rất sớm. Trong sách Chu dịch của
Trung Quốc đã sử dụng hai từ “kinh tế”. Thuật ngữ “kinh tế” sau đ đƣợc đề cập đến trong
c c v n bản đời nhà Tùy, nhà Tống với nguyên nghĩa “kinh bang tế thế”, tức là “sửa nƣớc,
cứu đời” hoặc “kinh thế, tế dân” là “trị đời giúp dân”, “kinh bang tế thế”, c thể n i, đây là


12

công việc của một vị vua trong việc ch m lo đời sống vật chất tinh thần của một đất nƣớc,
“kinh” trong “kinh bang” - là trị nƣớc, còn “tế” trong “tế thế” - là giúp đời. [2, tr.387].
Tiêu biểu quan điểm kinh tế và phát triển kinh ở Trung Quốc thời cổ đại, là Khổng
tử và Mạnh Tử.

Khổng Tử (552-479 Tr.CN), là ngƣời sáng lập ra trƣờng phái Nho gia vào cuối
thời Xuân Thu. Khi đề cập đến kinh tế ông cho rằng, nguồn gốc của cải vật chất chính
là lao động và của cải của nhà vua phải trên cơ sở của cải của nhân dân. Khổng Tử
nhấn mạnh, nhà cầm quyền muốn có sức mạnh để trị nƣớc, an dân phải thực hiện ba
điều: “Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ” (Luận ngữ , Nhan Uyên, 7). Tức là: “Lƣơng
thực đầy đủ, binh lực cho mạnh và phải đƣợc lòng tin của dân”.
Tiếp theo tƣ tƣởng của Khổng Tử là Mạnh Tử (372-289 Tr. CN), tƣ
tƣởng chủ yếu trong học thuyết của ông là thế giới quan theo quan điểm tâm
học:“vạn vật giai bị ư ngã” (Mạnh Tử, Tận tâm thượng, 4) và vấn đề triết lý
nhân sinh qua thuyết tính thiện và nhân chính. Tuy nhiên, khi đề cập đến kinh
tế Mạnh Tử cho rằng, muốn dân sung túc và quốc gia có nền kinh tế mạnh,
muốn trị nƣớc bằng nhân nghĩa phải thực hiện việc phân chia ruộng đất công
minh và thi hành chế độ “tỉnh điền”. Mạnh Tử viết: “Tề nhân chính, tất tự
kinh giới thủy” (Mạnh Tử, Đằng văn Công hạ, 3). Ơng cịn chỉ ra mẫu hình xã
hội lý tƣởng của nền kinh tế tiểu nông là: “Nếu mỗi ngƣời nông phu đƣợc cấp
cho n m mẫu đất ở, bèn trồng dâu chung quanh nhà, thì ngƣời n m chục tuổi
đƣợc lụa mà mặc. Nếu ai đ chẳng làm sự sinh sản của gia súc nhƣ gà, heo,
ch thì ngƣời bảy mƣơi tuổi có thịt mà n. Nếu vua chẳng đoạt mất thì giờ
cấy gặt của những gia đình làm ruộng tr m mẫu thì trong nhà có tám miệng
n chẳng đến nỗi khổ” (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương thượng, 6). Nhƣ vậy,
theo Mạnh Tử để có của cải vật chất (kinh tế) trong mỗi gia đình và đất nƣớc
phải do lao động sản xuất nông nghiệp mà ra, đất nƣớc phải thái bình và nhà
cầm quyền phải quan tâm tới dân.
Ở Ấn Độ, theo triết lý tôn gi o, một trong bốn mục đích mà con ngƣời ta
cố gắng đạt đƣợc trong cuộc sống mình là sự giàu c (artha) hay lợi ích vật chất,
c i bao gồm quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tiêu biểu về quan điểm
này là Kautilya. Trong t c phẩm Artha-sastra c niên đại khoảng (321-296
Tr.CN) của mình Kautilya n i rõ: “Artha hay sự giàu c là mục đích hàng đầu
của cuộc sống con ngƣời, cịn c c mục đích kh c thuộc về lĩnh vực tinh thần, nghệ
thuật và phải phụ thuộc vào nền tảng kinh tế” (30, tr.169).



13

Ở phương Tây, thuật ngữ “kinh tế” xuất hiện sớm trong các tác phẩm Kinh tế luận
của nhà tƣ tƣởng Hy Lạp Xênophon (430-345 TCN) đ là “quản lý gia đình”, tức là quản
lý các mặt hàng sản xuất và sinh hoạt trong gia đình chủ nơ”. [69, tr.7].
Cũng nhƣ Xênophon là Aritxtốt (384-322 TCN), khi đề cập tới thuật ngữ kinh
tế, ông cho rằng “của cải thực tế” (của cải tự nhiên) là toàn bộ giá trị sử dụng. Và tất
cả những hoạt động gắn liền với việc tạo ra giá trị sử dụng là hoạt động kinh tế. Tuy
rằng, quan niệm của ơng mang tính trực quan và chỉ quan tâm đến lĩnh vực kinh tế
để bảo vệ lợi ích cho giai cấp chủ nơ mà chƣa c những quan niệm về v n h a và sự
gắn bó mật thiết giữa v n h a và kinh tế. Nhƣng trong kinh tế Aritxtốt đã đề cập tới
việc trao đổi hàng hóa ra giá trị ngang giá. Vì vậy, C.M c đ nh gi rất cao về
Aritxtốt: “Sự thiên tài của Aritxtốt là ở chỗ, trong lúc thể hiện giá trị của hàng hóa
ơng đã kh m ph ra quan hệ ngang gi , c nghĩa là đang bƣớc qua con đƣờng dẫn
đến lý thuyết giá trị - lao động” [132, tr.19].
Ngày nay xã hội phát triển trong một hình thái kinh tế xã hội khá hồn chỉnh
với đa ngành nghề, đa mối quan hệ nên thuật ngữ kinh tế cũng kh c xƣa rất nhiều,
rộng hơn và hàm chứa rất nhiều khía cạnh và nội dung đã tạo nên nó. Trong Từ điển
bách khoa Việt Nam, kinh tế đƣợc định nghĩa theo hai c ch sau:
1. “Tổng thể các hoạt động của một cộng đồng ngƣời, một nƣớc liên quan đến
tồn bộ q trình trong một phần của tổng quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và
tiêu dùng các sản phẩm xã hội”.
2. “Tổng các mối quan hệ trong quá trình sản xuất một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định trong tổ chức và hoạt động của cơ sở hạ tầng của xã hội, bao gồm các
ngành kinh tế, kỹ thuật, các loại hình sản xuất tƣơng ứng. Nền kinh tế quốc dân của
một nƣớc bao gồm các ngành, các vùng; lãnh thổ, c c cơ sở và các loại hình sản xuất
và bao gồm các khâu của nền sản xuất xã hội (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu
dùng) trên toàn bộ lãnh thổ của một nƣớc. Mỗi một phƣơng thức sản xuất đều có

một nền kinh tế riêng. Mỗi một nền kinh tế đều do các quan hệ sản xuất cũng nhƣ
tính trình độ của lực lƣợng sản xuất quy định.” [67, tr.584].
Nhƣ vậy, từ quan niệm về kinh tế nhƣ trên, c thể hiểu phạm trù kinh tế
bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất trong c c điều kiện, phạm vi, và các
mối quan hệ kh c nhau. Theo nghĩa này, c kh i niệm hẹp nhƣ “kinh tế gia
đình”, “kinh tế tƣ nhân”, “kinh tế ngành”, “kinh tế vùng”, “kinh tế khu vực”,
“kinh tế đối ngoại”... còn c những khái niệm rộng nhƣ “kinh tế quốc dân”,
“kinh tế thế giới”, “kinh tế toàn cầu”...


14

Kinh tế còn là tiềm n ng, tiềm lực, sức mạnh của một quốc gia, dân tộc trong xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nƣớc, thể hiện ở các cơng trình xây dựng, hệ thống cơ sở
hạ tầng, phƣơng tiện và hệ thống giao thông, ở tài nguyên thiên nhiên, ở trình độ phát
triển của nền sản xuất, từ đ biểu hiện ở thu nhập quốc dân, mức sống và điều kiện hƣởng
thụ của ngƣời dân...
Tóm lại, kinh tế là một phạm trù rộng lớn, dù lý giải bằng cách này hay cách
khác, theo tác giả kinh tế là tổng thể giá trị vật chất do thiên nhiên trao tặng con
người và toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất do con người sáng tạo ra trong lao động
sản xuất, nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của mình. Kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết
định nhất đến sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội, là tiềm lực, sức mạnh
của một quốc gia, dân tộc. Kinh tế mang tính lịch sử, xã hội rõ rệt.
Nhƣ vậy kinh tế là vấn đề cơ bản, đầu tiên, quyết định nhất đến sự tồn tại, phát triển
của con ngƣời và xã hội, là sức mạnh của mỗi quốc gia dân tộc: “kinh tế là một phạm trù
cơ bản trong lý luận mácxít, phản ánh mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn liền với việc
tạo ra c c điều kiện vật chất cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu của toàn xã hội trong từng
hoàn cảnh lịch sử cụ thể” [111, tr.7]. Do vậy, việc và phát triển kinh tế tạo ra nhiều của cải
vật chất để thỏa mãn nhu cầu sống và hƣởng thụ của con ngƣời và tạo thêm sức mạnh
của quốc gia, dân tộc là tr ch nhiệm chung của mỗi ngƣời và toàn xã hội.

Quan điểm về phát triển kinh tế
Để làm rõ kh i niệm “ph t triển kinh tế”, luận án tập trung giải quyết những quan
điểm chủ yếu có liên quan với nhau. Đ là: thế nào là ph t triển kinh tế và t ng trƣởng
kinh tế? So sánh hai khái niệm phát triển kinh tế và t ng trƣởng kinh tế.
Phát triển kinh tế là qu trình t ng trƣởng mọi mặt của nền kinh tế, từ số lƣợng,
chất lƣợng, chỉ tiêu và hiệu quả của nền kinh tế đến cơ cấu và khả n ng cạnh tranh của
nền kinh tế; đồng thời có sự hồn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lƣợng cuộc sống, tạo
nên sự t ng tiến của toàn bộ hệ thống xã hội. “Ph t triển kinh tế là sự gia t ng về số lƣợng
và chất lƣợng của nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định, các chỉ tiêu kinh tế
và hiệu quả của nền kinh tế, hiệu quả đầu tƣ, cơ cấu kinh tế, khả n ng cạnh tranh của nền
kinh tế so với nƣớc khác trong khu vực và thế giới” [132, tr.77]. Hay n i c ch kh c “ph t
triển kinh tế là qu trình theo đ thu nhập thực tế đầu ngƣời của một quốc gia t ng theo
thời gian dài và số ngƣời sống dƣới mức nghèo khổ giảm đi và phân phối thu nhập
khơng trở lên bất bình đẳng, phát triển kinh tế là sự t ng tiến của toàn bộ hệ thống xã
hội, phát triển kinh tế là đạt đƣợc một số “tiêu chuẩn của hiện đại h a” nhƣ sự t ng
n ng suất lao động, công bằng kinh tế và công bằng xã hội, cải thiện c c định chế và


15

các giá trị, c c chính s ch đƣợc phân phối nhịp nhàng hợp lý” [16, tr.78]. “Ph t triển
kinh tế là sự t ng trƣởng kinh tế kèm với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế và chất
lƣợng cuộc sống” [17, tr.78]. Từ những quan niệm trên có thể khẳng định rằng: “Ph t
triển kinh tế là quá trình biển đổi nền kinh tế quốc dân bằng một sự gia t ng sản xuất và
nâng cao mức sống của dân cƣ” [135, tr.425]. Đối với c c nƣớc đang ph t triển thì
“ph t triển kinh tế là q trình nền kinh tế chậm phát triển thốt khỏi lạc hậu, đ i nghèo,
thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là sự t ng trƣởng kinh tế gắn liền với sự thay
đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế, v n h a, ph p luật, thậm chí về kỹ n ng quản lý,
phong cách và tập tục” [135, tr.425].
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử dẫn tới quá trình nhận thức ở mỗi giai đoạn

lịch sử mà con ngƣời lại có quan niệm khác nhau về phát triển kinh tế.
C ch đây hơn nửa thế kỷ khi thế giới bƣớc ra khỏi thế chiến thứ nhất, để ổn
định kinh tế xã hội, phát triển đất nƣớc, các quốc gia đã đặt trọng tâm là đầu tƣ, sản
xuất, tự túc lƣơng thực, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, sản xuất thay thế nhập khẩu,
sản xuất hƣớng tới thị trƣờng nƣớc ngoài... Do vậy, lúc bấy giờ quan niệm về phát
triển có nội hàm thuần túy về phát triển kinh tế, phát triển kinh tế (development
economic) đồng nghĩa với t ng trƣởng kinh tế. Vào thập niên những n m 1970, sau
một thời kỳ hàn gắn vết thƣơng chiến tranh thế giới thứ hai và tập trung phát triển
kinh tế, củng cố sức mạnh và vị thế trên trƣờng quốc tế, c c nƣớc đua nhau ph t
triển cơng nghiệp, khai thác tài ngun và tìm kiếm thị trƣờng, làm cho kinh tế các
nƣớc và thế giới phát triển với tốc độ chƣa từng có. Hệ quả của cuộc chạy đua ph t
triển kinh tế và xác lập quyền lực ấy có hai mặt với xu hƣớng thuận nghịch. Một
mặt lực lƣợng sản xuất và cơ sở hạ tầng phát triển mạnh mẽ, bộ mặt vật chất của xã
hội đƣợc thay đổi rõ rệt từng ngày, mức sống và hƣởng thụ của ngƣời dân ở các
nƣớc t ng cao. Mặt khác, các khu công nghiệp và đại công nghiệp, c c phƣơng tiện
giao thông đã thải chất độc đang hủy hoại bầu khí quyển, sự tàn phá các khu rừng,
sa mạc để khai thác tài nguyên làm biến đổi khí hậu và sự tranh giành tài nguyên
diễn ra các cuộc chiến tranh cục bộ liên miên... Tất cả những vấn đề trên đã và
đang hủy hoại môi trƣờng, môi sinh và cuộc sống của con ngƣời nhƣ cạn kiệt, khơ
cằn, lụt lội, bệnh tật, chết chóc... Thực chất đây là t ng trƣởng kinh tế chứ không
phải là phát triển kinh tế.
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia t ng về n ng lực của cải vật chất đ p ứng
nhu cầu hƣởng thụ của xã hội... thƣờng đƣợc đo lƣờng dựa trên các chỉ số
tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP)” [117,


16

tr.30]. T ng trƣởng kinh tế chỉ đơn thuần đề cập đến khả n ng thay đổi về
lƣợng mà chƣa phản ánh mặt chất của nền kinh tế. “T ng trƣởng kinh tế là sự

gia t ng thu nhập hoặc sản lƣợng tính bằng tồn bộ nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định” [101, tr.17].
Từ những quan niệm trên có thể thấy, bản chất của t ng trƣởng kinh tế là sự
thay đổi về lượng của nền kinh tế, còn phát triển kinh tế phản ánh những thay đổi
về chất và lượng của nền kinh tế. Do vậy, t ng trƣởng kinh tế và phát triển kinh tế
là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau. T ng trƣởng kinh tế không
phải là phát triển kinh tế nhƣng là điều kiện cần để làm thay đổi mọi mặt đời sống
xã hội và t c động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế nên t ng trƣởng kinh
tế là phƣơng tiện, là điều kiện, là tiền đề cho phát triển kinh tế. Mặt kh c nếu
“t ng trƣởng kinh tế nghịch với yêu cầu bảo vệ mơi trƣờng, mơi sinh, thì ph t
triển kinh tế lại c khả n ng bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên, di sản sinh th i, môi
trƣờng, môi sinh. Ph t triển kinh tế giữ vai trò ph t huy tƣơng hỗ giữa hoạt động
kinh tế, xã hội với mơi trƣờng mơi sinh để lồi ngƣời c cuộc sống thật sự tiến
bộ, c an sinh và phúc lợi, c môi trƣờng, môi sinh không ô nhiễm, c hệ sinh
th i cân bằng xung quanh” [148]. Nhƣ vậy c nghĩa là, ph t triển kinh tế bao hàm
sự t ng trƣởng kinh tế, nhƣng không phải bất cứ một nền t ng trƣởng kinh tế nào,
hay đ p ứng sự thỏa mãn về vật chất nào cho con ngƣời đều dẫn đến xã hội ổn
định và ph t triển bền vững.
Nhƣ vậy, ph t triển kinh tế c nội hàm rộng hơn t ng trƣởng kinh tế. Ph t triển kinh
tế bao gồm:
Thứ nhất, là sự t ng lên về quy mô sản xuất, làm t ng thêm một cách bền vững giá
trị sản lƣợng của vật chất, dịch vụ và sự tiến bộ tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo một cơ cấu
kinh tế hợp lý có khả n ng khai th c nguồn lực trong nƣớc và ngoài nƣớc.
Thứ hai, là sự t c động của t ng trƣởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải thiện
đời sống dân cƣ, giảm bớt đ i nghèo, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, mức hƣởng thụ
giữa các tầng lớp dân cƣ, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, là sự phát triển, là quy luật tiến hóa song nó chịu sự t c động của nhiều
yếu tố nội lực của nền kinh tế c ý nghĩa quyết định, cịn bên ngồi có vai trị quan
trọng thúc đẩy.
Để đ nh gi ph t triển kinh tế của mỗi quốc gia, chúng ta phải dựa vào những

nh m tiêu chí cơ bản nhƣ sau: Nh m tiêu chí phản nh t ng trƣởng kinh tế; nhóm tiêu chí
phản ánh sự thay đổi cơ cấu kinh tế và nhóm tiêu chí phản ánh tiến bộ xã hội.


17

Thứ nhất, là nhóm tiêu chí phản ánh tăng trưởng kinh tế
T ng trƣởng kinh tế là liên tục tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, là để thỏa mãn
nhu cầu n, ở, đi lại và các nhu cầu sinh hoạt vật chất khác của con ngƣời. Do vậy, t ng
trƣởng kinh tế là một trong những vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia trên thế giới và là vấn
đề cốt lõi trong lý luận về phát triển kinh tế. Việc nhận thức và đ nh gi đúng đắn t ng trƣởng
kinh tế sẽ giúp cho các quốc gia hoạch định đƣợc chủ trƣơng, chính s ch và những chiến
lƣợc phát triển kinh tế trong từng ngành, từng lĩnh vực và từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trƣớc hết, để đ nh gi sự t ng trƣởng kinh tế của mỗi quốc gia, chúng ta dựa vào quy
mô, sản lƣợng quốc gia: GDP hay GNP... Thu nhập bình quân đầu ngƣời; tốc độ t ng trƣởng
sản lƣợng và thu nhập phần tr m” [133, tr.26]. Nhƣ vậy, quy mô của một nền kinh tế thể hiện
bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản
phẩm bình quân đầu ngƣời, hoặc thu nhập bình quân đầu ngƣời (Per Capital Incom, PCI).
Nhƣ vậy, t ng trƣởng kinh tế là thu nhập bình quân đầu ngƣời trong một thời
gian nhất định hoặc đ là sự gia t ng của GDP hay GNP. Thực chất của t ng trƣởng
kinh tế là sự tạo ra của cải vật chất (sản phẩm của hoạt động sản xuất) ngày càng
nhiều, hay nói cách khác là sự thay đổi về lƣợng của một nền kinh tế. Do vậy, tăng
trưởng kinh tế là rất quan trọng, là phương tiện, là điều kiện để phát triển kinh tế.
Nhƣng t ng trƣởng kinh tế không phải là yếu tố duy nhất hay bao qu t để phát triển
kinh tế mà chỉ là điều kiện cần cho một nền kinh tế phát triển. Muốn phát triển kinh tế
còn nhiều yếu tố kh c nhƣ vốn, khoa học, kỹ thuật - công nghệ, tài nguyên thiên
nhiên, môi trƣờng sống của con ngƣời... và đặc biệt là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế.
Thứ hai, là nhóm tiêu chí phản ánh sự thay đổi cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế đƣợc xem là yếu tố hết sức quan trọng trong một nền kinh tế, việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. “Cơ cấu kinh

tế gồm cơ cấu nguồn lao động đƣợc xét qua các chỉ tiêu về tỉ trọng lao động từng khu vực
kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp...); cơ cấu tổng giá trị đầu ra đƣợc xét qua các tiêu chí về tỉ
trọng giá trị xuất khẩu hay nhập khẩu chiếm tỉ trọng tổng giá trị đầu ra, những chỉ tiêu này
phản ánh mức độ mở cửa của nền kinh tế đối với thị trƣờng thế giới; cơ cấu về dân cƣ thành
thị và nông thôn đƣợc phản ánh qua các chỉ tiêu đơ thị hóa; hoặc cơ cấu vùng kinh tế, vùng
sản xuất hàng h a, cơ cấu nhóm ngành kinh tế, hay cơ cấu thành phần kinh tế...[133, tr.27].
Trong một nền kinh tế, các chỉ tiêu về cơ cấu kinh tế đƣợc thể hiện qua các chỉ số về tỉ
trọng giữa ba ngành kinh tế mũi nhọn là công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong tổng sản
phẩm trong nƣớc (GDP). “Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ cơng nghiệp và dịch vụ trong
GDP ngày càng cao, cịn tỉ lệ nơng nghiệp giảm đi tƣơng đối; tỉ lệ công nghiệp trong GDP


18

t ng lên đến mức nào đ rồi dừng lại, tỉ lệ dịch vụ trong GDP thì t ng lên không ngừng.
Chỉ số về tiết kiệm và đầu tƣ cho biết khả n ng t ng trƣởng kinh tế trong chu
kỳ tiếp theo. Bởi vì, tiết kiệm là một nguồn quan trọng hình thành quỹ đầu tƣ ph t
triển. Đầu tƣ làm t ng quy mô sản xuất, và t ng gi trị hàng hóa và dịch vụ. Tỉ lệ
dân số đô thị và nông thôn: Tỉ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ và lao động nông
nghiệp thay đổi theo sự phát triển của sản xuất, phân công lao động xã hội, chuyển
dịch cơ cấu xã hội, dân cƣ” [3, tr.16].
Nhƣ phân tích ở trên, cơ cấu kinh tế là vấn đề hết sức quan trọng của một nền kinh
tế. Tuy vậy, cơ cấu kinh tế không phải là yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế
mà chỉ là một trong những yếu tố quan trọng cùng với t ng trƣởng kinh tế. Còn một yếu
tố đặc biệt quan trọng t c động làm cho sự phát triển kinh tế nữa, đ là việc quan tâm đến
con ngƣời. Quan tâm đến con ngƣời là phản ánh sự tiến bộ xã hội, đ chính là tiêu chí
xem xét thứ ba, nhóm chỉ tiêu phản ánh tiến bộ xã hội.
Thứ ba, là nhóm chỉ tiêu phản ánh tiến bộ xã hội
Con ngƣời là một thành viên của mỗi gia đình và xã hội, là trung tâm, quyết định
đến tất cả c c lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, v n h a, ph p luật v.v... Do vậy,

mục tiêu phát triển kinh tế là do con ngƣời và vì con ngƣời. Con ngƣời đƣợc quan tâm và
đ p ứng đầy đủ phƣơng tiện và giá trị vật chất, tinh thần và c c đảm bảo kh c thì đ là
một xã hội tiến bộ, phát triển và v n minh. Vì vậy, nhóm tiêu chí phản ánh sự tiến bộ xã
hội là gắn với con ngƣời. Bao gồm: chỉ số thể hiện sự phát triển con ngƣời (HDI), chỉ số
chất lƣợng vật chất cuộc sống (PQLI), chỉ số nghèo của con ngƣời (HPI).
Chỉ số phát triển con ngƣời (HDI - Human Developement Index) đƣợc Liên hiệp quốc
đƣa ra nhằm đ nh gi đầy đủ và toàn diện mức độ phát triển kinh tế - xã hội (sự thịnh
vƣợng), là chỉ tiêu tổng hợp từ ba khía cạnh cơ bản của sự phát triển con ngƣời nhƣ saƣ: cuộc
sống mạnh khỏe và trƣờng tồn, đo bằng tuổi thọ bình qn; có tri thức, đo bằng tỉ lệ ngƣời
biết chữ và tỉ lệ học sinh đến trƣờng các cấp tổng hợp; một mức sống đƣợc đảm bảo, đo bằng
GDP đầu ngƣời (tính theo phƣơng ph p đồng sức mua - PPP, Purchasing Power Parity).
Chỉ số chất lƣợng vật chất cuộc sống (PQLI - Physical Quality of Life Index) tính
tốn dựa trên ba tiêu chí là tuổi thọ dự báo; tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỉ lệ ngƣời lớn
biết chữ, phản ánh tiến bộ về mặt sức khỏe, điều kiện vệ sinh; giáo dục và địa vị của
ngƣời phụ nữ. Chỉ số này đo lƣờng chất lƣợng cuộc sống hoặc mức độ thịnh vƣợng của
một quốc gia. Nghiên cứu cho thấy c c nƣớc có mức thu nhập bình qn đầu ngƣời cao
khơng phải bao giờ cũng đạt đƣợc PQLI cao.
Chỉ số nghèo của con ngƣời (HPI - Human Poverty Index) đƣợc đƣa ra trong


19

chƣơng trình ph t triển Liên hiệp quốc (UNDP) tập trung vào ba khía cạnh của sự nghèo
khổ của con ngƣời là tuổi thọ, trình độ biết chữ và mức sống. Tuổi thọ đƣợc đo bằng tỉ lệ
phần tr m ngƣời bị chết trƣớc 40 tuổi, trình độ biết chữ đƣợc đo bằng sự kết hợp của tỉ lệ
phần tr m dân số có khả n ng tiếp cận các dịch vụ y tế, tỉ lệ phần tr m dân số tiếp cận với
nƣớc sạch và tỉ lệ phần tr m trẻ em suy dinh dƣỡng dƣới 5 tuổi. Gi trị HPI chỉ ra tỉ lệ dân
số nghèo theo ba khía cạnh, thơng qua đ , c c nhà hoạch định chính s ch hiểu nguyên
nhân của sự nghèo khổ và từ đ c giải pháp giảm nghèo.
Nhƣ vậy, từ phân tích và luận giải ở trên thì theo tác giả: “Phát triển kinh tế là sự tăng

trưởng kinh tế, kèm theo thay đổi cơ cấu, thể chế kinh tế, giữ gìn mơi trường, mơi sinh, đảm
bảo tiến bộ, cơng bằng xã hội và thường xuyên nâng cao chất lượng sống của người dân”.
Điều đ chứng minh rằng, một xã hội muốn phát triển đồng bộ, hài hòa và bền
vững phải dựa vào hai yếu tố cơ bản, bao trùm nhất đ là đ p ứng đầy đủ vật chất lẫn
tinh thần cho con ngƣời. C nghĩa là, ph t triển kinh tế phải kết hợp với phát triển v n
h a. Quan tâm đến phát triển kinh tế thì nhất định phải quan tâm đến phát triển v n h a
thì xã hội mới ph t triển bền vững.
1.1.2. Quan điểm về văn hóa và phát triển văn hóa
V n h a, thực chất là tổng thể những gi trị vật thể và phi vật thể (vật chất và
tinh thần), đƣợc con ngƣời sáng tạo, kết tinh và phát triển trong quá trình hoạt động
thực tiễn của mình. V n h a đã tham gia “t i tạo” con ngƣời, duy trì sự bền vững và
trật tự xã hội. V n h a đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ kh c, là điều kiện để
đ nh gi khả n ng trình độ ph t triển và v n minh của con ngƣời và xã hội. V n h a ra
đời cùng với sự xuất hiện của con ngƣời trong xã hội, nhƣng đến một giai đoạn lịch sử
nhất định khi xuất hiện chữ viết và xuất hiện nhà nƣớc mới đƣợc đề cập tới. Từ đ đến
nay v n h a luôn đồng hành với kinh tế trong sự phát triển của loài ngƣời. Nhƣng việc
lý giải v n h a là gì, trong tiến trình lịch sử lồi ngƣời có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm về văn hóa
Quan điểm của phương Đơng về văn hóa, thuật ngữ “v n h a” xuất hiện rất
sớm ở Ấn Độ và Trung Quốc thời cổ đại. Thời kỳ này, các nhà triết học, các nhà tƣ
tƣởng phƣơng Đông sử dụng v n h a với ý nghĩa để “gi o h a” con ngƣời thay cho
việc dùng vũ lực.
Ở Ấn Độ cổ đại, trung đại, triết học và v n h a mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngƣỡng, tơn giáo và tâm linh, ẩn chứa các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua các
trƣờng phái, các kinh sách lớn nhƣ bộ kinh Vêda, Upanishad, trong đ , tập trung lý giải
những vấn đề nhân sinh quan dƣới g c độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt tới độ “giải
tho t”, tức là đạt tới sự thống nhất tinh thần cá nhân với Tinh thần vũ trụ tối cao, hay


20


nhƣ trong tƣ tƣởng triết lý của Phật giáo, một trong trƣờng phái triết học khơng chính
thống (Nastika) ở Ấn Độ cổ đại cho rằng, cuộc sống của con ngƣời trần gian là khổ (bát
khổ), và cuộc sống đau khổ đ c nguyên nhân; khi tìm đƣợc các nguyên nhân thì nỗi
khổ có thể tiêu diệt đƣợc thơng qua con đƣờng “tu đạo” - B t chính đạo (8 con đƣờng,
phƣơng ph p đúng đắn); Ngũ giới (5 điều r n); Lục độ (6 phép tu) để hồn thiện đức
tính c nhân, đạt tới niết bàn.
Ở Trung Quốc cổ đại, tác phẩm Chu dịch là một trong những v n bản cổ đã đề
cập đến hai thành tố “v n” và “h a”. “V n” là v n vẻ, tốt đẹp, lễ phép n đối lập với
vũ lực. “H a” là sự biến đổi để giáo hóa. Trong quẻ Bí, Chu dịch viết: “Quan hổ thiên
văn dĩ sát thời biến, quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ”. Nghĩa là, xem c i v n
vẻ của trời để xét sự biến đổi của thời tiết, xem c i v n vẻ của ngƣời để giáo hóa thiên
hạ. Chính điều này, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu dịch chính nghĩa có nói: “Ý bậc thánh
nhân quan sát dáng vẻ con người, tức là nói Thi, Thư, Lễ Nhạc theo đó mà dạy để
giáo hóa thiên hạ”.
Khoảng n m 77 đến n m thứ 6 tr. CN (đời Tây H n), Lƣu Hƣớng trong thiên Chỉ
Vũ s ch Thuyết Uyển viết: “Bậc thánh nhân trị thiên hạ trƣớc dùng v n đức sau mới dùng
vũ lực. Phàm dùng vũ lực để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng v n h a khơng thay đổi
đƣợc thì sau đ mới dùng lẽ chinh phạt” [28, tr.49]. Từ “v n h a” ở đây dùng nhƣ một
phƣơng thức, giáo hóa, giáo dục, dạy bảo đối lập với vũ lực, chinh phạt để cảm hóa làm
chuyển biến con ngƣời thông qua điểm chƣơng, lễ, nhạc. Theo Khổng Tử, đất nƣớc
muốn thịnh vƣợng, thái bình thì nhà cầm quyền (vua chúa, quan lại - bậc quân tử)
không cần dùng vũ lực, gƣơm đao để trị nƣớc, mà cần “v n” để giáo hóa làm cho
mỗi ngƣời trong xã hội thấy rõ đƣợc vị trí vai trị, danh tính bổn phận của mình:
“Vua ở hết phận vua, tôi ở hết phận tôi, cha ở hết phận cha, con ở hết phận con”
[Luận ngữ, Nhan Uyên, 11].
Ở phương Tây, thời cổ đại, thuật ngữ “v n h a” bắt nguồn từ chữ Latinh colire,
về sau thành culture - với nghĩa đen là cày cấy, gieo trồng, cƣ trú, luyện tập… sau này
v n h a đƣợc hiểu rộng ra (nghĩa b ng) là sự hoàn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ
của con ngƣời. Marcus Tullicus Cicero - nhà hùng biện nổi tiếng của La Mã cổ đại

dung từ “culture” (v n h a) để nói về triết học nhƣ sau: “Giống nhƣ một c nh đồng
phì nhiêu không đƣợc canh tác sẽ không đem lại mùa màng, Tâm hồn con ngƣời cũng
vậy. Ch m b n cho tâm hồn - đ là triết học” [31, tr.15].
Ở thời kỳ cận, hiện đại, khi mà con ngƣời đã c những bƣớc phát triển nhất định về
kinh tế, chính trị, v n h a, xã hội thì quan điểm về v n h a cũng rộng hơn và đề cập đến
nhiều vấn đề hơn và s t hơn với nhu cầu hoạt động và nhu cầu thỏa mãn của con ngƣời.


×