Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ung thư vú liên quan đến thai kỳ tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.84 MB, 7 trang )



UNG THƯ VÚ LIÊN QUAN ĐẾN THAI KỲ
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG1, NGUYỄN SỸ CAM2, NGUYỄN ANH LUÂN3, NGUYỄN ĐỖ THÙY GIANG4
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư vú liên quan thai kỳ là bệnh cảnh hiếm gặp. Lâm sàng và tiên lượng cũng khác ung
thư vú nói chung. Vì vậy, chúng tơi tiến hành phân tích các đặc điểm lâm sàng và điều trị của bệnh nhân ung
thư vú liên quan thai kỳ từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn cũng như hiểu rõ hơn về thể bệnh lý này.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu các bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ được điều trị
tại Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM từ năm 2012 đến 2015.
Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 52 trường hợp ung thư vú liên quan thai kỳ, trong đó 21 ca được chẩn đoán
trong lúc mang thai và 31 ca chẩn đoán trong vòng 1 năm sau sinh. Tỉ lệ di căn hạch nách là 63,6%. Thụ thể
nội tiết ER/PR dương tính trong 52,9% trường hợp và nhóm tam âm chiếm khoảng 1/3. Sống cịn tồn bộ và
sống cịn khơng bệnh 5 năm lần lượt là 70,6% và 59,3%. Yếu tố bướu T là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất
cho sống cịn tồn bộ. Khơng có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh các đặc điểm lâm sàng hay tiên
lượng giữa bệnh nhận ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn đoán trước hay sau sinh.
Kết luận: Bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ có một số đặc điểm tiên lượng xấu: di căn hạch nhiều,
thụ thể nội tiết âm tính và phân nhóm sinh học tam âm chiếm tỉ lệ cao. Ung thư vú liên quan thai kỳ được chẩn
đoán trong lúc mang thai và năm đầu hậu sản không khác nhau về đặc điểm lâm sàng cũng như tiên lượng.
ABSTRACT
Introduction: Pregnancy associated breast cancer (PABC) is uncommon with unique clinical and
prognostic characteristics. In this study, we research this group of patients at Ho Chi Minh City Oncology
hospital.
Materials and methods: PABC patients treated at Ho Chi Minh City Oncology hospital from 2012 to 2015.
Results: Fifty - two patients with PABC were included. Axillary lymph nodes were involved in 63,6% of
case. Hormone receptor was positive in 52,9% and a third was triple - negative. The 5 - year overall survival
was 70,6% and 5 - year disease free survival was 59,3%. In multivariate analysis of OS, tumor size was the
only independent factor. No statistically significant differences in tumor features or prognosis between pre partum and post-partum PABC.
Conclusions: In this study, PABC adverse tumor features are the number of lymph node involvement, low
expression of ER/PR and high rate of TNBC subtype. No difference in clinicalpathologic characteristics or


prognosis between pre-partum and post - partum PABC.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú liên quan thai kỳ là ung thư vú ở
phụ nữ đang mang thai hoặc sau khi sinh từ 6 tháng
đến 1 năm. Đây là một bệnh cảnh hiếm gặp, chiếm
chưa đến 4% tổng số các trường hợp ung thư vú ở
phụ nữ dưới 50 tuổi. Bên cạnh đó, tỉ lệ thai kỳ mắc

ung thư vú cũng rất hiếm, khoảng 15 - 35/100.000
ca. Ngoài ra, thay đổi sinh lý của tuyến vú trên phụ
nữ mang thai và cho con bú gây khó khăn cho chẩn
đốn cũng như điều trị. Trong giai đoạn này, mô vú
tăng hoạt động, phát triển nhanh về kích thước, mật
độ cũng như xảy ra hoạt động tiết sữa. Việc phát
hiện bướu vú trong một tuyến vú to, dày trở nên khó

TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
ThS.BS. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
3 BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
4 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
- Giảng viên Bộ môn Ung thư - Đại học Y Dược TP. HCM

1

2

418

TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM




khăn hơn và làm giới hạn khả năng phát hiện của
nhũ ảnh. Hậu quả là phát hiện ung thư giai đoạn trễ
hơn, ảnh hưởng đến tiên lượng cũng như điều trị
cho bệnh nhân. Ung thư vú trên phụ nữ mang thai
hoặc cho con bú cũng có các đặc điểm mơ học
riêng. Một số nghiên cứu ghi nhận sự thay đổi về tỉ
lệ các loại giải phẫu bệnh trên bệnh nhân thai kỳ.
Những khác biệt về giải phẫu bệnh cũng như đặc
điểm lâm sàng cho thấy sự khác biệt giữa ung thư
vú thai kỳ so với ngồi thai kỳ, vì vậy cần có những
nghiên cứu ở nhóm bệnh nhân này để có cơ sở đưa
ra các hướng dẫn về chẩn đốn và điều trị cho bệnh
nhân.

Số liệu nghiên cứu được thu thập theo mẫu và
được xử lý bằng các thuật toán thống kê y học, sử
dụng phần mềm SPSS 20.0.

Thực tế tại Bệnh viện Ung Bướu TPHCM số
lượng bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ khơng
nhiều, cũng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện
trên nhóm bệnh nhân này. Vì vậy chúng tơi tiến hành
nghiên cứu với mục tiêu khảo sát các đặc điểm lâm
sàng, điều trị cũng như tiên lượng của bệnh nhân
ung thư vú liên quan thai kỳ.

Các đặc điểm về lâm sàng và đều trị được thể
hiện trong bảng 1.1. Trong đó, tuổi trung bình lúc

chẩn đoán là 32,9 ± 5,4 tuổi, nhỏ nhất là 22 tuổi và
lớn nhất là 45 tuổi, trung vị 34 tuổi. Có 65,4% số
bệnh nhân < 35 tuổi và, hầu hết các trường hợp mắc
bệnh ở độ tuổi 30 đến 40 tuổi. Kích thước bướu ghi
nhận lúc chẩn đốn lớn và bướu giai đoạn trễ T3, T4
chiếm tới 38,5%. Nhóm bệnh nhân ung thư vú trong
năm đầu hậu sản ghi nhận tỉ lệ bướu giai đoạn trễ
cao hơn, tuy khơng có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ di căn
hạch nách chung là 63,6%. Hóa mơ miễn dịch được
thực hiện trên hầu hết bệnh nhân, chỉ có một bệnh
nhân từ chối điều trị khơng được thử hóa mơ miễn
dịch. Kết quả ghi nhận tỉ lệ nội tiết dương tính thấp
và khơng khác biệt giữa 2 nhóm. Trong các bệnh
nhân có kết quả HER2 (2+) có một ca làm xét
nghiệm FISH và cho kết quả dương tính. Tỉ lệ HER2
dương tính là 23,3%.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả bệnh nhân được chẩn đốn xác định
carcinơm tuyến vú có liên quan đến thai kỳ được
điều trị tại khoa Ngoại 4 BVUB TP. HCM
từ 01/01/2012 đến 31/12/2015 được đưa vào nghiên
cứu. Ung thư vú có liên quan đến thai kỳ được định
nghĩa là carcinơm tuyến vú chẩn đốn ở phụ nữ
đang mang thai hay phát hiện ung thư vú trong vòng
một năm sau sinh. Các trường hợp bị loại trừ là ung
thư vú tái phát, bệnh nhân bỏ điều trị, không tuân thủ
điều trị, quá chỉ định phẫu thuật hoặc không liên lạc
được bệnh nhân.
Thu thập dữ liệu dựa vào bảng câu hỏi dựa trên

hồ sơ bệnh án, bảng lưu trữ thông tin bệnh án tại
khoa Ngoại 4 và quá trình tái khám tại bệnh viện.
Tình trạng thủ thệ nội tiết ER, PR được đánh
giá bằng kĩ thuật nhuộm hóa mơ miễn dịch, đánh giá
theo tiêu chuẩn Allred dựa vào tỉ lệ và cường độ bắt
màu nhân. Yếu tố tăng trưởng biểu mô HER2: Đánh
giá âm tính hay dương tính theo tiêu chuẩn hóa mơ
miễn dịch. Âm tính bao gồm HER2 0 và 1+, dương
tính nếu HER2 3+. Hóa mơ miễn dịch 2+ sẽ được
làm FISH để đánh giá.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 8777 bệnh nhân ung thư vú chẩn đoán trong
4 năm 2012 - 2015 tại khoa Ngoại 4 Bệnh viện Ung
Bướu, chúng tôi chọn được 52 trường hợp thỏa tiêu
chuẩn để đưa vào nghiên cứu. Tỉ lệ bệnh nhân ung
thư vú thai kỳ ghi nhận là 0,6%. Trong mẫu nghiên
cứu của chúng tơi có 21 trường hợp phát hiện bệnh
khi đang mang thai, 31 bệnh nhân còn lại ghi nhận
bệnh trong vòng một năm sau sinh.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân
được điều trị phẫu thuật, hóa trị và xạ trị lần lượt là
84,6%, 96,2% và 73,1%. Tất cả các bệnh nhân phẫu
thuật đều được đoạn nhũ và nạo hạch nách, trong
đó có 12 bệnh nhân được tái tạo bằng vạt cơ lưng
rộng. Hóa trị tân hỗ trợ có 11 trường hợp, và có 3
trường hợp ghi nhận đáp ứng hoàn toàn về mặt giải
phẫu bệnh. Phác đồ được sử dụng nhiều nhất là
FEC, chiếm 48%. Tất cả các trường hợp đều hóa trị

dựa trên phác đồ có Anthracycline. Taxane không
sử dụng trong khi bệnh nhân đang mang thai. Tất cả
bệnh nhân điều trị nội tiết và xạ trị được tiến hành
sau khi sinh và không cho con bú trong lúc điều trị.

Theo dõi kết quả điều trị dựa trên kết quả
những lần tái khám, ghi nhận trong dữ liệu của bệnh
viện hoặc gọi điện, gửi thư cho bệnh nhân.

TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM

419



Bảng 1. Các đặc điểm lâm sàng và điều trị
Đặc điểm

Tổng (n = 52)

Đang mang thai (n = 21)

Năm đầu hậu sản (n = 31)

P

Tuổi ( trung bình)

32,9 ± 5,4


34,2 ± 5,8

31,9 ± 5,0

0,748

Kích thước bướu

5,0 ± 3,3

5,3 ± 3,5

4,8 ± 3,2

0,412

< 2cm (T1)

10 (19,2%)

2 (9,5%)

8 (25,8%)

2,1 - 5cm (T2)

22 (42,3%)

12 (57,1%)


10 (32,3%)

>5cm (T3+T4)

20 (38,5%)

7 (33,3%)

13 (41,9%)

N (-)

15 (36,4%)

9 (50%)

7 (26,9%)

1-3 hạch

20 (45,4%)

6 (33,3%)

14 (53,9%)

>4 hạch

9 (18,2%)


3 (16,7%)

4 (19,2%)

48 (92,3%)

21 (100%)

27 (87,1%)

Dạng nhầy

2 (3,8%)

0 (0%)

2 (6,45%)

Dạng khác

2 (3,8%)

0 (0%)

2 (6,45%)

I

2 (3,8%)


1 (4,8%)

1 (3,2%)

II

27 (51,9%)

12 (57,1%)

15 (48,4%)

III

23 (44,2%)

8 (38,1%)

15 (48,4%)

(+)

52,9%

47,6%

56,6%

(-)


47,1%

52,4%

43,4%

(+)

66,7%

57,1%

73,3%

(++)

15,7%

14,3%

16,7%

(+++)

17,6%

28,6%

10%


Luminal A

3 (5,9%)

2 (9,5%)

1 (3,3%)

Luminal B

24 (47,0%)

8 (38,1%)

16 (53,3%)

HER2

6 (11,8%)

4 (19,0%)

2 (6,7%)

Tam âm

18 (35,3%)

7 (33,3%)


11 (36,7%)

Phẫu thuật

44 (84,6%)

18 (85,7%)

26 (83,9%)

Hóa trị

40 (96,2%)

21 (100%)

29 (93,5%)

Xạ trị

38 (73,1%)

15 (71,4 %)

23 (74,2%)

Nội tiết

20 (38,5%)


14 (45,2%)

6 (28,6%)

0,150

Di căn hạch

0,275

Giải phẫu bệnh
Dạng ống tuyến

0,402

Giai đoạn

0,755

Thụ thể nội tiêt

0,578

HER2

0,229

Phân nhóm sinh học

0,382


Điều trị

Bảng 2. Can thiệp trong thai kỳ
Số trường hợp

Tỉ lệ (%)

Phẫu thuật +/ – hóa trị

7

33,3

Bỏ thai

8

38,1

Khơng điều trị

6

28,6

Can thiệp trong thai kỳ

420


TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM



Trong 3 trường hợp hóa trị trong lúc mang thai, 1 trường hợp sử dụng phác đồ AC - T, còn lại sử dụng
phác đồ FEC. Cả 2 trường hợp cịn lại đều hóa trị hỗ trợ 3 chu kỳ trước sinh và tiếp tục đủ phác đồ sau khi
sinh. Tất cả các bệnh nhân điều trị trong thai kỳ đều không ghi nhận biến cố lúc sinh cũng như dị tật thai nhi.
Theo dõi 52 trường hợp đến ngày 01/06/2019 với trung vị là 51 tháng. Thời gian theo dõi trung bình là
51,9 tháng. Có 5 trường hợp (9,6%) mất dấu.

Biểu đồ 1. Số trường hợp tái phát hằng năm
Có 17 ca tái phát (38,6%) trong thời gian theo dõi. Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào tái phát sau
5 năm. Tái phát tại chỗ là 4,5% và di căn xa là 34,1%. Trong đó tái phát di căn phổi và gan là thường gặp nhất.
Tỉ lệ sống cịn khơng bệnh 5 năm là 59,3%. Trong nhóm bệnh nhân được điều trị triệt để tỉ lệ tử vong là
29,5%, trong đó, có một trường hợp tử vong sau 78 tháng theo dõi.
Tỉ lệ sống cịn tồn bộ 5 năm là 70,6%.
Yếu tố bướu và yếu tố di căn hạch có vai trị tiên lượng đối với sống cịn tồn bộ và sống cịn khơng bệnh.
Tuy nhiên, khi phân tích đa biến, xếp hạng bướu T là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất cho sống cịn tồn bộ.

(p = 0,001)

(p = 0,005)

Biểu đồ 02. Sống cịn khơng bệnh theo mức độ bướu nguyên phát và tình trạng di căn hạch nách

TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM

421





(p = 0,000)

(p = 0,042)

Biểu đồ 3. Sống cịn tồn bộ theo mức độ bướu nguyên phát và tình trạng di căn hạch nách
BÀN LUẬN
Ung thư vú thai kỳ được định nghĩa là ung thư
vú được phát hiện trong thời gian mang thai hay sau
khi sinh trong vòng 6 - 12 tháng. Ung thư vú thai kỳ
có xu hướng bị chẩn đốn trễ. Trong nghiên cứu của
chúng tơi, kích thước bướu trung bình khá lớn là
5cm (2,7 đến 8,3cm). Ở các nước phát triển, khoảng
1/3 bệnh nhân nhập viện khi bướu còn nhỏ dưới
2cm, còn trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ này chỉ
khoảng 20%. Tuy nhiên tỉ lệ bướu giai đoạn T2, T3
là khá tương đồng giữa các nghiên cứu, tương ứng
khoảng 40% và 20%. Về mặt lâm sàng, ung thư vú
liên quan thai kỳ có kích thước lớn hơn bệnh nhân
ung thư vú nói chung. Theo tác giả Johansson, có
tới 20,7% trường hợp ung thư vú thai kỳ có bướu
lớn hơn 5cm, trong khi đó tỉ lệ này ở bệnh nhân ung
thư vú nói chung chỉ 8,6%. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tỉ lệ bướu giai đoạn trễ T3, T4 chiếm tới
40%. Điều này được một số tác giả lý giải do tác
động của thai kỳ gây trì hỗn chẩn đốn bệnh.
Tỉ lệ di căn hạch nách dao động trong nhiều
nghiên cứu từ 36% - 60%. Đặc điểm chung của các
nghiên cứu này là tỉ lệ di căn hạch nách khơng có sự

khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân ung
thư vú thai kỳ và bệnh nhân ung thư vú nói chung
cùng độ tuổi. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tơi
cho thấy có tới 63,6% di căn hạch, trong đó di căn từ
1 - 3 hạch chiếm đa số. Một số tác giả cũng cho rằng
ung thư vú thai kỳ có tỉ lệ di căn hạch nách cao.
Nhận định trên được minh họa cụ thể trong nghiên
cứu của Beadle và cs, tỉ lệ hạch nách di căn là
70,2%, nghiên cứu của tác giả Sánchez là 64,5%.
Biểu hiện thụ thể nội tiết trên bệnh nhân ung
thư vú thai kỳ khá thấp và kết quả này hằng định ở
hầu hết nghiên cứu, từ 33,0 - 55%, nghiên cứu của
422

chúng tôi cũng tương đương với tỉ lệ 52,9%. Đây là
một trong những đặc điểm tiên lượng xấu ở bệnh
nhân ung thư vú liên quan thai kỳ.
Trong nghiên cứu của Azim, sử dụng phương
pháp định hình biểu hiện gen, tác giả ghi nhận khơng
có sự khác nhau giữa bệnh nhân ung thư vú thai kỳ
và bệnh nhân ung thư vú không liên quan thai kỳ.
Tuy nhiên, tỉ lệ phân nhóm tam âm ở bệnh nhân
ung thư liên quan thai kỳ khá cao, chiếm 33,3%.
Hơn nữa, tác giả ghi nhận trên bệnh nhân ung thư
vú chẩn đoán trong khi mang thai có tăng biểu hiện
gen IGF - 1, được coi là yếu tố thúc đẩy ung thư vú
phát triển và tăng tỉ lệ tái phát. Tác giả Bae phân
nhóm dựa vào ER, PR, HER2 và Ki67 ghi nhận
luminal A là 21,2%, luminal B là 21,2%, HER2 là ,
tam âm là 40,4%, kết quả khác biệt rõ rệt so với

nhóm chứng với luminal A là 50,6%, luminal B là
23,9%, HER2 là 9,1% và tam âm là 16,4%. Trong
đó, nhóm tam âm là vượt trội hơn hẳn và cao hơn
ung thư vú không liên quan thai kỳ. Nhiều tác giả
cũng ghi nhận tỉ lệ phân nhóm tam âm trong ung thư
vú thai kỳ khá cao, dao động từ 30,2 - 48,4%.
Nghiên cứu của chúng tơi cũng cho kết quả tương tự
với nhóm tam âm chiếm 35,3%. Điều này cho thấy
ung thư vú thai kỳ có liên quan đến tăng tỉ lệ tam âm
ở ung thư vú.
Điều trị ung thư vú trên bệnh nhân mang thai
khơng nên trì hỗn và lựa chọn điều trị dựa trên 2
mục tiêu chính: đảm bảo an tồn về mặt ung thư và
giữ thai mà không làm ảnh hưởng đến sức khỏe của
thai nhi. Tuy vậy, kế hoạch điều trị ung thư vú trên
phụ nữ mang thai gần giống như các bệnh nhân ung
thư vú khác. Phẫu thuật và hóa trị được chứng minh
là an tồn trên thai phụ, đặc biệt trên thai kỳ từ tam
cá nguyệt thứ hai trở về sau. Xạ trị, nội tiết và thuốc
kháng HER2 được khuyến cáo sử dụng sau sinh.
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM



Trong nghiên cứu này, có 40,4% bệnh nhân đang
mang thai lúc chẩn đốn ung thư vú. Trong đó 7
bệnh nhân được phẫu thuật trong khi mang thai,
tất cả đều phẫu thuật đoạn nhũ và nạo hạch nách.
Kết quả này hơi khác biệt so với các nghiên cứu trên
thế giới với tỉ lệ phẫu thuật bảo tồn trên phụ nữ

mang thai cao hơn, 38% ở Ý và 40% ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Điều này có thể do phẫu thuật bảo tồn vú cịn
chưa phổ biến ở Bệnh viện chúng tơi thời điểm
nghiên cứu.
Hóa trị trong tam cá nguyệt thứ 2 và 3 tương
đối an toàn và được chấp thuận rộng rãi. Tuy sử
dụng hóa trị sau tam cá nguyệt thứ nhất vẫn có khả
năng gây sinh non và chậm phát triển thai nhi,
một số nghiên cứu ghi nhận tiên lượng tốt ở những
đứa trẻ này về lâu dài. Tuy nhiên, hóa trị nên
kết thúc 1 tháng trước sinh để hạn chế độc tính
huyết học cho thai phụ lúc sinh. Phác đồ hóa trị dựa
trên anthracycline được chứng minh an toàn trên
phụ nữ đang mang thai như AC (adriamycin,
cyclophosphamide);
EC
(epirubicin,
cyclophosphamide); FAC (Flourouracil, adriamycin,
cyclophosphamide); FEC (Flourouracil, epirubicin,
cyclophosphamide). Vì vậy, đây được coi là những
lựa chọn đầu tay cho bệnh nhân ung thư vú đang
mang thai. Một vài nghiên cứu báo cáo loạt ca
chứng minh sự an tồn của nhóm taxane trong thai
kỳ. Tuy nhiên, NCCN khuyến cáo hạn chế sử dụng
phác đồ có taxane trong thai kỳ do thiếu dữ liệu an
toàn. Trong nghiên cứu của chúng tơi, có 3 bệnh
nhân được sử dụng hóa trị hỗ trợ lúc mang thai.
Trong đó 2 trường hợp dùng phác đồ FEC và một
trường hợp sử dụng phác đồ AC. Cả 3 trường hợp
đều sử dụng hóa trị sau tuần thứ 24 của thai kỳ và

kết thúc trước sinh. Tất cả đều ghi nhận trẻ khơng có
dị tật và phát triển bình thường đến thời điểm
kết thúc nghiên cứu.
Kết quả điều trị
Bảng 3. Tỉ lệ sống cịn khơng bệnh và sống cịn
tồn bộ ở các nghiên cứu
Nghiên cứu

N

Giai
đoạn

SCKB
5 năm

SCTB
5 năm

Nghiên cứu này

52

I - IIIC

59,3%

70,6%

Azim


65

I - IIIC

52,1%

79,6%

Amant

311

I - III

65%

78%

Litton

75

I - III

72%

77%

Genin


87

I - III

62%

80%

Kết quả sống cịn khơng bệnh 5 năm của
nghiên cứu chúng tôi tương đương với các nghiên
cứu khác tuy nhiên tỉ lệ sống cịn tồn bộ 5 năm hơi
thấp hơn các nghiên cứu khác cùng có cùng giai
đoạn TNM. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ tái
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM

phát là 38,6%, trong đó tái phát di căn xa chiếm đa
số lên đến 34,1%. Đây có thể là ngun nhân chính
dẫn đến tỉ lệ SCTB của nghiên cứu chúng tôi thấp
hơn các nghiên cứu trên thế giới.
Nghiên cứu của tác giả N.T. Huyền, theo dõi
sống cịn trên nhóm bệnh nhân ung thư vú người
trẻ, tại Bệnh viện K, ghi nhận tỉ lệ SCTB và SCKB
5 năm lần lượt là 79,5% và 66,0%. Kết quả SCTB và
SCKB đều cao hơn so với nghiên cứu của chúng tơi.
Điều này có thể do ảnh hưởng của thai kỳ lên sống
còn của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, SCTB và
SCKB 5 năm theo phân độ mô học, thụ thể nội tiết
và sự biểu lộ HER2 không có sự khác biệt giữa các

yếu tố phân nhóm. Điều này cũng được quan sát ở
một số nghiên cứu, có thể do cỡ mẫu nhỏ nên sự
khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu về vai trò của các
yếu tố tiên lượng truyền thống đối với ung thư vú
thai kỳ khá đa dạng, thậm chí có phần trái ngược
nhau. Khơng chỉ riêng sự khác biệt đơn thuần của
các đặc điểm mang tính thống kê, sự ảnh hưởng
của thai kỳ lên ung thư vú có thể là câu trả lời cho
những khác biệt đó. Vì vậy, cần có thêm các nghiên
cứu lớn và mạnh hơn để đánh giá tiên lượng cũng
như góp phần điều trị hiệu quả hơn cho bệnh nhân.
KẾT LUẬN
Bệnh nhân ung thư vú liên quan thai kỳ có
những đặc điểm tiên lượng xấu: kích thước bướu
lớn; di căn hạch nhiều; grad mơ học trung bình, cao
chiếm đa số; thụ thể nội tiết thường âm tính và tỉ lệ
phân nhóm tam âm cao. Trong nghiên cứu của
chúng tơi, tỉ lệ sống cịn khơng bệnh 5 năm là 59,3%,
sống cịn tồn bộ 5 năm là 70,6%. Trong đó, kích
thước bướu là yếu tố tiên lượng độc lập duy nhất
cho sống cịn tồn bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn T. H., Nguyễn T. H., Nguyễn T. V.
(2018), "Đánh giá kết quả sống thêm sau 7 năm
ở bệnh nhân ung thư vú nữ dưới 35 tuổi tại
Bệnh viện K". Tạp chí Ung thư học Thành phố
Hồ Chí Minh, Tập 2018, pp. 40712.
2. Andersson T. M., Johansson A. L., Hsieh C. C.,
et al. (2009), "Increasing incidence of

pregnancy-associated breast cancer in Sweden".
Obstet Gynecol, 114 (3), pp. 568 - 72.
3. 3Azim Jr H. A., Botteri E., Renne G., et al.
(2012), "The biological features and prognosis of
breast cancer diagnosed during pregnancy: a
case-control study". Acta oncologica, 51 (5),
pp. 653 - 661.
423




4. Bae S. Y., Kim S. J., Lee J., et al. (2018),
"Clinical subtypes and prognosis of pregnancyassociated breast cancer: results from the
Korean Breast Cancer Society Registry
database". Breast cancer research and
treatment, 172 (1), pp. 113 - 121.
5. Bae S. Y., Kim K. S., Kim J.-S., et al. (2018),
"Neoadjuvant Chemotherapy and Prognosis of
Pregnancy - Associated Breast Cancer: A Time Trends Study of the Korean Breast Cancer
Registry Database". Journal of breast cancer, 21
(4), pp. 425 - 432.
6. Johansson A. L., Andersson T. M. L., Hsieh C.
C., et al. (2018), "Tumor characteristics and
prognosis in women with pregnancy‐associated
breast cancer". International journal of cancer,
142 (7), pp. 1343 - 1354.

pregnancy-associated breast cancers (PABC):
presentation, imaging, clinicopathological data

and outcome". Diagnostic and interventional
imaging, 95 (4), pp. 435 - 441.
8. Loibl S., Han S. N., von Minckwitz G., et al.
(2012), "Treatment of breast cancer during
pregnancy: an observational study". The lancet
oncology, 13 (9), pp. 887 - 896.
9. Stensheim H., Moller B., van Dijk T., et al.
(2009), "Cause - specific survival for women
diagnosed with cancer during pregnancy or
lactation: a registry-based cohort study". J Clin
Oncol, 27 (1), pp. 45 - 51.
10. Yu H., Cheung P., Leung R., et al. (2017),
"Current management of pregnancy-associated
breast cancer". Hong Kong Med J, 23 (4),
pp. 387 - 94.

7. Langer A., Mohallem M., Stevens D., et al.
(2014), "A single-institution study of 117

424

TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM



×