Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

25 01 2020 môn quyền con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.13 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước và con
người Việt Nam luôn tự hào có một bề dày lịch sử của một dân tộc sẵn sàng
hy sinh xương máu, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để giành lại những quyền cơ
bản và thiêng liêng nhất của con người. Đó là quyền được sống trong độc lập,
tự do và quyền tự quyết định vận mệnh của mình. Vì lẽ đó, giải phóng con
người khỏi áp bức, bất công, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân
đã trở thành mục tiêu nhất quán và nền tảng hoạch định mọi quyết sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau hơn tám thập kỷ dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói, những
thành tựu dân tộc ta đạt được trong việc bảo đảm và phát triển quyền con
người là rất cơ bản, rất to lớn. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với bước tiến
chung của nhân loại, nhận thức của Đảng về quyền con người được kế thừa và
nâng lên một bước. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng tháng 01
năm 2016 đã xác định phương hướng: Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính
sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo
tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Với việc đặt con người vào vị trí trung
tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của
công cuộc phát triển, đường lối, phương hướng đổi mới nêu trên của Đảng
không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận
thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua.


2
NỘI DUNG
1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân
1.1. Khái niệm quyền con người
Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ “quyền con người”, cịn có thuật ngữ
“nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh
“human rights”, mà nếu dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn
nếu dịch qua Hán - Việt là nhân quyền.


Xét về mặt ngôn ngữ học, theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người
và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa. Nhân quyền, ở góc độ khái quát nhất,
theo Liên hợp quốc, có thể hiểu là những gì bẩm sinh, vốn có của con người
mà nếu khơng được bảo đảm thì chúng ta sẽ khơng thể sống như một con
người.
Tại Việt Nam, dưới các góc độ khác nhau, cách hiểu và các tiếp cận
khác nhau, khái niệm quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên
cứu nêu ra cũng khơng hồn tồn giống nhau. Các định nghĩa được nêu ra
mặc dù cịn có những điểm khác nhau về nội dung và phương pháp tiếp cận,
song đã phản ánh một số đặc điểm chung của khái niệm quyền con người, cụ
thể như sau:
Một là, quyền con người là các quyền bẩm sinh thuộc sở hữu vốn có
của mọi người, nó gắn liền với hành động công nhận, thừa nhận chứ không
phải là ban phát, từ chối hay tước đoạt vô cớ.
Hai là, trung tâm của khái niệm quyền con người là khái niệm về phẩm
giá vốn có của mọi thành viên trong gia đình nhân loại.
Ba là, quyền con người là các quyền được áp dụng bình đẳng cho tất cả
mọi người mà khơng có sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính,
ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến, quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc địa vị xã
hội,...
Bốn là, quyền con người là các quyền được bảo đảm minh bạch về
pháp lý nhằm giúp cá nhân, các nhóm xã hội đạt được nhu cầu, lợi ích một


3
cách độc lập trên các lĩnh vực.
Năm là, quyền con người xác lập nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm của nhà
nước và xã hội.
Từ những đặc điểm nêu trên, xét chung: Quyền con người là các đặc
quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được

cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng
hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
1.2. Khái niệm quyền công dân
Cơ sở cho sự hình thành khái niệm quyền cơng dân bắt nguồn từ các xu
hướng chính trị - xã hội chủ yếu sau đây1: a) Cách mạng tư sản giải phóng con
người từ địa vị thần dân thành thành viên của xã hội công dân, thành công dân
nhà nước; b) Nội dung quyền con người phổ biến, đặc biệt là quyền tham gia
vào đời sống chính trị của mỗi cá nhân là thuộc phạm trù khái niệm quyền
công dân, hay nói cách khác, quyền tham gia vào đời sống chính trị trở thành
nội dung chủ yếu của quyền cơng dân; c) Mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ
giữa các công dân với nhau và giữa công dân với nhà nước được thực hiện
thông qua pháp quyền. Đây là các xu hướng tất yếu của quá trình hình thành
một chế độ xã hội mới tiến bộ, theo đó, địa vị pháp lý của cơng dân chính
thức được ghi nhận trong Hiến pháp và luật quốc gia; chế định quốc tịch ra
đời; nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật được công nhận.
Theo Từ điển Merriam Webster’s Collegiate Dictionary, “công dân (citizen) là
một thành viên của một nhà nước mà người đó có nghĩa vụ trung thành và
được hưởng sự bảo vệ”. Tương tự như thuật ngữ nhân quyền, đến nay, có rất
nhiều định nghĩa về quyền cơng dân (citizen’s right), tùy theo quan điểm,
cách hiểu, cách tiếp cận, đặc thù mỗi quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, theo
một nghĩa khái qt nhất, có thể hiểu: Quyền cơng dân là tổng hợp các quyền
và tự do cơ bản của mỗi cá nhân, tạo nên địa vị pháp lý của cá nhân trong
mối quan hệ với nhà nước thông qua chế định quốc tịch, được thừa nhận và
bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật của quốc gia.
2. Cơ sở hình thành quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.l, tr.548-558.


4
người, quyền công dân

Đường lối, quan điểm của Đảng về quyền con người xây dựng từ một
nền tảng lý luận vững chắc, trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, áp dụng một cách sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ khác nhau. Con người
và quyền con người luôn được chủ nghĩa Mác khẳng định và đề cao. C. Mác
cho rằng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”2 và vấn đề quyền con người phải được xem xét trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tiếp tục phát triển tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã
có đóng góp nổi bật vào hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác về quyền con
người, với tư tưởng về dân chủ và quyền dân tộc tự quyết.
Kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước
chân chính và thực tiễn cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
con người không giới hạn ở quyền cá nhân mà bao hàm cả quyền dân tộc.
Ngay từ những năm tháng bơn ba tìm đường cứu nước, người thanh niên
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhân dân Việt Nam nêu tám yêu sách gửi Hội
nghị Vécxây (tháng 6 năm 1919), yêu cầu chính quyền Pháp trả lại những
quyền tự do, dân chủ cơ bản cho người dân Việt Nam, trong đó có cải cách
nền pháp lý Đơng Dương, thay đổi chế độ sắc lệnh bằng luật pháp, người dân
Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền tự do báo chí, tư tưởng, tự do lập
hội, tự do cư trú ở nước ngoài, tự do học tập... Đến bản Tuyên ngơn độc
lập ngày 02/9/1945, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người đã có bước
phát triển mang tính cách mạng. Mở đầu với việc khẳng định những quyền cơ
bản mà tạo hóa ban cho mỗi con người và khép lại bằng lời tuyên bố trịnh
trọng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập” 3. Bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ là tuyên bố về
sự ra đời của một quốc gia có chủ quyền mà cịn là tuyên ngôn nhân quyền
của Nhà nước Việt Nam, trong đó thừa nhận các quyền cơ bản của con người;
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.628.
3 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.4.



5
đồng thời, lần đầu tiên, quyền cá nhân được mở rộng thành quyền dân tộc; và
quyền con người, sự bình đẳng của mỗi cá nhân được xem xét trong mối quan
hệ biện chứng với quyền dân tộc, đó là quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết.
Trên cơ sở truyền thống văn hóa và nền tảng lý luận Mác - Lênin, đồng
thời xuất phát từ mục tiêu cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng về
quyền con người đã được hình thành, bổ sung, nâng cao và từng bước hồn
thiện qua các giai đoạn.
Từ những văn kiện đầu tiên, Đảng xác định rõ mục tiêu cơ bản và lâu
dài của cách mạng là bảo đảm quyền con người cho người dân Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta thông qua tại Hội nghị hợp nhất
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 đã vạch ra đường lối
cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng người lao động, giải phóng xã hội, để người cày có ruộng,
người dân được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền. Cho đến khi đất nước
hồn tồn độc lập, tổng kết lại 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, một trong
bốn bài học kinh nghiệm được đúc kết tại Đại hội VI (năm 1986) là toàn Đảng
phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (tháng 6 năm 1991), trong đó khẳng định mục tiêu “xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” 4 đồng thời
“xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân”5.
Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
một lần nữa khẳng định quan điểm của Đảng ta về quyền con người được thể
hiện một cách tập trung và tồn diện hơn, trong đó quyền con người được
nhìn nhận là giá trị chung của nhân loại, là kết quả cuộc đấu tranh lâu dài của
4 Đảng Cộng sản VN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9,
19.

5 Đảng Cộng sản VN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9,
19.


6
lồi người. Do đó, giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội. Mặt khác, quyền không tách rời nghĩa vụ; dân chủ phải đi đôi
với kỷ cương. Với cách hiểu cơ bản về quyền con người như vậy, Đảng ta
khẳng định, quyền con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
Đại hội X của Đảng tiếp tục vạch ra đường lối phát huy dân chủ, khẳng
định “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đồng thời nhấn mạnh việc “xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân” 6. Đại hội XII
của Đảng khẳng định “Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo
đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến
pháp năm 2013”.
3. Nội dung các quan điểm của Đảng về đảm bảo quyền con người,
quyền công dân
Một là, quyền con người vừa có tính phổ biến vừa có tính đặc thù;
được thể hiện ở tính nhân loại gắn với tính giai cấp và tính dân tộc
Q trình hình thành, phát triển quyền con người có tính phổ biến tồn
nhân loại, chứ không phải là “phát hiện” đặc thù của riêng phương Tây.
“Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại
của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới và cũng là thành
quả của cuộc đấu tranh của loài người làm chủ thiên nhiên, qua đó, quyền con
người trở thành giá trị chung của nhân loại” 7. Con người thể hiện và khẳng
định quyền của mình thơng qua các mối quan hệ xã hội cụ thể. Vì thế, quyền
con người, một mặt, là giá trị phổ biến của nhân loại, bao hàm những quyền
và nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở mọi nơi, mọi đối tượng. Mặt khác,

quyền con người cịn mang tính đặc thù của mỗi giai cấp, dân tộc và quốc gia
theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hoá và truyền thống dân
tộc. Tuyên bố Viên và Chương trình hành động về quyền con người năm
6 Đảng Cộng sản VN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.125, 126.
7 Chỉ thị 12- CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 12-7-1992.


7
1993 đã khẳng định: “Tất cả các quyền con người đều mang tính phổ cập,
khơng thể chia cắt, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan đến nhau. Trong khi phải
luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau
về lịch sử, văn hố và tơn giáo, (thì) các quốc gia, khơng phân biệt hệ thống
chính trị, kinh tế, văn hố, có nghĩa vụ đề cao và bảo vệ tất cả các quyền con
người và các tự do cơ bản”8.
Do đó, nhất thiết khơng thể đối lập tính phổ biến với tính đặc thù của
quyền con người và ngược lại. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, quan điểm
kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù cịn là cơ sở phương pháp luận khoa học
để nhận thức và giải quyết đúng các vấn đề cụ thể về quyền con người trong
quan hệ quốc gia và quốc tế. Đây là phương châm cơ bản để bảo đảm “hội
nhập” mà “khơng hịa tan” trong lĩnh vực nhân quyền.
Hai là, nhân dân là chủ thể của quyền; bảo đảm quyền con người là
mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân”9. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 quy định “Nhà nước pháp quyền XHCN,
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” 10; nhân dân là chủ nhân của đất
nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, nhân dân là chủ
thể của quyền và việc bảo đảm quyền con người là mục tiêu, động lực của sự

nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, bảo đảm quyền con người theo phương châm thực hiện các giá
trị nhân quyền phổ quát trên cơ sở chủ quyền quốc gia
Quyền của các quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn chế độ chính trị,
lựa chọn con đường phát triển và chủ quyền quốc gia là những quyền phổ
8 Trung tâm Nghiên cứu quyền con người: Văn kiện quốc tế về quyền con người, tr.104.
9 Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76, 85.
10 Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76, 85.


8
biến được thừa nhận trong pháp luật quốc tế. Việc thực hiện các giá trị phổ
quát của quyền con người cơ bản diễn ra trong q trình chuyển hóa hay “nội
luật hóa” pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia. Ở nước ta, các giá trị phổ
quát của quyền con người đã được thể chế hóa trong Hiến pháp.
Việc bảo đảm quyền con người theo phương châm trên giúp mỗi cá
nhân được bảo đảm các quyền dân chủ, tự do cơ bản. Bảo đảm quyền và
nghĩa vụ cá nhân không được tách rời bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cộng
đồng. Bảo đảm quyền con người phải trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhân quyền quốc tế, như quyền bình
đẳng và tự quyết của các dân tộc, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia khác,... để loại trừ mọi mưu toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”
trên con đường phát triển đất nước.
Mặt khác, các tiêu chí nhân quyền của Liên Hợp quốc trong nhiều
trường hợp bị chi phối hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tiêu chí nhân quyền
của các nước phương Tây. Vì thế, nhằm thực hiện các giá trị phổ quát của
quyền con người trên cơ sở chủ quyền quốc gia, Việt Nam chủ động và tích
cực đối thoại, hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền, vừa giúp bạn bè quốc
tế hiểu hơn về thành tựu, quan điểm và giá trị nhân quyền của nước ta, vừa là

cơ hội học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc chuyển hóa pháp luật
quốc tế về nhân quyền vào pháp luật trong nước. Từ đó góp phần bảo đảm tốt
hơn các quyền con người ở Việt Nam, cũng như đóng góp vào sự nghiệp bảo
vệ, thúc đẩy nhân quyền trong khu vực và trên thế giới .
Bốn là, quyền con người không đồng nhất với quyền công dân, gồm cả
quyền tập thể và quyền cá nhân; quyền gắn liền với nghĩa vụ, giới hạn quyền
do luật định, trên cơ sở xác định rõ chủ thể quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo
đảm quyền
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thừa nhận quyền con
người là thuật ngữ độc lập so với thuật ngữ quyền công dân. Dựa trên luận
điểm “sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền” 11 của Nguyễn Ái Quốc, Nghị
11 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.491.


9
quyết Đại hội Quốc dân Tân Trào (16-8-1945) đã xác định phải: “Ban bố
những quyền của dân, cho dân: Nhân quyền, tài quyền (quyền sở hữu), dân
quyền; quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ...”.
Các Cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Hiến pháp năm 1992,
2013, các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội luôn nhất quán phân định rõ
quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định về hạn chế quyền nhằm bảo đảm thực
hiện quyền con người, quyền công dân một cách minh bạch, tránh sự cắt xén
hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện. Điều 6 Hiến pháp năm 2013
quy định: “1. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; 2.
Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”12.
Để bảo đảm quyền con người trong thực tế, việc thể chế hóa chủ thể
quyền và chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền có ý nghĩa rất quan trọng.
Đường lối, chủ trương của Đảng, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam xác định

và thể chế hóa nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; đồng thời xác định và thể chế hóa quyền của người dân trong
việc tham gia quản lý nhà nước, nhằm ràng buộc nghĩa vụ của Nhà nước đối
với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Khoản 2, Điều 119, Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” 13. Đây là
quy định có tính ngun tắc nhằm thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó
có các quyền con người đã được hiến định một cách hiệu quả.
Năm là, quyền con người gắn với các điều kiện phát triển kinh tế, xã
hội và văn hóa
Theo C.Mác (1818 - 1883) quyền “khơng bao giờ có thể ở mức cao hơn
chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quyết định”. Do
đó, khơng thể thúc đẩy nhân quyền bằng mọi giá, mà phải phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và con người. Chỉ như vậy mới khơng
12 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.9, 11, 80.
13Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.9, 11, 80.


10
làm tổn hại đến bản thân các quyền con người. Đây là tư tưởng chủ đạo quan
trọng trong giải quyết các vấn đề về quyền con người, nhằm tránh tình trạng
chủ quan, duy ý chí trong xây dựng pháp luật, cũng như tình trạng lạc hậu của
pháp luật so với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
Sáu là, bảo đảm sự bình đẳng giữa các quyền, có ưu tiên quyền của
các nhóm yếu thế, thiểu số và quyền phát triển
Tất cả các quyền đều gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau và không thể phân
chia; mọi chủ thể của quyền (cá nhân, nhóm xã hội, giới tính, dân tộc, chủng
tộc) đều có quyền ngang nhau trong việc thụ hưởng, phát triển quyền. Vì thế,
về nguyên tắc, phải bảo đảm quyền ngang nhau của mọi quyền; và bảo đảm
quyền ngang nhau của tất cả các chủ thể quyền. Những yếu tố bình đẳng trong
việc bảo đảm quyền con người từng bước được kết hợp, thẩm thấu vào việc

bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các chủ
thể quyền khác nhau trong xã hội. Trên cơ sở đó, ở mức độ nhất định, thực hiện
sự ưu tiên bảo đảm quyền phát triển và quyền an sinh xã hội, nhất là của các
nhóm yếu thế và thiểu số. Việc ưu tiên như vậy nhằm thúc đẩy việc bảo đảm
quyền ngang nhau về mặt pháp luật đối với các chủ thể quyền trên tất cả các lĩnh
vực quyền.
Bảy là, quyền con người được bảo đảm bằng chế độ dân chủ và Nhà
nước pháp quyền XHCN
Dân chủ là quyền lực xã hội của con người, được thể chế hóa cơ bản
theo nguyên tắc bảo đảm quyền cơng dân và quyền con người nói chung.
Quyền con người phải thông qua thể chế dân chủ mới được hiện thực hóa,
được mở rộng, bảo đảm gắn với q trình xây dựng, hồn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN và các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định: “Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc,
sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp


11
và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”14.
4. Vận dụng vào thực tiễn tại Đảng bộ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan thuộc Chính
phủ, được thành lập theo Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2018 của
Chính phủ. Ủy ban được Chính phủ giao thực hiện quyền, trách nhiệm của đại
diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ và phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định của pháp luật. Thực hiện
quy định nêu trên và quy định tại Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày
29 tháng 09 năm 2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Ủy
ban được giao trực tiếp làm đại diện chủ sở hữu của 19 tập đồn, tổng cơng ty
chuyển về từ các bộ.
Ngay sau khi Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được
thành lập, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối cơ quan Trung ương đã ban hành
Quyết định số 1262-QĐ/ĐUK ngày 09/4/2018 về thành lập Chi bộ Ủy ban
Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp với số đảng viên là 11 đồng chí. Đảng
bộ Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở
nâng cấp Chi bộ Ủy ban tại Quyết định số 1618-QĐ/ĐUK ngày 27/12/2018
của Đảng ủy Khối cơ quan Trung ương.
Triển khai thực hiện Chỉ thị 44-CT/TW, ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư
khóa X về “Cơng tác nhân quyền trong tình hình mới”, thời gian qua, Đảng
ủy Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các đảng ủy trực thuộc
đã tích cực và đạt được những một số kết quả cụ thể như sau:
4.1. Một số kết quả đạt được
- Một là, về công tác thông tin tuyên truyền
14 Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76, 85.


12
Ban Thường vụ Đảng ủy các tập đồn, tổng cơng ty và đơn vị trực
thuộc đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ, đảng bộ cơ sở, các đồn
thể chính trị xã hội trực thuộc thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền,
phổ biến những nội dung cơ bản của Hiến pháp 2013, Luật lao động, Luật
Doanh nghiệp, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân; phổ biến, giáo dục và thực
hiện pháp luật; các hình thức đấu tranh, phản bác các luận điệu vu cáo, xuyên

tạc về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Các đơn vị đã tuyên truyền bằng nhiều hình thức như dán panơ, áp
phích, khẩu hiệu và đăng bài trên báo, tạp chí, bản tin nội bộ về các hoạt
động, chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, về
chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Nhiều đơn vị đã tổ chức cho
cán bộ, đảng viên, công nhân viên nghe thời sự về tình hình Biển Đơng và
chủ trương xử lý, giải quyết của Đảng, Nhà nước ta, nâng cao tinh thần cảnh
giác, đối phó kịp thời với các thế lực thù địch, những phần tử xấu kích động,
đập phá tài sản, gây mất trật tự an ninh,...
- Hai là, thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước
Các tập đồn, tổng cơng ty trực thuộc đã nỗ lực vượt qua các khó khăn
để thực hiện vai trị là cơng cụ vật chất quan trọng để Đảng, Nhà nước đảm
bảo các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mơ, kiềm chế lạm phát,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trong năm vừa qua, các
doanh nghiệp chuyển về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp từ
các bộ vừa duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời vừa tập trung
thực hiện nhiệm vụ cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Tổng kết năm 2019, đa số các
tập đồn, tổng cơng ty đã hồn thành được kế hoạch sản xuất, kinh doanh và
các chỉ tiêu do Ủy ban giao; doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, thu nhập
bình quân của người lao động tăng lên; vốn nhà nước đầu tư vào doanh


13
nghiệp được bảo toàn và phát triển. Một số tập đồn, tổng cơng ty đạt kết quả
tiêu biểu như: Tập đồn Dầu khí Việt Nam, Tập đồn Cơng nghiệp Than Khống sản, Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam, Tổng công ty Hàng
không Việt Nam, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Tổng công ty
Viễn thông MobiFone. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cụ thể
như sau: Tổng doanh thu của 19 tập đoàn, tổng công ty đạt 1.478.949 tỷ đồng,

tăng 6,4% so với năm 2018; 16/19 tập đồn, tổng cơng ty đã có báo cáo lợi
nhuận trước thuế với tổng số đạt 99.832 tỷ đồng, bằng 128% kế hoạch năm.
18/19 tập đồn, tổng cơng ty đã có báo cáo đã có báo cáo số nộp ngân sách
nhà nước, tổng số đạt 221.108,68 tỷ đồng, tăng 17,6% so với năm 2018.
Ngoài ra, các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp cũng luôn đi đầu trong thực hiện Nghị quyết
30a/NQ-CP của Chính phủ và các hoạt động an sinh xã hội, trong đó tập trung
vào phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục,
y tế, hỗ trợ hộ nghèo; phụng dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, thực hiện chương
trình tơn tạo, tu bổ nghĩa trang liệt sỹ; đào tạo dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu
nhập, chăm sóc sức khỏe nhân dân,...
Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, trong thời gian qua,
các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
cũng đã chủ trì, phối hợp thực hiện nhiều chương trình đền ơn đáp nghĩa, hỗ
trợ xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, người
già neo đơn và trao hàng nghìn suất học bổng hỗ trợ học sinh, sinh viên khó
khăn,...
Thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, những năm qua,
các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
đã tích cực tham gia nhiều hoạt động phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh,
quốc phòng khu vực biển, đảo của Tổ quốc, như đầu tư triển khai các dự án
kinh tế trong vùng lãnh hải, khẳng định chủ quyền của Việt Nam, tổ chức các
đoàn đại biểu ra thăm, tặng quà cho cán bộ và chiến sỹ đang làm nhiệm vụ


14
trên đảo, ủng hộ kinh phí để xây dựng các cơng trình nhà văn hóa, sở chỉ huy,
cơng trình điện, nước, viễn thông, trường học phục vụ công tác và sinh hoạt
trên các đảo tiền tiêu, với tổng giá trị hàng nghìn tỷ đồng.
Các đảng ủy trực thuộc đã lãnh đạo doanh nghiệp, đơn vị bên cạnh việc

thực hiện tốt công tác an sinh xã hội đối với cộng đồng, còn thường xuyên
đầu tư, chăm lo, bảo đảm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người lao động trong đơn vị. Qua đó tạo niềm tin, sự gắn bó
chặt chẽ của người lao động với quá trình xây dựng và phát triển doanh
nghiệp, khơng để xảy ra tình trạng đình cơng, lãn cơng, tranh chấp lao động,
khiếu kiện phức tạp ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa
phương nơi đơn vị đứng chân.
Ba là, kết quả xây dựng và triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được duy trì triển khai thực
hiện ở tất cả các đơn vị, doanh nghiệp trực thuộc Đảng bộ Ủy ban Quản lý
vốn nhà nước tại doanh nghiệp trên cơ sở bám sát nội dung chỉ đạo của Trung
ương tại Kết luận số 65-KL/TW, Kết luận 120-KL/TW, Chỉ thị số 09KL/ĐUK, Nghị định số 60/2013/NĐ-CP về thực hiện dân chủ tại nơi làm
việc, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp; gắn việc thực hiện Quy
chế dân chủ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp, đơn vị.
Nghị định số 60/2013/NĐ-CP về thực hiện dân chủ ở nơi làm việc đã và đang
được các doanh nghiệp triển khai thực hiện có nề nếp hơn. Việc ban hành
mới, hoặc sửa đổi bổ sung Quy chế dân chủ ở cơ sở, Quy chế đối thoại định
kỳ tại nơi làm việc, Quy chế Hội nghị người lao động; quy chế, quy định khác
nhằm cụ thể hóa việc thực hiện Quy chế dân chủ đã được chỉ đạo, quan tâm
đúng mức. Ngoài ra, lãnh đạo doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp đã nghiêm túc thực hiện công khai, minh bạch:
Quy chế hoạt động của Hội đồng thành viên; Quy chế quản lý tiền lương, tiền


15
thưởng, Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy chế trả lương áp dụng đối với công
nhân viên chức tại công ty mẹ, Quy chế khen thưởng cho người lao động trực
tiếp sản xuất kinh doanh,…

Việc tổ chức Hội nghị người lao động và ký kết Thỏa ước lao động tập
thể được thực hiện đều đặn, nề nếp hằng năm, phần lớn các đơn vị, doanh
nghiệp trong Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp tổ chức Hội nghị
người lao động từ quý I của năm, bắt đầu từ cấp tổ, bộ phận, đội sản xuất đến
tập đoàn, tổng công ty. Tại Hội nghị người lao động, công nhân, viên chức,
người lao động được trực tiếp hoặc gián tiếp, thơng qua tổ chức cơng đồn
tham gia ý kiến với lãnh đạo doanh nghiệp về phương hướng, nhiệm vụ, kế
hoạch sản xuất kinh doanh, các nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện; đánh
giá kết quả thực hiện thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, đồng thời
người lao động được tham gia ý kiến sửa đổi, bổ sung quy chế dân chủ ở cơ
sở, nội quy lao động và các quy chế quản lý nội bộ khác có liên quan đến
quyền lợi của người lao động…; mọi ý kiến, kiến nghị về chế độ chính sách,
tiền lương, tiền thưởng, về cải thiện điều kiện lao động,…được nêu ra thảo
luận và được giải đáp tại chỗ.
Việc đối thoại định kỳ tại nơi làm việc được đảng ủy các tập đồn, tổng
cơng ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chỉ đạo thực
hiện nghiêm túc từ cấp tập đồn, tổng cơng ty đến các đơn vị cơ sở. Ngồi ra
có khơng ít các doanh nghiệp, đơn vị ở cơ sở cấp ủy, giám đốc doanh nghiệp
coi việc đối thoại là nhiệm vụ thường xuyên khi có u cầu từ phía người lao
động.
Việc tham gia giám sát và giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của cán
bộ, cơng nhân viên chức, người lao động có nội dung liên quan đến việc thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động
của Ban thanh tra nhân nhân, Ủy ban kiểm tra cơng đồn, hoạt động tư vấn
pháp luật của tổ chức cơng đồn và Cơ quan ủy ban kiểm tra của đảng ủy,


16
theo trình tự từ dưới lên. Nhiều đơn vị đã quan tâm, chú trọng việc tổ chức
tiếp dân và giải quyết những ý kiến, kiến nghị, thắc mắc của người lao động.

Qua thực tiễn, tại các doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà
nước tại doanh nghiệp, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, công khai minh
bạch các chế độ chính sách bằng các quy chế, quy định rõ ràng, cụ thể đã góp
phần quan trọng ổn định tư tưởng, đời sống cán bộ công nhân viên chức,
người lao động; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;
củng cố niềm tin của người lao động đối với lãnh đạo doanh nghiệp; người
lao động tin tưởng và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của và Đảng,
Nhà nước.
- Bốn là, kết quả hoạt động nắm bắt tình hình tư tưởng và dư luận xã
hội
Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp ln duy trì hội nghị
giao ban mỗi q một lần, thông qua hội nghị giao ban đã giúp cho việc nắm
bắt tình hình tư tưởng và dư luận xã hội tại các tập đồn, tổng cơng ty trực
thuộc được thường xuyên và kịp thời, qua đó giải quyết tốt những điểm nóng,
định hướng dư luận xã hội, ngăn chặn những vấn đề phức tạp có thể nảy sinh,
nhất là vấn đề khiếu kiện, các vụ việc liên quan đến tôn giáo, dân tộc; kiên
quyết không để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, can thiệp, kích động
gây rối an ninh trật tự trong doanh nghiệp và trên địa bàn.
4.2. Một số tồn tại, hạn chế
- Việc phổ biến, quán triệt Chỉ thị 44-CT/TW của Ban Bí thư về cơng
tác nhân quyền trong tình hình mới đến tồn thể cán bộ, đảng viên và người
lao động ở một số đơn vị chưa có chiều sâu và liên tục, chưa tạo ra sự thống
nhất về nhận thức và hành động của tồn hệ thống chính trị trong cơng tác bảo
vệ và đấu tranh về nhân quyền.
- Công tác nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện bảo vệ và đấu tranh về
nhân quyền chưa được tiến hành thường xuyên. Một số nơi thực hiện quy chế
dân chủ chưa nghiêm, gây thắc mắc trong cán bộ, đảng viên, người lao động.


17

4.3. Một số giải pháp trong thời gian tới
- Quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng
viên, người lao động nhận thức sâu sắc về quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân,
của người lao động; phổ biến, giáo dục và thực hiện pháp luật; các hình thức
đấu tranh, phản bác các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về tình hình nhân quyền ở
Việt Nam. Nâng cao ý thức trách nhiệm trong công tác nhân quyền, gắn với
nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự đối với toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao
động.
- Triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, không ngừng cải thiện đời sống
của người lao động; tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 30a/NQ-CP của Chính
phủ; cơng tác an sinh xã hội, chính sách đối với các địa bàn chiến lược, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người; thực hiện các chính sách về dân
tộc, tôn giáo, đất đai, lao động với nhóm người dễ bị tổn thương trong cơ chế
thị trường. Triển khai thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội.
- Duy trì hoạt động giao ban nắm bắt tình hình tư tưởng và dư luận xã
hội, để ngăn chặn kịp thời các âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của
các thế lực lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo để
chống phá nước ta; giải quyết kịp thời những điểm nóng, phức tạp, các vụ
việc liên quan đến tôn giáo, dân tộc, không để các thế lực thù địch lợi dụng,
xuyên tạc, can thiệp, kích động gây rối an ninh trật tự trong doanh nghiệp và
trên địa bàn.


18
KẾT LUẬN
Trong mỗi thời kỳ lịch sử cách mạng ở Việt Nam, việc bảo đảm quyền
con người mang những nội dung khác nhau. Nhưng có thể khẳng định thời

gian qua, Việt Nam đã nỗ lực và đạt nhiều thành tựu quan trọng trong việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, thực hiện các khuyến nghị
quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam chấp thuận thông qua các cơ chế của
Liên Hợp quốc; bảo đảm vững chắc các quyền và tự do của con người, góp
phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu thực hiện quyền con người, vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức. Đảng ta đã xác định vị trí, tầm quan trọng
của vấn đề quyền con người trong q trình phát triển đất nước, song cơng tác
nghiên cứu lý luận nhiều vấn đề có liên quan đến quyền con người trong q
trình đổi mới cịn chưa được làm sáng rõ, hệ giá trị mới về quyền con người
cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Đảng cũng đã ban hành nhiều nghị quyết
trên nhiều lĩnh vực liên quan đến bảo đảm quyền con người, từ chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội đến các nhóm xã hội cụ thể nhưng chỉ đạo về
quyền con người vẫn còn chưa nhiều, còn chậm và chưa tạo ra được sự
chuyển biến lớn trong nhận thức của người dân về vấn đề này.
Dù còn nhiều thách thức, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng và sự đồng
thuận, đoàn kết của nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng người dân Việt Nam sẽ
ngày càng được thụ hưởng tốt hơn quyền con người và thành quả của công
cuộc phát triển đất nước. Đất nước Việt Nam sẽ tiếp tục là thành viên có trách
nhiệm và đóng góp tích cực vào hoạt động của các cơ quan Liên Hợp quốc về
quyền con người.


19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý
luận chỉnh trị: Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.Lý luận chính
trị, H.2018.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002,
tr.548-558.

3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995,
t.4, tr.628.
4. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995, tr.4.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995, tr.491.
6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.Chính trị
quốc gia, H.2016, tr.9, 11, 80.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.9, 19.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.125, 126.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76, 85.
10. Chỉ thị 12-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ngày 12-71992.
11. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu
quyền con người: Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb.Chính trị
quốc gia, H.1998, tr.104.



×